Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 03: Kinh Tiểu Không giải nghĩa

25/07/201818:35(Xem: 1997)
Bài 03: Kinh Tiểu Không giải nghĩa

KINH

TIỂU KHÔNG
(Cùlasunnata sutta)

Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

GIẢI NGHĨA

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

6. PHI TƯỞNG

PHI PHI TƯỞNG:

 

- Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý Thức vô biên xứ tưởng, không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tâm vị ấy được thích thúhân hoanan trú, hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. 

 

     Nghĩa là vị ấy không chú tâm nhớ đến “Chỗ Nhận biết không tận cùng”, không chú tâm nhớ đến “Chỗ Trống không”, mà chỉ một lòng chú tâm đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ nhớ chẳng không nghĩ nhớ” (Phi tưởng phi phi tưởng xứ) mà thôi; tức là dùng tính tịch tĩnh của tính thức để dứt trừ sự suy gẫm, thành ra ở nơi vô tận lại tỏ bày tính tận, không tưởng lại bày có tưởng, đây là xét cái không nhưng chẳng tột lý không. Vị ấy vui thích an định tâm hướng đến “Chỗ, ở đó Không có nghĩ nhớ chẳng không nghĩ nhớ”.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng”. Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng”.

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ rằng các lo buồn về “Chỗ Nhận biết không tận cùng” không có, các lo buồn về “Chỗ Trống không” cũng không có. Và chỉ có một lo buồn không phải là không có, đó là duy nhất nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ nhớ chẳng không nghĩ nhớ” (Phi tưởng phi phi tưởng xứ).

 

Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.

     Nghĩa là cái gì không nghĩ đến (không có mặt), vị ấy coi như không có, nhưng đối với cái nghĩ đến (cái còn lại), vị ấy am hiểu rằng “Có cái này, có cái kia”, là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh).

 

Đức Phật nói: “Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không có tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tác ý sự nhất trí do duyên Vô tướng tâm định Tâm; vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định”

 

     Nghĩa là vị ấy không chú tâm nghĩ nhớ đến “Chỗ Trống rỗng” (Vô sở Hữu Xứ), không nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng). Chỉ chú tâm duy nhất nghĩ đến “Tâm không hình dạng dung mạo” (Vô tướng tâm định), tức là không chấp thật, cảnh giới do sáu căn tiếp xúc sáu trần, ví như không chấp thật khi thấy hình ảnh đẹp hay xấu, không chấp thật khi nghe tiếng khen hay chê v.v…. Vị ấy vui thích an định hướng đến “Tâm không hình dạng dung mạo”.

 

     Ở đây có sự khác biệt về từ ngữ: Kinh Tiểu Không Nam Truyền (Pali) này nói “Vô tướng tâm định”, còn Kinh Tiểu Không Bắc truyền (Sankrist) nói “Vô tưởng tâm định”, nhưng xét về ý thì không sai biệt, vì “Vô tướng” tức là không có hình tướng dung mạo các pháp trong tâm, tức là trong tâm trống rỗng. Còn “Vô tưởng” thì không nghĩ nhớ đến các pháp, mà không nghĩ nhớ các pháp thì trong tâm cũng trống rỗng, do không có hình tướng dung mạo các pháp vậy.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây, các ưu phiền do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có mặt ở đây; và chỉ có một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ các lo buồn về “Chỗ Trống rỗng” không được nghĩ đến (không có mặt ở đây), các lo buồn về “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” không được nghĩ đến; chỉ có một lo buồn về Sáu nhập là Sắc đối với Mắt, Thanh đối với Tai, Hương đối với Mũi, Vị đối với Lưỡi, Xúc đối với Thân thể, Pháp đối với Ý, hiện diện mà thôi. Tại sao lại lo buồn?

 

     Vì khi Mắt thấy hình dạng dung mạo (Sắc), Nhãn thức liền sinh khởi chấp thật đẹp yêu, xấu ghét, rồi nghĩ cách chiếm đoạt hoặc tránh né, nên ra gây buồn phiền. Khi Tai nghe lời nói âm thanh, liền sinh khởi chấp thật là hay thì ưa, dở thì chê, rồi tìm cách cho có hoặc dứt bỏ, nên tạo ra lo buồn. Đối với Mũi ngửi Mùi, Lưỡi nếm Vị, Thân tiếp cận (Xúc), Ý nhớ nghĩ hình ảnh âm vang cảm giác (Pháp) cũng gây ra lo buồn tương tự như vậy cả.

 

Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng; và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ loại này không có nghĩ đến “Chỗ Trống không” (Vô Sở Hữu Xứ Tưởng). Vị ấy biết rõ loại này không có nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng); và chỉ có một cái không phải không có, đó là “Sáu nhập của Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đối với Sáu Căn là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, và Ý” (Sáu nhập duyên mạng).

 

Cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có; nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.

 

     Nghĩa là cái gì không nghĩ đến (không có mặt ở đây) coi là không có, nhưng đối với cái nghĩ đến (cái còn lại), vị ấy biết rõ “cái này có, cái kia có” là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh).

 

     Không Tính đây là đối với hai loại nghĩ, đó là “Chỗ Trống không” (Vô sở hữu xứ tưởng) và “Chỗ, ở đó không nghĩ chẳng không nghĩ” (Phi tưởng phi phi tưởng), chứ không phải là đối với “Sáu nhập của Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đối với Sáu Căn là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, và Ý” (Sáu nhập duyên mạng).  Vì vậy Đức Phật nói cái “vô tướng tâm định” này là hữu vi ở dưới đây.

 

7. VÔ TƯỚNG TÂM ĐỊNH

 (Còn tiếp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567