Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Phẩm Thánh Hạnh

07/06/201114:12(Xem: 3807)
19. Phẩm Thánh Hạnh

KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

XIX
PHẨMTHÁNH HẠNH THỨ MƯỜI CHÍN

(Hánbộ trọn quyển 11, 12 và 13)

Trang01

Phậtbảo ca-Diếp Bồ-tát: “Đại Bồ-Tát phải nên ở nơikinh Đại-Niết- Bàn nầy chuyên tâm tư duy năm thứ hạnh :Một là thánh hạnh, hai là phạm hạnh, ba là thiên hạnh,bốn là anh-nhi-hạnh, năm là bịnh hạnh.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát thường nên tu tập năm thứhạnh nầy. Lại có một hạnh, chính là Như-Lai hạnh, cũngchính là kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

ĐạiBồ-Tát tu thánh hạnh thế nào ? Đại Bồ-Tát hoặc từ Thanh-Văn,hoặc từ đức Như-Lai đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn như vậy,nghe xong sanh lòng tin, tin xong nên suy nghĩ như vầy : Chư PhậtThế-Tôn có đạo vô thượng, có chánh pháp lớn, có chánhhạnh cho đại chúng, lại có kinh điển Phương-đẳng Đại-thừa,nay ta nên vì ưa thích mong cầu kinh Đại-thừa mà bỏ lìavợ con, quyến thuộc, nhà cửa, vàng bạc, châu báu, chuỗingọc tốt đẹp, hương hoa, kỹ nhạc, tôi trai, tớ gái, voingựa, xe cộ, trâu dê, gà chó, heo lợn. Lại nghĩ thế này,ở nhà ràng buộc như lao ngục, do đó mà sanh tất cả phiềnnão. Xuất gia khoảng khoát như hư không, tất cả pháp lànhnhơn đây được tăng trưởng. Nếu ở nhà chẳng đặng trọnđời tu phạm hạnh, nay ta phải nên cạo bỏ râu tóc, xuấtgia học đạo vô thượng.

LúcBồ-Tát muốn xuất gia như vậy, Thiên-ma Ba-tuần rất lo khổ,nói rằng : Bồ- Tát nầy lại sẽ cùng ta sanh sự chiến tranhlớn.

NấyThiện-nam-tử ! Bồ-Tát nầy ở nơi chỗ nào lại sẽ cùngngười chiến tranh ? Bồ-Tát nầy qua đến tăng phường nếuthấy Như-Lai và hàng đệ tử oai nghi đầy đủ, thân tâmtịch tịnh, lòng liền nhu hòa thanh tịnh mà cầu xuấtgia, cạo bỏ râu tóc mặc ba pháp y.
Xuấtgia xong tuân giữ giới cấm, oai nghi chẳng thiếu, cử chỉan lành không có sai phạm, nhẫn đến tội nhỏ cũng sanh lòngsợ sệt, tâm hộ giới như kim cương.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như có người đeo trái nổi muốn lộiqua biển lớn. Trong biển có quỉ La-sát theo người đó đểxin trái nổi. Người đó nghĩ rằng : Nếu ta cho nó quyếtđịnh phải chìm chết. Nghĩ rồi đáp rằng : Nầy La-Sát,thà ngươi giết ta, chớ ta không thể cho trái nổi được.

La-Sátlại nói : Nếu ông chẳng cho hết, thời cho ta phân nửa. Ngườiấy vẫn không cho. La-Sát lại xin một phần ba, không được,lại xin một mãnh bằng bàn tay, nhẫn đến xin chừng bằnghột bụi. Người nầy đáp rằng : Nhà ngươi dầu xin rấtít, nhưng hiện nay ta cần phải lội qua biển, chẳng biếtđường còn xa hay gần. Nếu ta cho ngươi một ít, trái nổisẽ xì hơi, làm sao qua được biển lớn, có thể sẽ bịchìm chết giữa đường.

NầyThiện-nam-tử ! Bồ-Tát hộ trì cấm giới cũng như vậy. LúcBồ-Tát hộ giới, thường có phiền não bảo Bồ-Tát rằng: Ông nên tin tôi trọn chẳng dối nhau, chỉ phá bốn giớitrọng, giữ gìn những giới khác sẽ được an ổn nhập Niết-bàn.Lúc đó Bồ-Tát nên nghĩ rằng : Thà ta giữ gìn giới cấmmà đọa A-tỳ địa-ngục, quyết chẳng hủy phạm mà sanhtrên cõi trời. Phiền não lại nói : Ông nếu chẳng phá bốngiới trọng, thời nên phá tăng tàng, sẽ được an ổn nhậpNiết-bàn. Bồ- Tát không bằng lòng.

Phiềnnão lại bảo : Ông nếu chẳng phạm tăng tàng, cũng nên phạmtội thâu-lan- giá, thời đặng an ổn nhập Niết-bàn.

Bồ-Tátcũng chẳng nghe theo.

Phiềnnão lại bảo : Ông nếu chẳng thể phạm thâu-lan-giá, nênphạm xả- đọa thời nên an ổn nhập Niết-bàn.

Bồ-Tátcũng chẳng nghe theo.

Phiềnnão lại bảo : Ông nếu chẳng thể phạm xả-đọa nên phạmba-dật-đề sẽ đặng an ổn nhập Niết-bàn.

Bồ-Tátcũng chẳng nghe theo.

Phiềnnão lại bảo : Ông nếu chẳng thể phạm ba-dật-đề, thờinên phạm đột kiết- la, do đây được an ổn nhập Niết-bàn.

Bồ-Tátvẫn không nghe theo, tự nghĩ rằng : Nay nếu ta phạm tộiđột-kiết-la, mà chẳng phát-lồ, thời không thể qua khỏibiển sanh tử đến bờ Niết-Bàn được. Bồ- Tát đối vớitội rất nhỏ trong giới luật, giữ gìn bền chắc, tâm nhưkim cương. Bồ- Tát đối với bốn giới trọng cùng đột-kiết-la,giữ gìn kính trọng như nhau không khác.

Bồ-Tátnếu có thể bền giữ giới luật như vậy, thời là đầyđủ năm chi giới : Một là đầy đủ giới nghiệp thanh tịnhcăn bổn của Bồ-Tát; hai là những giới thanh tịnh khác,quyến thuộc của giới trước giới sau; ba là giới giác quánthanh tịnh, chẳng phải những ác giác; bốn là giới niệmthanh tịnh hộ trì chánh niệm; năm là giới hồi hướng vôthượng chánh đẳng chánh giác.

NầyThiện-nam-tử ! Bồ-Tát đây lại có hai thứ giới : Mộtlà giới thọ thế- giáo; hai là giới đặng chánh pháp. Bồ-Tátnếu thọ giới chánh pháp thời trọn chẳng làm ác. Nếu thọgiới thế giáo, thời bạch tứ Yết-Ma, rồi sau mới đặng.

NầyThiện-nam-tử ! Lại có hai thứ giới : Một là giới-tánh-trọng,hai là giới dứt sự cơ- hiềm thế gian. Giới-tánh-trọngtức là bốn giới trọng. Giới dứt cơ-hiềm thế gian là chẳng buôn bán, cân thiếu, giạ non, khi dối người, cậythế lực người để lấy tài vật của kẻ khác, áctâm trói buộc người, phá hoại sự thành công của người,thắp đèn sáng mà nằm, ruộng nương gieo trồng, gia nghiệpbuôn bán. Chẳng chứa voi ngựa, xe cộ, trâu, dê, đà, lừa,gà, chó, khỉ , vượn, chim công, chim két, chim cộng mạng,cùng chim câu-chỉ-la, cọp, beo, chó sói, mèo, chồn, heo lợn,và những ác thú khác. Chẳng chứa đồng nam, đồng nữ, đạinam, đại nữ, tôi tớ, vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chơn châu,xa cừ, mã não, san hô, bích ngọc, kha bối, các thứ châu báu,đồng cỏ, thiếc nhôm, thau, chì, những thứ chén bát to lớn.Chẳng chứa áo lông, áo cừu, áo da, tất cả lúa, gạo nếp,mè, bắp, đậu, những đồ đựng món ăn sống, đồ đựngmón ăn chín. Thường ăn một bữa, chẳng từng ăn hai lần.Thường đi khất thực và thọ thực trong chúng Tăng, thườngbiết vừa đủ. Chẳng thọ thỉnh riêng, chẳng ăn thịt, chẳnguống rượu, loại ngũ tân tánh nồng đều chẳng ăn, vì thếnên thân Bồ-Tát chẳng có hôi hám. Thường được chư Thiêntất cả người cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán.Ăn vừa đủ trọn chẳng lãnh thọ của dư. Nhận lấy y phụcvừa đủ che thân. Thường dùng ba y, bát, tọa cụ, trọn chẳng xa lìa như hai cánh chim. Chẳng chứa các thứ củ, cọng,mắt, hột, trái, các loại hột. Chẳng chứa của báu hoặcvàng, hoặc bạc, kho bếp chứa đồ ăn, áo xiêm thêu vẽ,giường rộng, cao lớn giừơng ngà, giường vàng, mùng mànnhiều màu, đều chẳng ngồi nằm. Chẳng chứa tất cả thứchiếu, mềm nhuyễn. Chẳng ngồi yên voi, yên ngựa. Chẳngdùng áo xiêm mịn nhuyễn tốt đẹp để trải giường nằm.Trên giường ngủ nghỉ chẳng để hai gối, cũng chẳng nhậnchứa gối đỏ tốt đẹp, gối cây lộng chạm. Trọn chẳngnhìn xem đua voi, đua ngựa, đua xe, diễn binh, cũng chẳng coixem hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, dê, gà, chim trĩ, chim két,đánh đá nhau. Cũng chẳng cố ý đi xem binh trận. Cũng chẳngcố ý nghe thổi ốc , thổi sừng, tiếng đờn cầm, đờnsắt, đờn tranh, ống địch, không hầu, ca ngâm, các thứkỹ nhạc, trừ khi cúng dường Phật. Trọn chẳng xem chẳnglàm tất cã những sự chơi đùa cờ bạc. Chẳng coi tướngtay chân mặt mắt, chẳng bói quẻ, xủ quẻ. Chẳng ngướcxem hư không tinh tú, trừ khi muốn giải sự buồn ngủ. Chẳnglàm sứ mạng cho nhà vua. Cũng chẳng đem lời người nầytruyền đến người kia, lời người kia truyền đến ngườinầy. Chẳng dua nịnh tà mạn để nuôi sống. Chẳng tuyênnói những việc của vua của quan, của kẻ trộm cướp, việckiện cáo, việc uống ăn trong nước, trong xứ thất mùa đóikhát, những việc khủng bố, những việc đặng mùa an ổn.Đây gọi là giới dứt sự cơ hiềm trong đời của Đại-Bồ-Tát.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát giữ gìn kỹ những điều giớingăn chế như vậy đồng như giữ gìn những giới tánh trọng.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát thọ trì những giới cấm nhưvậy rồi lại nguyện rằng : Thà đem thân nầy nhảy vào tronghầm lửa, trọn chẳng hủy phạm giới cấm của chư Phậtba đời mà cùng tất cả người nữ làm điều bất tịnh.Lại nguyền thà lấy sắt nóng vấn nơi thân, trọn chẳngdám đem thân phá giới để thọ y phục của tín tâm đànviệt. Lại nguyện thà nuốt hòn sắt cháy đỏ, trọn chẳngdám đem thân phá giới ăn các thực vật của tín tâm đànviệt. Lại nguyện thà đem thân nầy nằm trên sắt nóng trọnchẳng đem thân nầy thọ giừơng chiếu của tín tâm đànviệt. Lại nguyện thà đem thân nầy chịu ba trăm mũi mâuđâm, trọn chẳng dám đem thân phá giới thọ thuốc men củatín tâm đàn việt. Lại nguyện thà đem thân nầy nhảy vàovạc sắt nóng, chẳng dám đem thân phá giới thọ phòng nhàcủa tín tâm đàn việt. Lại nguyện thà dùng chùy sắt đậpnát thân nầy từ đầu đến chân nát như tro bụi, chẳngđem thân phá giới thọ sự cung kính của mọi người. Lạinguyện thà dùng sắt nóng khoét đôi mắt, chẳng dùng nhiễmtâm nhìn sắc đẹp của người. Lại nguyện thà dùng dùisắt đâm thủng lỗ tai, chẳng dùng nhiễm tâm nghe tiếng haygiọng tốt. Lại nguyện thà dùng dao bén cắt bỏ lỗ mũi,chẳng dùng nhiễm tâm tham ngữi những mùi thơm. Lại nguyệnthà dùng dao bén cắt rách lưỡi mình, chẳng dùng nhiễm tâmtham vị ngon ngọt. Lại nguyện rằng thà dùng búa bén chặtchém thân thể, chẳng dùng nhiễm tâm tham chạm xúc êm dịu.Vì những sự trên đây có thể làm cho nhà tu hành đọa địangục, súc sanh, ngả-quỉ. Đây gọi là Đại-Bồ-Tát hộ trìcấm giới.

ĐạiBồ-Tát hộ trì những cấm giới như vậy rồi, đều đembố thí cho tất cả chúng sanh, nguyện cho chúng sanh hộ trìcấm giới, đặng giới thanh tịnh, giới thiện, giới chẳngthiếu, giới chẳng phân tích, giới đại-thừa, giới bấtthối, giới tùy thuận, giới rốt ráo, thành tựu đầy đủgiới ba-la-mật.

NầyThiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát lúc tu trì giới thanh tịnh nhưvậy liền đặng trụ bậc sơ-bất-động. Thế nào gọi làbậc bất-động ? Bồ-Tát trụ trong bậc bất-động nầy thờichẳng động, chẳng đọa, chẳng thối, chẳng tán.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như núi Tu-di, gió trốt gió bão, không thểlàm lay động sụp đổ tan nát được. Cũng vậy, Đại-Bồ-Táttrụ trong bậc nầy, chẳng bị sắc, thinh, hương, vị, xúc,làm động, chẳng đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ, chẳnglui xuống bậc Thanh-Văn, Bích-Chi Phật, chẳng bị dị-kiếntà phong làm tan, mà theo tà mạn để nuôi sống.

Lạibất động là chẳng bị tham dục, sân khuể, ngu si làm động.Lại bất đọa là chẳng đọa bốn tội trọng. Lại bấtthối là chẳng lui bỏ giới để hoàn tục. Lại bất tánlà chẳng bị người trái nghịch kinh Đại-thừa làm tan hoại.

ĐạiBồ-Tát cũng chẳng bị các ma phiền não làm lay động, chẵngbị ma ngũ ấm làm đọa. Nhẫn đến ngồi nơi cội cây bồ-đềđạo tràng dầu có Thiên-ma chẳng thể làm Bồ-Tát thối bỏvô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng chẳng bị ma chếtlàm tan.

NầyThiện-nam-tử ! Đây gọi là Bồ-Tát tu tập Thánh-hạnh. Thếnào gọi là Thánh- hạnh ? Vì là chổ thật hành củaPhật và Bồ-tát nên gọi là Thánh-hạnh. Do cớ chi Phật vàBồ-Tát gọi là Thánh- nhơn ? Vì những bậc nầy có Thánh-pháp,vì thường quán các pháp thể tánh không tịch, do nghĩa nầynên gọi là Thánh- nhơn. Lại vì có thánh giới, thánh định,thánh huệ, nên gọi là thánh nhơn. Lại vì có bảy thánh tài: Tín, giới, tàm, quí, đa văn, trí huệ, xả ly, nên gọi làthánh nhơn. Lại vì có bảy thánh giác nên gọi là thánh nhơn.Do nghĩa nầy nên lại gọi là thánh hạnh.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát thực hành thánh hạnh, quán sátthân nầy từ đầu đến chân trong đó chỉ có tóc, lông,móng, răng, hôi dơ chẳng sạch, da, thịt, gân, xương, tỳ,thận, tâm, phế, gan, mật, bao tử, ruột non, ruột già, tiểutiện, đại tiện, nước mũi, nước miếng, nước mắt, óc,tũy, mủ, máu, mạch lạc. Lúc Bồ- Tát chuyên tâm quán sátnhư vậy : Cái gì là ngã, ngã thuộc về cái gì ? Ngã ở chổnào ? Cái gì thuộc về ngã ? Lại nghĩ rằng : Xương có phảilà ngã chăng ? Hay rời xương là ngã ? Lúc đó Bồ-Tát trừbỏ da thịt chỉ quán sát xương trắng lại suy xét sắc tướngcủa xương sai khác, là xanh, vàng, đỏ, trắng, xanh đen,xương như vậy cũng chẳng phải ngã, vì ngã chẳng phải xanh,vàng, đỏ, trắng và xanh đen. Lúc Bồ-Tát chuyên tâm quánsát như vậy, liền dứt trừ đặng tất cả sắc dục. Lạinghĩ rằng : Những xương như vậy đều từ nhơn duyên màsanh. Nhờ xương bàn chân để gắn xương mắt cá do xươngmắt ca để gắn xương ống quyển, nhơn xương ống quyểndùng gắn xương đầu gối, nhơn xương đầu gối để gắnxương đùi, do xương đùi kết với xương mông, nhờxương mông dựng xương sống, nhờ xương sống kết xươngsườn, trên xương sống có xương cổ, nhơn xương cổ gắnxương hàm, nơi xương hàm cặm răng nanh, trên đó có xươngsọ. Lại nhơn xương cổ kết xương vai, nhơn xương vaigắn xương cánh tay, đầu xương cánh tay gắn xương bắp tay,do xương bắp tay kết xương bàn tay, nhơn xương bàn taycó xương ngón tay. Lúc Bồ-Tát quán sát như vậy, tất cảxương trong thân đều chia lìa. Quán sát như vậy rồi, liềndứt đặng ba thứ dục nhiễm : Một là sự dục nhiễm vềhình mạo, hai là sự dục nhiễm về tư thái, ba là sự dụcnhiễm về chạm xúc mịn màng.

ĐạiBồ-Tát lúc quán sát xương màu xanh, thấy cõi đất khắpmười phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng trên, dướithảy đều màu xanh cả. Lúc quán xương màu vàng, màu đỏ,màu trắng, màu xanh đen cũng như vậy.

LúcBồ-Tát quán sát như trên đây giữa chặn mày liền chiếura ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, xanh đen. Trong mỗi ánhsáng nầy Bồ-tát thấy có tượng Phật, liền hỏi : Thânnầy do nhơn duyên bất tịnh hòa hợp chung lại mà thành, saolại đặng ngồi, nằm, đi, đứng, co duỗi, cúi, ngước xem,nháy, thở, buồn, khóc, vui, cười, trong thân nầy không chủtể, ai sai sử có những việc như vậy? Vừa hỏi xong,chư Phật trong ánh sáng liền ẩn mất.

Bồ-Tátlại suy nghĩ : Hoặc thức tâm là ngã, nên chư Phật chẳngvì tôi mà nói. Lại quán sát thức tâm nầy thứ đệ sanhdiệt dường như nước chảy cũng chẳng phải là ngã. Lạisuy nghĩ nếu thức tâm chẳng phải là ngã, thời hơithở ra vào hoặc có thể là ngã chăng ? Lại suy nghĩ: Hơi thở ra vào chỉ là tánh gió, mà tánh gió là tứ đại,trong tứ đại, đại nào là ngã ? Tánh địa đại chẳng phảingã, tánh thủy, tánh hỏa, tánh phong cũng chẳng phải ngã.Lại suy nghĩ : Tất cả trong thân nầy đều không có ngã,chỉ có tâm niệm do nhơn duyên hòa hiệp mà hiện ra có nhữngtác dụng. Ví như sức bùa chú, ảo thuật làm ra. Cũng nhưống không hầu tùy ý thổi ra tiếng. Thế nên thân nầy làbất tịnh, nhờ những nhơn duyên hòa hiệp chung lại mà thành,thế thì sẽ ở chỗ nào mà sanh tham dục. Lại ở chỗ nàomà sanh giận hờn nếu bị người mắng nhục. Thân nầy củata do ba mươi sáu vật hội hiệp, hôi nhơ bất tịnh, chỗ nào mà có người lãnh thọ sự mắng nhục. Nếu nghetiếng mắng, bèn suy nghĩ, do tiếng tăm gì mà thành mắng nhiếc? Riêng mỗi mỗi tiếng chẳng thể thành mắng nhiếc.Nếu một tiếng chẳng thành, thời nhiều tiếng cũng chẳngthành. Do nghĩa nầy nên chẳng nên sanh lòng giận hờn.

Nếucó người đến đánh, cũng nên suy nghĩ, sự đánh đập nầytừ đâu mà có. Lại suy nghĩ : Nhơn tay, dao, gậy, cùng vớithân của ta nên gọi là đánh. Nay ta cớ sao lại giận hờnnơi người, bèn là thân ta tự chác lấy lỗi nầy, vì ta thọthân ngũ ấm. Ví như nhơn cái đích thời có mũi tên bắntrúng. Cũng vậy, do có thân ta, mới có sự đánh. Ta nếu chẳngcó nhẫn, thời tâm tán loạn, tâm nếu tán loạn thời mấtchánh niệm, nếu mất chánh niệm thời chẳng thể quan sátnghĩa lành cùng chẳng lành. Nếu chẳng thể quan sát nghĩalành cùng chẳng lành thời phạm việc ác. Đã phạm việcác tất phải đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ.

LúcBồ-Tát quán sát như vậy rồi, thời đặng tứ niệm xứ.Đặng tứ niệm xứ rồi thời đặng trụ nơi trong bậc khamnhẫn. Đại-Bồ-Tát trụ nơi bậc nầy thời có thể kham nhẫnnhững sự tham dục, sân khuể, ngu si. Cũng có thể kham nhẫnnhững sự lạnh, nóng, đói khát, muỗi mòng, rận, rệp, giódữ, đụng chạm, thô cứng, các thứ tật dịch, chửi rủamắng nhiếc, đánh đập khổ sở tất cả những sựkhổ não nơi thân, nơi tâm đều có thể nhẫn. Vì thế nêngọi là trụ bậc kham nhẫn.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Bồ-Tát chưa trụ đặngbậc bất động, lúc trì tịnh giới, có nhơn duyên gì đặngphá giới chăng ?

_Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát chưa đặng trụ bậc bất động,vì có nhơn duyên thời có thể đặng phá giới.

_ BạchThế-Tôn ! Nhơn duyên như thế nào ?

_ NầyThiện-nam-tử ! Nếu Bồ-Tát biết rằng do nhơn duyên phá giới,thời có thể làm cho người ưa thích thọ trì kinh điển đại-thừa,lại có thể làm cho người đọc tụng thông thuộc, biên chépquyển kinh, giảng thuyết rộng ra, chẳng thối chuyển nơivô thượng chánh giác. Vì cớ như vậy nên đặng phá giới.Lúc đó Bồ- Tát nên nghĩ rằng : Ta thà chịu tội đọa nơiA-Tỳ địa ngục, một kiếp hoặc dưới một kiếp, cần phảilàm cho người như vậy chẳng thối chuyển nơi vô thượngchánh giác. Do nhơn duyên nầy Bồ-Tát đặng phá tịnh giới.

Văn-Thù-Sư-LợiBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Nếu có Bồ-Tát nhiếp thủhộ trì người như vậy, làm cho chẳng thối chuyển tâm Bồ-Đề,quyết không vì duyên cớ ấy phá giới mà bị đọa A-Tỳ.

Phậtkhen Văn-Thù Sư-Lợi : “Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lờiông vừa nói. Ta nhớ thuở xưa, nơi Diêm-Phù-Đề nầy, talàm Đại Quốc-Vương, tên là Tiên- Dư. Nhà vua mến ưa kínhtrọng kinh điển Đại-thừa, tâm vua thuần thiện, không cótật ác, tật đố, san lẫn, miệng vua thường nói lời dịudàng, lời lành, thân vua thường nhiếp hộ kẻ nghèo cùngcô độc. Bố thí, tinh tấn, không ngừng nghỉ.

Thuởđó không có Phật ra đời, cũng không Thanh-Văn, Duyên Giác.Nhà vua ưa thích kinh điển Đại-thừa Phương-đẳng, trongmười hai năm phụng thờ Bà-La- Môn, cung cấp những đồ cầndùng. Qua khỏi mười hai năm, nhà vua bảo Bà-La- Môn các ngàinay phải phát tâm vô thượng bồ-đề. Bà-La-Môn đáp : TâuĐại- vương tánh bồ-đề là không chỗ có, kinh điển Đại-thừacũng như vậy. Sao Đại- vương muốn cho người cùng vật đồngnhư hư không.

Nhàvua lúc đó tâm tôn trọng Đại-thừa, nghe Bà-La-Môn hủy bángPhương- đẳng Đại-thừa, bèn giết Bà-La-Môn.

Nầythiện-nam-tử ! Do nhơn duyên trên đây, từ đó trở đi, tachẳng bị đọa địa ngục.

NầyThiện-nam-tử ! Ủng hộ nhiếp trì kinh điển Đại-thừa,bèn có vô lượng thế lực như vậy.

Phậtlại bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Có thánh hạnh là tứ thánhđế : Khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là tướng bức bách. Tậplà tướng có thể sanh trưởng. Diệt là tướng tịch diệt,.Đạo là tướng đại-thừa. Lại khổ là hiện tướng. Tậplà chuyển tướng. Diệt là trừ tướng. Đạo là năngtrừ tướng. Lại khổ có ba tướng: Tướng khổ khổ, tướnghành khổ, tướng hoại khổ. Tập là hai mươi lăm cõi. Diệtlà diệt dứt hai mươi lăm cõi. Đạo là tu tập giới, định,huệ.

NầyThiện-nam-tử ! Pháp hữu lậu có hai thứ : Có nhơn, có quả.Pháp vô lậu cũng có hai thứ : Có nhơn, có quả.

Quảhữu lậu thời gọi là khổ. Nhơn hữu lậu thời gọi làtập. Quả vô lậu thời gọi là diệt.
Nhônvô lậu thời gọi là đạo.

NầyThiện-nam-tử ! Có tám tướng gọi là khổ : Sanh khổ, lãokhổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tằng hộikhổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm thạnh khổ. Có thể sanhra tám thứ khổ như vậy gọi đó là “Tập”. Nơi khôngcó tám thứ khổ như vậy đây gọi là “Diệt”. Mười trílực, bốn vô-sở-úy ba niệm xứ, đại-bi, đây gọi là “Đạo”.

Sanhlà tướng sanh ra có năm : Một là mới sanh ra, hai là đếnrốt sau, ba là tăng trưởng, bốn là xuất thai, năm là chủngloại sanh.

Lãocó hai thứ : Một là niệm niệm lão, hai là chung thân lão.Lại có hai : Một là tăng trưởng lão, hai là diệt hoại lão.

Bệnhlà nói tứ đại chẳng điều thích lẫn nhau cũng có hai :Một là thân bịnh, hai là tâm bệnh. Thân bịnh có năm : Mộtlà nhơn nơi nước, hai là nhơn nơi gió, bà là nhơn nơi nhiệt,bốn là tạp bịnh, năm là khách bịnh. Khách bịnh cóbốn : Một là chẳng phải phận sự gắng gỗ làm, hai làvì quên lầm mà té ngã, ba là dao gậy ngói đá, bốnlà quỉ mị dựa. Tâm bệnh cũng có bốn : Một là hớn hở,hai là sợ sệt, ba là lo rầu, bốn là ngu si.

NầyThiện-nam-tử ! Thân bịnh, tâm bịnh phàm có ba thứ : Mộtlà nghiệp báo, hai là xa lìa chẳng đặng ác-đối, ba là thờitiết thay đổi. Sanh ra các thứ nhơn duyên danh tự thọ bịnhsai khác như vậy. Nhơn duyên là những bịnh phong v.v…, danhtự là buồn nôn, phổi sưng, hơi lên, ho hen, tim nhảy, chảykiết. Thọ sai khác là : Nhức đầu, đau mắt, đau tay, đauchưn, v.v… , đây gọi là bịnh.

Tửlà bỏ thân đã thọ. Bỏ thân cũng có hai : Một là căn mạnghết mà chết, hai là do duyên ngoài là chất mạng hết màchết. Mạng hết mà chết có ba : Một là mạng hết chẳngphải phước hết, hai là phước hết chẳng phải mạng hết, ba là phước mạng đều hết. Duyên ngoài chết cũngcó ba : Một là chẳng phải phần tự hại mà chết, hai làbị kẻ khác hại chết, ba là do mình và kẻ khác mà chết.Lại có ba thứ chết : Một là phóng dật mà chết, hai làphá giới mà chết, ba là mạng căn hư hoại mà chết. Những gì gọi là phóng dật mà chết ? Nếu có hủy báng Đại-thừa Phương-đẳng bát-nhã-ba-la-mật, đây gọi là phóng dậtmà chết. Những gì gọi là phá giới mà chết ? Hủyphạm giới cấm của chư Phật ba đời, đây gọi là phá giớimà chết. Những gì gọi là mạng căn hư hoại mà chết ? Bỏthân ngũ ấm, đây gọi là mạng căn hư hoại mà chết. Dođây nên gọi rằng chết là rất khổ.

Nhữnggì gọi là ái biệt ly khổ ? Những vật mến yêu bị hư hoạilìa tan. Vật mến yêu hư hoại lìa tan đó cũng có hai thứ: Một là ngũ ấm trong loài người hư hoại, hai là ngũ ấmtrong cõi trời hư hoại. Ngũ ấm mến yêu trong cõi ngườicỏi trời phân biệt tính đếm có vô lượng thứ. Đây gọilà ái biệt ly khổ.

Nhữnggì gọi oán-tằng-hội khổ ? Tức là chẳng yêu thương màhội họp cùng nhau, chẳng yêu thương hội họp nầy cũngcó ba : Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Ba ác thú như vậyphân biệt tính đếm có vô lượng thứ. Đây gọi là oántằng hội khổ.

Nhữnggì gọi là cầu bất-đắc khổ ? Cũng có hai thứ : Một làchỗ trông mong được mà cầu chẳng được, hai là tốn nhiềucông lực mà chẳng đặng kết quả,. Đây gọi là cầu bấtđắc khổ.

Nhữnggì gọi là ngũ-ấm thạnh khổ ? Chính là sanh khổ, lão khổ,bịnh khổ, tử khổ, ái-biệt-ly khổ, oán-tằng-hội khổ,cầu-bất-đắc khổ. Đây gọi là ngũ ấm thạnh khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Sanh làm cội gốc có ra lão khổ nhẫn đếnngũ ấm thạnh khổ, bảy khổ như vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Luận về sự già suy, chẳng phải tấtcả đều có. Phật cùng Chư Thiên một bề quyết định không,trong loài người thời chẳng nhứt định, hoặc có hoặc không.

NầyThiện-nam-tử ! Thọ thân trong ba cõi không ai chẳng có sanh,cho nên sanh là cội gốc của tất cả thân. Còn già thờichẳng quyết định.

Chúngsanh trong thế gian, do điên đảo che mờ tâm tánh, nên thamđắm nơi sanh mà nhàm lo già chết. Bồ-Tát chẳng như vậy.Bồ-Tát quán sát thân mới sanh đã thấy nỗi khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Như có người nữ vào nhà người khác. Ngườinữ nầy xinh đẹp chuỗi ngọc trang nghiêm nơi thân. Chủ nhàhỏi rằng : Nàng tên là gì, thuộc nơi ai ? Người nữ đáprằng : Thân tôi tức là Công Đức Đại-Thiên.

Chủnhà hỏi : Nàng đến để làm gì ?

Ngườinữ đáp : Chỗ nào tôi đến, tôi có thể cho các thứ vàng,bạc, lưu-ly, pha lê, chơn châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mãnão, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ.

Chủnhà nghe rồi vui mừng hớn hở : Nay ta phước đức, nên khiếnnàng nầy đến nhà ta. Liền bèn đốt hương, rải hoa cúngdường, cung kính lễ bái.

Lạithấy ngoài cửa có một người nữ hình dạng xấu xa, áoxiêm rách nát, do thứa nức nẻ, sắc mặt xám trắng, dơ dáyhôi hám. Chủ nhà hỏi : Nàng tên gì , thuộc về ai ?

Côgái đáp : Tôi tên Hắc-ám.

_ Tạisao tên Hắc-ám ?

_ Tôiđi đến chỗ nào có thể làm cho nhà đó hao tài, tốn của.

Chủnhà nghe xong bèn cầm dao bén bảo rằng : Nàng nếu chẳng đi,ta sẽ chém chết.

Côgái nói : Ông ngu si lắm, không có trí huệ.

Chủnhà hỏi : Tại sao nói ta là ngu si không có trí huệ.

Côgái đáp : Người đẹp đứng trong nhà ông chính là chị củatôi. Tôi thường đi chung với chị, nếu ông đuổi tôi cũngphải đuổi chị tôi.

Chủnhà trở vô hỏi Công-Đức-Thiên : Ngòai cửa có cô gái nóilà em của nàng có phải vậy chăng ?

Công-Đức-Thiênnói : Thiệt là em gái tôi, tôi cùng đi chung với nó, chưacó lúc nào lìa nhau. Tùy ở chỗ nào tôi thường làm việctốt, còn nó thường làm việc xấu. Tôi thường làmviệc lợi ích, còn nó luôn làm sự suy hao. Nếu ai yêu tôicũng phải yêu nó. Nếu cung kính tôi, cũng phải cung kính nó.

Chủnhà liền nói : Nếu có cả sự tốt lẫn sự xấu như vậy,thời ta chẳng cần, hai nàng nên tùy ý đi đi.

Lúcđó hai người nữ cùng dắt nhau trở về. Chủ nhà thấy cảhai đi rồi, trong lòng rất vui mừng hớn hở.

Bâygiờ hai người nữ lại cùng dắt nhau đến một nhà nghèo.Người nghèo nầy lòng rất vui mừng mời rằng : Từ nay trởđi, xin hai nàng ở luôn nhà tôi.

Công-Đức-Thiênnói : Chúng tôi vừa bị người xua đuổi, cớ sao ông lạimời chúng tôi ở ?

Ngườinghèo nói : Nay nàng tưởng đến tôi, vì nàng nên tôi phảikính cô kia, vì thế nên tôi mời cả hai ở nơi nhà tôi.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyệnsanh cõi trời, vì sanh thời có già, bịnh, chết, thế nênđều bỏ. Không chút tâm luyến ái. Kẻ phàm phu chẳng biếtlỗi lầm khổ hoạn của già, bệnh, chết nên họ tham luyếnsanh tử.

NầyThiện-nam-tử ! Như đứa trẻ dòng Bà-La-Môn đương lúc quáđói thấy trong đống phân có trái am-la, bèn lượm lên. Ngườitrí ngó thấy quở rằng : Người là Bà-La-Môn, giòng giốngthanh tịnh, cớ sao lại lượm trái nhơ trong đống phân. Đồngtử nghe xong hổ thẹn nói : “ Tôi thiệt chẳng ăn, muốnđem trái ấy rửa sạch rồi ném bỏ”. Người trí
nói: “Ngươi ngu si quá, nếu rồi sẽ ném bỏ, đáng lẽ chẳngnên lượm lấy.”

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát cũng như vậy, đối với vấnđề sanh chẳng lãnh thọ, cũng chẳng dứt bỏ, như ngườitrí kia quở trách đứa trẻ. Kẻ phàm phu thích sanh ghét tử,như đứa trẻ kia lượm trái dơ rồi trở lại bỏ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com