Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần II

03/03/202107:54(Xem: 6282)
Phần II

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-547

 

Hội Thứ  IX

Phần thứ II:

(Thích nghĩa và lược giải quyển 577 của Hội thứ II)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Lời nói đầu:

 

Kinh “Kim Cương Năng Đoạn” chỉ có một quyển (quyển 577) trong 600 quyển của Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật. Kinh viết liên tục, không có chia làm nhiều đoạn ngắn. Chúng tôi phân đoạn, mỗi đoạn đều có phẩm tựa và tùy theo phẩm tựa mà có những luận giải khác nhau. Sau đây là chánh văn của kinh này viết theo kiểu chữ News Time Roman “in thẳng và đậm” và viết theo kiểu chữ News Time Roman “in nghiêng và nhạt” là những luận giải của chúng tôi.

 

---o0o---

 

 Làm sao hàng phục vọng tâm và làm sao an trụ chân tâm?

 

“Bạch Thế Tôn! Những ai phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa, nên trụ như thế nào? Nên tu hành như thế nào? Nên nhiếp phục tâm như thế nào?

(…)Phật bảo:

- Thiện Hiện! Những ai phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa, thì nên phát tâm như vầy: Có bao nhiêu loài hữu tình, hữu tình được độ, bị độ, như sanh từ trứng, hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, cho đến hữu tình giới được tạo tác, bị tạo tác. Tất cả các hữu tình như vậy, ta đều giúp nhập vào cõi Vô dư y Niết bàn vi diệu. Tuy đã độ vô lượng hữu tình đều được diệt độ như thế, song không có hữu tình nào được diệt độ. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì nếu các Bồ Tát còn tưởng chuyển hữu tình thì không thể gọi là đại Bồ Tát. Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì các đại Bồ Tát chẳng nên nói có tưởng chuyển hữu tình; như vậy tưởng chuyển mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la (người), ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, phải biết cũng thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có một chút pháp nào gọi là người phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa”.

 

Theo Kinh văn thì cụ thọ Thiện Hiện hỏi Phật an trụ chân tâm trước và hàng phục vọng tâm sau. Phật trả lời là phải hàng phục vọng tâm trước, nếu làm được như vậy tức là an trụ chân tâm. Đây không phải là hai vấn đề riêng rẽ: Hàng phục vọng tâm là biện pháp, khi hàng phục được vọng tâm thì chân tâm sẽ hiện, chân tâm hiện là kết quả. Vì vậy, Phật trả lời phải hàng phục vọng tâm trước.

Đối với người tu hành hàng phục vọng tâm là vấn đề sanh tử. Ngài Khuê Phong tức tôn giả Tông Mật đã từng trả lời câu hỏi:“Thế nào là Đạo?Ngài đáp: Vô ngại là Đạo. Hỏi: Lấy cái gì để tu? Đáp: Biết vọng là tu. Hỏi: Phải tu mới thành hay chẳng cần dụng công? Đáp: Đạo tuy vốn tròn, vọng khởi làm phiền lụy, hết sạch vọng niệm tức thành công. Vọng tức phiền não, là chướng ngại của tâm; hết vọng tức tu thành; tu thành vì đạt được vô ngại nên gọi là Đạo”. Điều đó có nghĩa muốn an trụ chân tâm thì cần chế phục vọng tâm.

Thiện Hiện bạch Phật: Làm sao hàng phục được vọng tâm? Phật đáp: Bồ Tát phải độ chúng sanh đều được vào Niết bàn, nhưng không thấy có một chúng sanh nào được độ.

Câu trả lời thật là nghịch đời! Nhưng tôn chỉ của Kim Cương là vô trụ tướng: Bồ Tát khi độ chúng sanh, nếu còn thấy mình là người độ (tức còn thấy ngã), thấy chúng sanh là người được độ (tức thấy tướng chúng sanh), vào Niết bàn (tức còn thấy pháp). Như vậy, Bồ Tát không còn là Bồ Tát nữa vì còn chấp ngã, chấp pháp, chấp bốn tướng. Đã chấp dù chỉ bằng mảy lông sợi tóc thì làm sao hàng phục được vọng tâm? Làm sao an trụ được chân tâm? Làm sao thâm nhập được Bát nhã Ba la mật?

Khi nhập thế làm Phật sự, Bồ Tát độ sanh phải lìa kiến chấp, tình chấp… thì phiền não chẳng sanh, vọng chấp không sanh thì tâm mới an định. Đó là không hàng phục mà tự nhậm(1) hàng phục! Bồ Tát vừa phát khởi vọng chấp có mình độ, có chúng sanh được độ… tức Bồ Tát còn chấp ngã, nhơn, bỉ, thử… thì phiên não dẫy đầy. Kinh Tứ Nhị Thập chương ghi: “Giáo pháp của Ta: Niệm mà không trụ chấp nơi niệm, mới thật là niệm. Làm mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là làm. Nói mà không trụ chấp nơi nói, mới thật là nói. Tu mà không trụ chấp nơi tu, mới thật là tu”. Đó là tôn chỉ vô trụ tướng Bát nhã Ba la mật.

Cũng nên nói thêm rằng: Dù chấp người hay chấp vật cũng xuất phát từ một nguồn tâm, từ cái ngã, ngã sở. Có chấp là có phân chia chủ khách, có mình người, có anh tôi, có sanh diệt đối đãi, tức không thoát khỏi ngõ cụt của nhị nguyên…Vì đó là gốc rễ của những phân chia, rạn nứt… Chân lý chỉ là một, chân lý bên này núi Pyrenées không thể khác với bên kia. Không thể có hai thứ chân lý cùng sống chung trên một quả địa cầu. Mặt trăng trên trời là chân lý duy nhất, cái duy nhất một. Bóng trăng trên ngàn ao hồ sông nước, cũng chỉ là bóng trăng. Vậy, những cái râu ria gọi là chân lý đó, chỉ là khía cạnh của chân lý, không phải là chân lý, giống như hàng vạn bóng trăng trên ao hồ sông nước…Đó là nói theo Tục đế.

Lại nữa, ai cũng thấy cũng biết cái ngã là cái rốn của vũ trụ, vì nó chi phối tất cả trong thế giới thông tục này. Đụng tới cái ngã thì biết liền. Còn cái chân thật mầu nhiệm là chân tâm, Phật tánh thì không ai thấy nổi.

Kinh thường lặp đi lặp lại nhiều lần: Không thấy không biết thì không chấp, không chấp thì vọng chẳng sanh, tức tâm thể tịch lặng. Đó là hàng phục vọng tâm cũng là an trụ chân tâm.

 

Trong Truyền Đăng Lục, mục nói về Tổ sư Đông độ Huệ Khả cầu Tổ Bồ đề Đạt Ma an tâm; Huệ Khả bạch Tổ:

- Tâm con chưa an, xin Thầy an cho.

Tổ Bảo:

- Đem tâm ông đến đây, ta an cho.

Huệ Khả yên lặng hồi lâu, nói:

- Con đã tìm khắp nhưng không thấy được.

Tổ bảo:

- Ta đã an tâm cho ông rồi đó.

An tâm không phải làm bùa phép mầu nhiệm gì cả mà chỉ là hàng phục vọng tâm, đừng để tâm sanh khởi. Tổ Lâm Tế nói rằng: “Nếu vọng khởi thì đừng cho nó tiếp nối, còn nếu chưa khởi thì đừng để cho nó khởi. Như vậy, còn hơn quý vị đi hành cước mười năm”.

Trong Pháp bảo Đàn Kinh, phẩm thứ năm là “Tọa Thiền”, Tổ Huệ Năng lại nói: “…Nếu chấp tâm, tâm vốn là vọng. Nếu coi tâm như huyễn thì không còn chỗ chấp vậy. Nếu nói chấp tịnh, tánh người vốn tịnh, bởi vì vọng niệm che đậy chơn như, chỉ không có vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh. Khởi tâm chấp về tịnh trở lại sanh ra cái tịnh vọng. Vọng không nơi chốn, chấp ấy làm vọng; tịnh không hình tướng trở lại lập thành hình tướng, cho là công phu, người khởi kiến giải này là chướng tự bản tánh trở lại bị tịnh trói”(2).

Quán chiếu soi rọi lại chính mình: Đừng để tâm sanh khởi là hàng phục tâm mà cũng là an trụ tâm. Vọng đến liền biết mà không theo vọng, thì vọng tự biến, tâm tự yên thôi. Động cũng không chấp mà tịnh cũng không chấp, chỉ không có vọng tưởng thì tự tánh thanh tịnh.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ, Phật nói: “Nếu cội gốc của những cái lăng xăng, chớp nhoáng u uẩn đó vào được tính đứng lặng bản lai, một phen tập khí bản lai đứng lặng như sóng mòi diệt hết, hóa thành nước đứng, thì gọi là hết hành ấm. Người ấy có thể vượt khỏi chúng sanh trược, xét lại nguyên do cội gốc là u uẩn vọng tưởng”. Vọng hết tình dài dứt sạch thì trở lại cái tịch lặng bản nhiên.

Thành Phật là dứt niệm phân biệt chấp trước, tâm thể tịch lặng có nghĩa là bản nhiên thanh tịnh hiện tiền (nói hiện tiền nhưng chẳng có gì là hiện tiền, nó tự sẵn có trước khi cha mẹ sanh). Trên con đường trở về quê cũ để an thân lập mệnh, việc giữ thân tâm thanh tịnh là bước đầu cần yếu để nhiếp tâm, không cần biết đó là lối tu “khán tịnh” hay “thấy tánh”. Còn phân biệt, chấp trước thì bản nhiên thanh tịnh càng xa dần!

Cư sĩ Giang Vị Nông người giảng lược Kinh này nói: Chỗ bảo là hàng phục, chính là hàng phục vọng tâm. Vọng tâm là tâm phân biệt, mà tâm phân biệt nổi dậy ở ngã chấp, nên ngã kiến là gốc phân biệt. Nay trở về căn bản để khiển trừ, thì vọng tưởng phân biệt tự nó hóa giải hết.

“Chúng sanh không ngoài Dục, Sắc, Thức (chín loài ở ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) vì tham dục, mê sắc, thức tình điên đảo nên mới gọi là chúng sanh. Nếu biết tại sao trở thành chúng sanh, thì sẽ biết làm sao để độ chúng sanh. Biết vô số vô biên chúng sanh đều là hư tướng của Dục, Sắc, Thức huyễn thành, thì biết diệt tướng Dục, Sắc, Thức sanh diệt của nó, khiến vào chỗ bất sanh bất diệt, là thực không có chúng sanh, thực không có chúng sanh nào đắc độ. Vì sao? Vì chúng sanh bị Dục, Sắc, Thức nó che lấp đi. Bản tánh của chúng sanh là bất sanh bất diệt, là cùng với ta đồng thể, thế thì chỗ nào gọi là chúng sanh, chỗ nào gọi là đắc. Quán chiếu như thế lâu ngày thuần thục, thì cái kiến chấp tự nó hóa giải chẳng hay chẳng biết. Vì cớ gì? Vì chúng ta cũng là chúng sanh, vì biết đương thể tức không, biết niệm nổi dậy thì , nếu không khởi thì tất cả đều không, biết bổn lai bình đẳng. Đây là lối hàng phục vừa hay vừa khéo, mới thật là cái hàng phục của chẳng hàng phục.

Lại nữa, dụng công chỉ cần trừ vọng, chân tâm chẳng hiện là bởi vọng che. Vọng chẳng trừ hết mà nói là an trụ ở cái chơn như thì ngay đến một niệm này, vẫn còn nằm trong vọng tưởng. Nên biết rằng ta trụ là có sở trụ, có sở trụ là có lập. Có sở có lập thì trong đại viên kính còn dính bụi làm sao quang minh có thể chiếu khắp được(3)”. Kinh lại nói: “Tâm cuồng vọng chẳng ngừng nghỉ, ngừng nghỉ tức Bồ đề”. Tổ sư thiền có câu: “Mỗi vọng niệm là một hóa thân Phật”. Vọng đến thì biết nó đến. Đó là cái “rõ ràng thường biết”, biết mà không theo, thì vọng lặng. Vọng lặng thì tâm tự yên.

Tất cả yếu chỉ trên đều nhằm thuyết minh hàng phục vọng tâm. Lại nữa, hàng phục phải có phương tiện, mà phương tiện tức là phát tâm quảng đại. Tâm mở rộng là phá ngã. Quên ngã nên mới có thể phát tâm độ hết mọi loài. Đây không nói hàng mà tự nhiên hàng. Vì vậy mới có mục bố thí kế tiếp. Bố thí là phá ngã để tự hàng phục.

Thích nghĩa cho đoạn này:

(1). Nhậm hay nhậm vận nghĩa là sự việc được phát khởi một cách ngẫu nhiên, không do tạo tác của tâm thức phân biệt.

(2). Trích dẫn trong “Pháp Bảo Đàn Kinh”.

(3). Ý của Ngài Giang Vị Nông (Kinh “Kim Cương Đại Bát Nhã Ba La Mật Giảng Nghĩa” do cư sĩ Giang Vị Nông thuyết giảng ở thành phố Thượng Hải và được một số đạo hữu ghi chép lại thành sách phổ biến tại Trung Hoa và Đài loan, Đồ Nam Lão Nhân dịch, có đăng trong Thuvienhoasen.org. Cũng nên biết cư sĩ đã tốn hơn 40 năm nghiên cứu tu học Bát Nhã. Nên những điều mà cư sĩ thuyết ra rất uyên bác, nên chúng tôi có trích dẫn để Quý vị học hỏi thêm).

 

---o0o---

 

Phật dạy: Bồ Tát bố thí không nên chấp tướng.

 

“Thiện Hiện! Đại Bồ Tát chẳng trụ nơi việc hành bố thí, hoàn toàn vô trụ mà hành bố thí. Chẳng trụ nơi sắc mà hành bố thí; chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hành bố thí. Như vậy, đại Bồ Tát chẳng trụ tướng tưởng mà hành bố thí. Vì sao? Vì nếu đại Bồ Tát hoàn toàn không trụ mà hành bố thí, thì số phước đức kia chẳng thể tính lường”.

 

Ở đoạn trên, Phật dạy khi độ sanh phải phá trừ “ngã chấp”, tức không chấp bốn tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả(1). Đoạn này Phật dạy Bồ Tát khi bố thí cũng phải trừ “pháp chấp”, tức không trụ chấp tướng sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đó là diệu hạnh vô trụ, chỗ an trụ vi diệu của Bát nhã Ba La Mật.

Bố thí làm sao tránh khỏi chấp tướng? Cho là cho một vật gì? Vật đó lớn nhỏ, tốt xấu? Đó là chấp sắc. Nói một lời an ủi cho người khỏi lo sợ, gọi là vô úy thí; thuyết một bài pháp, gọi là pháp thí. Đó là ngôn ngữ, âm thanh. Vậy làm sao bố thí mà không chấp tướng? Đây là nói bố thí nhắm vào TÂM. Bố thí là phóng hạ, là buông xả, là phủi sạch, không còn nắm bắt (tướng). Có trụ là có dính mắc, trói buộc. Vô trụ là vô chấp, vô chấp thì tâm mới thanh tịnh. Vì vậy, Phật bảo “hoàn toàn vô trụ mà hành bố thí”.

Không có trụ vào sáu trần mà bố thí, tức buông xả sáu trần, tâm không duyên với một trần nào hết thì tâm mới an trụ. Tâm luôn luôn duyên lự nơi sáu trần nên mới loạn động sanh nhiễm sanh tịnh, vì vậy mới kẹt nơi sắc, dính nơi thanh, vướng nơi hương vị… Do vướng mắc sáu trần nên loạn càng loạn thêm, muốn dứt không dứt được, muốn lìa không lìa nổi, muốn buông bỏ lại nối tiếc… Bố thí là phóng hạ, buông xả phủi sạch hết thì tự nhiên tâm an trụ.

Đối với sáu trần đừng để tâm dính mắc. Đó là an trụ tâm. Vì vậy, mà thiền sư Bá Trượng bảo rằng: “Tâm cảnh không đến với nhau thì giải thoát”. Nói thì quá dễ nhưng hành mới khó, vì lục trần là môi trường sống của con người, làm sao mà lìa, làm sao khỏi nương vịn, dính mắc? Làm sao sống trong tướng lìa tướng? Làm sao tâm được an trụ? Vậy, chỉ còn một cách là “bội trần hợp giác”. Nên Phật bảo: “Ngoài không chấp tướng, trong như như bất động”. Ngoài không chấp tướng tức là bội trần, tâm như như bất động thì liền trở về tánh giác bản nhiên, tức hợp giác.

HT. Thích Thượng Siêu lại bảo: “… người bố thí phải luôn luôn lấy trí tuệ soi sáng để thấy rõ sáu trần là giả hợp, biến động không ngừng. Nếu tâm trú trước vào nó thì tâm cũng dễ giả hợp biến động không ngừng, làm sao an được. Trừ khi dùng sáu trần làm bố thí mà trực ngộ sáu trần không có tự tánh, là chân không, đã là chân không thì siêu không gian, siêu thời gian, thì tâm sẽ không bị trụ trước ràng buộc vào đâu cả, tức tâm an trụ tự do không bị lệ thuộc ngoại cảnh danh tướng”.

Tổ Lâm Tế bảo: “Tỏ rõ được tướng không của các loại sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì không gì trói buộc được. Đó là vô y đạo nhân”. Thái Hư đại sư bảo: “Chúng sanh trú sanh tử, Nhị thừa trụ Niết bàn, Bồ Tát liễu ngộ pháp không, sanh diệu dụng Bát Nhã cho nên không trụ, vì không trụ nên trụ Bát Nhã”.

Đại Bát Nhã Ba La Mật cũng nói “Bất trụ nhất thiết pháp danh trụ Bát Nhã”, có nghĩa: Không trụ tất cả pháp, tức trụ vào Bát Nhã.

“Không tướng ngã nhân là trí, độ sanh là bi. Không trú pháp là trí, bố thí là bi. Không trú pháp thì phá trừ được cái tâm chấp tướng , làm việc bố thí thì phá trừ được cái tâm chấp tướng không. Không chấp vào tướng có, tướng không thì trí thể hiển bày mà trí dụng cũng viên mãn, nên làm việc bố thí với trí Bát Nhã này, phước đức vô lượng, vô biên như hư không không thể suy lường”.

Tóm lại, khi làm Phật sự như bố thí chẳng hạn, nếu Bồ Tát phá trừ ngã chấp, pháp chấp nghĩa là không chấp mình là người bố thí (chấp ngã), kia là kẻ thọ thí (chấp nhân), đây là vật bố thí (chấp pháp) thì các nhiễm ô phiền não không sanh, phiền não không sanh tức tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là tâm Phật, là Như như, rộng rãi bao la như mười phương hư không. Nếu đem tâm thanh tịnh mà bố thí thì được phước đức vô lậu thanh tịnh rộng lớn không gì bằng.

 Bởi thế, nên Phật dạy: Bồ Tát khi bố thí phải “tam luân không tịch”, nghĩa là không thấy (chấp) có mình ban ơn, có kẻ chịu ơn và vật bố thí. Như thế mới gọi là bố thí Ba la mật.

 

Bích Nham Lục, tắc thứ nhất nói về “Cái trống không của Đạt Ma” kể rằng: Vũ Đế thường mặc áo cà sa, đích thân giảng Kinh Phóng Quang Bát Nhã, giảng sống động đến mức khiến hoa trời rơi tơi tả xuống đất biến thành ngọc lưu ly. Vũ Đế còn học Đạo thờ Phật, ra lệnh cho thiên hạ xây chùa độ Tăng, tu hành theo giáo lý. Thiên hạ gọi ông là Phật Tâm Thiên Tử.

Lúc Đạt Ma mới đến gặp Vũ Đế, Vũ Đế bèn hỏi: “Trẫm xây chùa độ Tăng, như thế có công đức chăng?” Đạt Ma nói “Chẳng có công đức gì cả”. Nói như thế chẳng khác gì xối nước bẩn vào mặt người ta. Nếu như ai hiểu được câu nói “chẳng có công đức gì cả” này, kể như người ấy đủ khả năng đối diện Đạt Ma. Thử nói xem xây chùa độ Tăng mà lại chẳng có công đức gì cả? Ý nghĩa lời này là ở đâu?

Đó chẳng qua là công đức hữu lậu, nhiều lắm kiếp sau làm trời người giàu sang sung sướng. Vì vậy, Bồ Đề Đạt Ma mới nói là chẳng có công đức gì cả. Đối với Tổ công đức vô lậu mới đáng gọi công đức. Vì khi làm Phật sự không thấy mình, không thấy người, tức không thấy ngã, không thấy pháp… nghĩa là hành không có sở đắc, hành như vô đạo hành, tam luân không tịch thì mới đáng gọi là công đức vô thượng, không có gì sánh bằng!

Thích nghĩa cho đoạn kinh này:

(1). Kinh Kim Cương Năng Đoạn nói riêng hay Đại Bát Nhã nói chung liệt kê các tướng của chúng sanh là: Hữu tình, mạng giả (dòng sinh mạng), sanh giả (người sanh), dưỡng giả (người dưỡng dục), sĩ phu (người trưởng thành), bổ đặt già la (chủ thể luân hồi), ý sanh (người do người sanh), nho đồng (ngã tối thắng), tác giả (người tạo tác), thọ giả (người thọ), tri giả (người biết), kiến giả (người thấy). Kinh “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa” của Ngài La thập dịch chỉ đề cập có bốn tướng là: Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả.

 

---o0o---

 

Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Chẳng thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai nói các tướng đầy đủ, tức chẳng phải các tướng đầy đủ”.

Phật lại bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Thiện Hiện! Các tướng đầy đủ đều là hư vọng (giả dối), cho đến phi tướng đầy đủ đều chẳng phải hư vọng. Như vậy, nên quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng”.

 

Đoạn Kinh này nối tiếp đoạn trước “vô trụ tướng mà trụ”, không trụ bất cứ một tướng nào hết mới gọi là an trụ. Cái thân có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp là thân có sanh diệt. Thân tướng này do tứ đại hợp thành, nó có hình sắc, nên mắt trần có thể thấy được. Vì vậy, Phật hỏi Thiện Hiện: Có thể lấy thân tướng để quán Như Lai chăng? Dĩ nhiên ai cũng phải trả lời: Đúng thế! Nhưng cụ thọ trả lời ngược lại là không thể lấy thân tướng để quán Như Lai. Vì Như Lai đây chỉ cho tự tánh thanh tịnh, hay pháp thân vô tướng(1). Như vậy, với con mắt trần làm sao quán thấy Như Lai.

Ngài Tuyết Phong khi sắp tịch, tự làm bài minh, nói: “Từ duyên mà có trước có sau, có thành có hoại, còn chẳng từ duyên mà được thì muôn kiếp vững bền”. Cái do duyên mà có như thân do cha mẹ sanh ra, có sanh lão bệnh tử, nên gọi là có thành có hoại. Còn cái pháp thân chẳng do duyên sanh mà được, nên nói là muôn kiếp vững bền. Xác thân thì có còn có mất, còn pháp thân thì không bao giờ mất và Phật đã thành Đạo, nên Phật sống trong tự tánh của Như Lai pháp thân đó. Nên không thể quán Như Lai qua 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

Vì vậy, Hòa Thượng Chí Công mới nói rằng: “Thân có tướng là thân vô tướng, trên đường vô minh là đường vô sanh”. Cái thân có tướng là thấy sắc thân bằng xương bằng thịt. Nhưng phải xuyên qua cái sắc thân bằng xương bằng thịt này mới thấy được tánh. Tánh là vô tướng. Thấy tánh là “kiến tánh” tức thành Phật. Thấy được như vậy thì sẽ chuyển vô minh thành bất sanh bất diệt, nên nói là vô sanh.

Phải nhận ra ngay nơi thân tướng này, “chỗ Như Lai nói, thân tướng tức chẳng phải thân tướng” nghĩa là phải thấy xuyên qua thân tướng bằng xương bằng thịt này mới quán được cái vô tướng kia.

Tiếp theo Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: “Các tướng đầy đủ đều là hư vọng (giả dối), cho đến phi tướng đầy đủ đều chẳng phải hư vọng. Như vậy, nên quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng”- Nguyên văn bằng chữ Hán là:thiện hiện. nãi chí chư tướng cụ túc giai thị vọng. nãi chí phi tướng cụ túc giai phi vọng. như thị tương/tướng. phi tướng ưng quán Như Lai”.

Đoạn Kinh này do nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại hoàn toàn khác hẳn với đoạn Kinh của Ngài La thập dịch. Nguyên văn đoạn Kinh do La Thập dịch là: “Phật cáo Tu Bồ đề: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai”. Nhóm của Ngài Huyền Trang dùng từ quán trong khi Ngài La Thập dùng từ Kiến. Kiến có nghĩa là thấy như mắt thấy cảnh như căn thấy trần. Thấy đòi hỏi có đối tượng cụ thể, thấy hình tướng đẹp xấu… Còn quán là quán tưởng, quán chiếu nghĩa là dùng trí để nghĩ tưởng.

Đoạn Kinh do Ngài La Thập dịch nói rõ là thấy thân tướng kia tức chẳng phải thân tướng chân thật, mà phàm tất cả tướng của thân căn thế giới, hình hình sắc sắc đều là hư vọng, giả dối như hoa trong gương, trăng dưới nước, toàn không có tướng gì chân thật cả! Nếu hiểu ra tất cả tướng đều hư dối như thế, tức là thấu rõ thật tướng các pháp, là trí tuệ vô thượng, tức là đã thấy pháp thân Như Lai.

Còn đoạn Kinh của Ngài Huyền Trang là quán tánh, nếu người quán còn thủ tướng, tức còn phân biệt chấp trước thì chỗ quán đó chính là thức vọng nên cũng chẳng thấy tánh. Vì vậy, thấy hay nghĩ tưởng nọ kia đều là sanh diệt, nên trong Kinh ĐBN Phật lúc nào cũng kêu gọi vô kiến, vô thức, vô niệm, vô tâm. Đoạn Kinh của Ngài Huyền Trang dịch, Phật bảo “nên quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng”. Điều này có nghĩa là cũng quán Như Lai bằng tướng, nhưng chẳng phải là tướng cụ túc mà là tướng như của Như Lai. Thấy mà không thấy tướng, chỉ thấy tánh thì cũng đồng như quán tướng hay phi tướng mà không bị tướng hay phi tướng nó che, thì liền chứng tánh. Vì vậy, mới nói tại sao lìa tất cả tướng tức chư Phật(2).

Kinh Viên Giác nói: Trong thế gian từ bậc Thánh nhân đến dân giả ngu dốt đều “nhận cái thân tứ đại ngũ uẩn giả hợp làm thân tướng, nhận cái bóng dáng duyên theo sáu trần làm tướng của tự tâm nên gọi là vô minh”. Nhận cái thân giả hợp làm thân tướng, nên bị tướng che nên chìm trong sanh tử, quên đi chủ nhân ông là cái bất sanh bất diệt.

Cư sĩ Giang Vị Nông giảng về đoạn này như sau: “Chấp tướng là chấp hữu, chấp tướng mê tướng, nên vọng ngoại tìm cầu. Đó là bệnh chung của phàm phu. Nhị thừa trái với phàm phu, hiểu rõ thân tướng là huyễn, rời huyễn nên thoát khỏi sanh tử, nhưng lại mắc bệnh chấp “không”, cái không này vẫn là tướng, vì chấp không nên trụ vào phi pháp tướng, nên Phật quở là chẳng hợp”.

Phải biết có thể phải có dụng, tánh ắt có tướng. Từ xưa tới nay, nói đến chấp trước của phàm phu không ngoài cái tướng mà tìm cầu, chỉ cần biết cái tướng là hư vọng liền biết chỗ trở về. Rơi vào chấp không lại là đoạn diệt, vì tánh và tướng không phải là một, tánh là tánh, tướng là tướng, nên chẳng thể diệt tướng. Nhưng tánh và tướng không phải khác. Tướng biếu thị của tánh, tánh là căn bản của tướng. Có căn bản mà không có tướng, cũng chẳng làm gì được. Nên Bát Nhã nói chẳng trụ hai bên. Chẳng trụ có, chẳng trụ không mới có thể xứng tánh. Chính vì tánh là vô tướng, là vô sanh. Cái do cha mẹ sanh là có thành có hoại, cái vô sanh (tức pháp thân), vì không ai sanh nên muôn kiếp vững bền là vậy.

Phật chứng pháp thân nên gọi là Như Lai. Chúng sanh và Phật đồng một thể tánh, nếu chúng sanh không trụ ở một tướng nào hết, gọi là chân trụ. Chỉ cần biết tướng là không, liền được thấy tánh. Đại chúng thấy Phật mặc áo, ăn cơm… thị hiện tướng phàm phu liền chấp tướng phàm phu, nên chẳng thấy Như Lai. Tu Bồ Đề qua tướng thấy tánh, biết Phật chẳng trụ tướng liền thấy Như Lai.

Như Lai sở thuyết thân tướng là đề cập đến cả hai bên: Tánh là thể của tướng, tướng là dụng của thể. Tướng nếu không có tánh thì chẳng dụng, tánh không có tướng thì chẳng hiển hiện. Lìa tướng thì chẳng có gì gọi là tánh, lìa tánh thì không có gì gọi là tướng, vấn đề còn lại là có chấp trước hay không mà thôi.

Chấp tướng là mê tướng, nên bị nó che, vì vậy chẳng thấy tánh. Nếu chẳng chấp tướng hay phi tướng thì ngay ở tướng có thể thấy tánh. Vì không chấp trước nên không rơi vào hai bên. Bát Nhã viên dung ở chỗ này. Theo tướng mà nói thì gọi là thân tướng, theo tánh mà nói thì thể của nó là không, tánh vốn vô tướng. Tướng là hư vọng, tánh là chân thật. Đừng đuổi theo vọng liền biết cái chân. Nếu biết chư tướng phi tướng, thì tướng chẳng che lấp tánh, liền thấy Như Lai, không cần diệt tướng, làm sao diệt nổi tướng, chỉ cần rõ tướng là hư vọng tức chân tướng hiện tiền.

Trong Kinh ĐBN, phẩm “Hiện Thế Gian”, quyển 510, Hội thứ III. Như Lai như thật giác tất cả pháp tướng như thế nào?

Huệ mạng Tu Bồ Đề nói với các Thiên tử: Tất cả pháp tướng Như Lai như thật giác là vô tướng, chỗ gọi biến ngại là sắc, lĩnh nạp là tướng thọ, tưởng tượng là tướng tưởng, tạo tác là tướng hành, rõ biết là tướng thức, Như Lai như thật giác là vô tướng. Khổ não là tướng uẩn, cửa sanh trưởng là tướng xứ, nhiều độc hại là tướng giới, Như Lai như thật giác là vô tướng. Hay xả là tướng bố thí, không não nhiệt là tướng tịnh giới, chẳng tức giận là tướng an nhẫn, chẳng giải đãi là tướng tinh tiến, không tán loạn là tướng tĩnh lự, không chấp đắm là tướng Bát Nhã, Như Lai như thật giác là vô tướng. Vô sở hữu là tướng nội không, chẳng điên đảo là tướng chơn như, chẳng hư dối là tướng bốn Thánh đế, Như Lai như thật giác là vô tướng. Không rối não là tướng bốn tĩnh lự, không hạn ngại là tướng bốn vô lượng, không ồn tạp là tướng bốn định vô sắc, Như Lai như thật giác là vô tướng. Không trói buộc là tướng tám giải thoát, chẳng toán loạn là tướng chín định thứ lớp, năng xa lìa là tướng ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, Như Lai như thật giác là vô tướng. Năng xa lìa là tướng không giải thoát môn, không lấy đắm là tướng vô tướng giải thoát môn, chán các khổ là tướng vô nguyện giải thoát môn, Như Lai như thật giác là vô tướng. Ngôi nhiếp tịnh là tướng Tam thừa thập địa, tới địa giác là tướng mười lực Bồ Tát, Như Lai như thật giác là vô tướng. Năng xem soi là tướng năm nhãn, không trệ ngại là tướng sáu thần thông, Như Lai như thật giác là vô tướng. Khó khuất phục là tướng Như Lai mười lực, không khiếp sợ là tướng bốn vô sở úy, không đoạn tuyệt là tướng bốn vô ngại giải, cho lợi vui là tướng đại từ, vớt suy khổ là tướng đại bi, mừng việc lành là tướng đại hỷ, bỏ ồn tạp là tướng đại xả, chẳng thể cướp là tướng mười tám pháp Phật bất cộng, Như Lai như thật giác là vô tướng. Năng nghiêm đẹp là tướng tướng hảo, năng nhớ nghĩ là tướng pháp vô vong thất, không sở chấp là tướng tánh hằng trụ xả, Như Lai như thật giác là vô tướng. Nhiếp trì khắp là tướng tất cả Đà la ni môn, nhiếp thọ khắp là tướng tất cả Tam ma địa môn, Như Lai như thật giác là vô tướng. Khéo thọ giáo là tướng quả Thanh văn thừa, tự khai ngộ là tướng Duyên giác, tới Đại quả là tướng hạnh Bồ Tát Ma ha tát, đủ đại dụng là tướng chư Phật Chánh đẳng Bồ đề, Như Lai như thật giác là vô tướng. Hiện Chánh đẳng giác là tướng Nhất thiết trí, cực khéo thông suốt là tướng Đạo tướng trí, hiện đẳng biệt giác là tướng Nhất thiết chủng trí, Như Lai như thật giác là vô tướng.

Thiên tử phải biết: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tướng tất cả pháp như thế thảy đều năng như thật giác là vô tướng. Do nhân duyên đây, Ta nói chư Phật được trí vô ngại không ai ngang bằng.

Bấy giờ, Phật bảo Huệ mạng Tu Bồ Đề: Bát nhã Ba la mật sâu thẳm là mẹ chư Phật năng chỉ thật tướng các pháp thế gian. Vậy nên, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương pháp mà trụ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, nhiếp thọ hộ trì chỗ nương pháp trụ. Pháp ấy tức là Bát nhã Ba La Mật sâu thẳm”.

Một đoạn Kinh quá hay nói về tướng và vô tướng của các pháp một cách chính xác! Nhưng chư Phật chư Bồ Tát không trụ tướng mà cũng không trụ vô tướng, nhưng trụ chỗ Phật trụ, đó là Bát nhã Ba La Mật thẳm sâu.

Thích nghĩa cho đoạn kinh này:

(1). Như như hay Như có nghĩa là như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng khứ chẳng lai, nên gọi là Như Lai. Như đó mầu nhiệm xưa nay vốn thanh tịnh, không bị vô minh che lấp, cũng không bị phiền não làm ô nhiễm; chiếu rõ các pháp bình đẳng không hai. Vì bình đẳng không hai, nên nói là nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Như Lai tự tánh cũng như vậy, nên nói Như Lai pháp thân vô tướng.

(2). Lìa tất cả tướng tức là chư Phật, vì tất cả tướng CÓ KHÔNG đã lìa, thì tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì thật tướng sanh, thật tướng sanh tức vô minh ngã kiến đoạn dứt, chân như pháp thân hiện ra nên gọi là chư Phật. Nên nói thấy tất cả tướng không phải tướng tức thấy Như Lai.

 

---o0o---

 

Giáo pháp của chư Phật như chiếc bè đưa người qua sông.

 

“Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ Tát có tưởng chuyển pháp, thì vị ấy liền có chấp ngã, chấp hữu tình, chấp mạng giả, chấp Bổ đặc già la… Nếu có tưởng chuyển phi pháp thì vị ấy cũng có chấp ngã, chấp hữu tình, chấp mạng giả, chấp Bổ đặc già la… Vì sao?

Thiện Hiện! Vì không thể nắm giữ pháp, cũng không thể nắm giữ phi pháp. Cho nên, Như Lai mật ý nói pháp môn dụ như chiếc bè. Này những người trí, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp”.

 

Nếu chấp thủ pháp tướng tức còn chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Khi tâm còn chấp thủ dù chấp pháp hay phi pháp thì vẫn còn ở trong vòng trói buộc của nhị nguyên đối đãi, dấu hiệu của tâm phân biệt chưa tiêu. Bởi vậy, Phật dạy nên coi giáo pháp của Ta như chiếc bè dùng để sang sông. Khi sang được bờ giác ngộ bên kia rồi thì chánh pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp. Vì nếu còn giữ lấy tức còn chấp thủ, còn chấp thủ thì không thể gọi là thật giác. Muốn tâm an định, Phật bảo pháp hay phi pháp đều phải bỏ. Nó chỉ là phương tiện đưa người sang sông, sang sông thì phải quên đò.

Đoạn văn trên nói: Được phước đức vô lượng như thế là do đâu? Là do những chúng sanh kia thấu rõ tứ đại là giả hợp, bản lai vốn không, bốn tướng cũng không. Vả lại, năm uẩn như huyễn hóa, sáu trần không thật. Tướng pháp là không, tướng phi pháp cũng không, thì tâm lặng lẽ trong suốt, thì còn gì mà chấp trước. Chúng sanh đó thấy ngã pháp đều không, tâm không còn quái ngại, cái bệnh chấp “không” cũng không còn. Tới đó mới được rỗng rang tự tại.

Tóm lại, đây là phá chấp chớ không phải phá pháp. Có chấp là có dính mắc, nếu không chấp thì pháp nào cũng tốt hết. Pháp đâu có lỗi. Lỗi là do người chấp. Nên TT. Thích Đông Phương nói: “Chấp pháp là chấp , chấp phi pháp là chấp không, chấp chấp không là nhị nguyên. Pháp Phật bất nhị. Nên không chấp hai bên thì tương ưng với Bát Nhã. Đó là “thầm hợp” với Như Lai, do đó Như Lai biết hết, thấy hết những chúng sanh đó không sót. Chỗ đó nhà thiền gọi là ấn tâm, không cần đem vô phòng kín, giăng màn rồi mới ấn tâm, chỉ ngay một niệm thanh tịnh đó, lìa tướng “có không” thì liền được ấn tâm, ngay đó thấy Như Lai rõ ràng”.

Cư sĩ Giang Vị Nông nói: “Chữ pháp trong trong câu “pháp thượng ưng xã” là trỏ những pháp lục trần mà nói; chữ phi pháp trong câu “hà huống phi pháp” là trỏ pháp phi hữu phi vô mà nói. Vì chưng lấy nghĩa hết thảy pháp chẳng sanh mà Bát Nhã sanh, chỗ gọi hai bên chẳng thủ, là quán triệt tận đáy. Nên chính ngay lúc độ, phải trừ cái diệt hữu diệt vô. Đã được diệt độ thì chẳng những pháp diệt hữu diệt vô bỏ đi mà cả đến phi hữu phi vô cũng bỏ luôn nữa, mới thành ra Như Lai của chư Pháp nhất như. Đây chính là chỗ thường thuyết của chư Phật. Như Thế Tôn, Ngài cũng vậy, mặc áo ăn cơm biểu thị giống phàm phu; tiếng nói, tướng đẹp nghiễm nhiên đầy đủ, đến đây sanh tử, Niết bàn, hai bên đều chẳng trụ. Hữu ư vô ư? Diệc hữu diệc vô ư? Phi hữu phi vô ư? Tứ cú đều chẳng thể nói. Hai câu “bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp” là yếu chỉ cần thiết vậy”.

Bậc liễu đạo hiểu rằng: Thủ ở đây có nghĩa là nương tựa, nắm giữ, như chim tựa cành, như dây leo nương dậu, không thoát khỏi ba cõi, sáu đường, vì bị pháp tướng che, nên không thể nào chuyển được pháp mà trái lại bị pháp chuyển. Lục Tổ bảo rằng: “Pháp nào cũng thông, pháp nào cũng đủ mà không thể có được một pháp nào, đó là bậc Tối thượng thừa, niệm nào niệm nào cũng thành diệu huệ. Như thế mới vận dụng hết thảy các pháp”. Vấn đề còn lại là xả chấp, buông bỏ hay phủi sạch mà thôi. Giáo pháp Bát Nhã nói về “Không”, chẳng qua là một bài triết học nói về xả trừ , phóng xả không hơn không kém.

 

Trong Trung Bộ Kinh, Phật giảng rộng như sau: “Này các thầy Tỳ khưu, lời ta dạy ví như chiếc bè, để đưa qua, không phải để cất giữ. Hãy nghe nhớ kỹ lời ta đây. Ví như có người suốt ngày đi đường nhọc mệt gặp phải một con sông rộng nước sâu; bờ sông bên này đầy lo sợ và hiểm nghèo, còn bờ bên kia thì yên ổn, không sợ sệt, nhưng không có ghe thuyền đưa qua sông, mà cũng không có cầu bắt nối hai bờ. Ví như người ấy nghĩ bụng như vậy: Quả thật sông thì rộng nước thì sâu, bờ bên này đây lo sợ và hiểm nghèo, còn bờ bên kia thì yên ổn không sợ sệt; nhưng không có thuyền mà cũng không có cầu đưa ta qua bờ bên kia. Sao ta không thử lượm lặt những lau sậy, những que cành chà lá kết lại làm bè xem sao? Rồi ngồi trên bè, ta dùng tay dùng chân làm chèo, chèo êm qua bờ bên kia. Theo đó, nầy các Tỳ khưu, ví như người ấy lượm lặt những lau sậy, những que cành chà lá, kết lại làm bè, rồi dùng tay dùng chân làm chèo, chèo êm qua bờ bên kia. Bấy giờ, sông qua rồi, bờ đến rồi, ví như người ấy nói vầy: Quả thật chiếc bè ấy đã giúp tôi nên việc lớn. Nhờ nó chở tôi, và tôi dùng tay dùng chân làm chèo, tôi mới qua êm được đến bờ bên kia; bây giờ phỏng như tôi đội chiếc bè trên đầu hoặc mang nó trên vai, và cứ thế mà lên đường đi đâu tùy thích? Các thầy Tỳ khưu nghĩ sao? Người ấy dùng bè như vậy có khôn ngoan không? 

Bạch Ngài, nhất định là không.

Vậy, nếu là người khôn ngoan, người ấy phải xử trí làm sao với chiếc bè? Nầy các Tỳ khưu, người ấy nên nghĩ như vầy: Quả thật chiếc bè ấy đã giúp tôi nên việc. Nhờ ngồi trên bè, và chèo bằng tay chân, tôi qua êm được bờ bên kia. Giờ đây, nếu tôi bỏ lại chiếc bè ấy bên bờ, hoặc vứt mặc nó chìm xuống nước, và tôi lại tiếp tục lên đường? Các thầy tì khưu, nếu làm như vậy, người ấy đáng là người khôn ngoan khéo xử trí với chiếc bè.

Cũng như vậy đó, các thầy Tỳ khưu, giáo pháp tôi dạy các thầy ví như chiếc bè, cốt để đưa qua không phải để mang giữ. Thấu rõ ví dụ ấy, thì đối với pháp, các thầy còn phải xả thay huống gì là cái phi pháp”.

Bởi vậy, các thầy Tỳ khưu ơi, dù là sắc chất nào (rupam: vật chất hoặc thể xác) dù ở quá khứ, vị lai hay hiện tại, dù ở trong hay ở ngoài, dù thô hay tinh, dù tiện hay quí, xa hay gần, sắc nào cũng phải quán thấy đúng như thực trong ánh sáng của chính trí, nghĩa là quán thấy như vầy: 

 

“Cái này không phải là của tôi,

Tôi không phải là cái nầy,

Cái này không phải là tự ngã của tôi”.

 

Bốn uẩn (khanda) còn lại là thọ (vedana: cảm giác) tưởng (sanna: khái niệm) hành (sankhara: căn bản tạo tác) và thức (vinnanam: ý thức) cũng như vậy đó. Người nào quán thấy thế gian như vậy thì lìa thế gian, và như thế là thoát ly tất cả dục vọng tai hại, chứng đến tự do. Đó là người gạt bỏ chướng ngại xong, hào lũy lấp cạn hết, là người đã bạt trừ, đã tự do, đã hoàn tất cuộc chiến, đã trút bỏ gánh nặng, đã giải thoát.

Nói tóm lại, người ấy có tất cả đức tính của bậc Đại Giác, đức tánh thành tựu trong sự phối hợp nhịp nhàng giữa ý chí và trí thức.

Kinh Sutta Nipata nói: “Ta đã đóng xong chiếc bè chắc chắn, ta đã đến tận Niết bàn, ta đã qua bờ bên kia, chiến thắng dòng cuồng lưu tham dục; ta không còn dùng chiếc bè vào việc gì nữa, vậy trời muốn mưa cứ mưa”.

Chẳng có gì quý báu cần nắm giữ cất giấu nữa!

 

---o0o---

 

Phật phá cái chấp “Như Lai có chứng đắc

 quả Vô Thượng Bồ đề và thuyết pháp?

 

“Phật lại bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Bồ đề chăng? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật đã nói, không có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không có chút pháp nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói ra. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì pháp mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng, đã nói, đã tư duy đều không thể nắm giữ, không thể tuyên thuyết, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì sao? Vì các Hiền Thánh, chúng sanh đều là sự hiển hiện của pháp vô vi”.

 

Sau 49 ngày thiền định, khi sao mai va mọc, Phật đắc tam minh, ngũ nhãn, lục thần thông, hàng phục ma quân, đoạn trừ tất cả tập khí phiền não tương tục, trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Rồi từ đó Ngài chu du khắp một phần ba xứ Ấn, thuyết pháp độ sanh suốt 49 năm trước khi nhập Niết bàn. Nhưng tại sao Phật lại hỏi Thiện Hiện: Như Lai có được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không? Như Lai có thuyết pháp không? Và cụ thọ Thiện Hiện lại trả lời: Không.

Cụ thọ Thiện Hiện từng theo Phật tu học bao năm mà tại sao không biết việc đó. Câu trả lời của cụ thọ có nghĩa là Phật không chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chỉ là danh tự ngôn thuyết thế tục. Trong phẩm “Chân như”, quyển 323, Hội thứ I, ĐBN, Thiện Hiện bạch Phật: “(…)Nếu năng tin hiểu, không có pháp năng chứng, không có pháp sở chứng, không có xứ chứng, không có thời chứng, cũng không do đây mà có sở chứng, thời năng tin hiểu Vô thượng Bồ đề của chư Phật. Nếu chứng biết, không có pháp năng sở, nơi chốn, thời gian… hay do đây mà được chứng, thời có thể chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp đều rốt ráo rỗng không. Trong rốt ráo không, đều không có pháp khá gọi là năng chứng, khá gọi sở chứng, khá gọi xứ chứng, khá gọi thời chứng, khá gọi do đây mà có sở chứng. Vì sao? Các pháp đều không, hoặc tăng hoặc giảm đều vô sở hữu, đều bất khả đắc”.

Vô sở hữu, bất khả đắc ở đây có nghĩa là đừng lấy cái tâm tu hành mà mong cầu nắm bắt. Không có gì là chiếm giữ, không có gì là chứng đắc nên gọi là vô sở hữu, bất khả đắc. Bát Nhã ở đây phá cái chấp về danh tự ngôn ngữ. Quả vị Vô Thượng Bồ đề cũng là danh tự do người đặt ra, có tên để gọi, nên nó cũng thuộc về danh tự ngôn ngữ. Nó là cái vỏ bên ngoài, người ta gán cho mình, không thuộc về mình. Nếu người ta có thể gán cho mình(nhãn hiệu) thì người ta cũng có thể lột ra được. Cái thầm ngộ, tự chứng là cái thuộc về nội tâm, làm sao thấy được mà lột mà gỡ. Chỉ có mình tự ngộ, tự chứng. Ở đây Phật phá cái chấp về danh tự ngôn ngữ, chứ không phá pháp.

Đó là nói về chứng đắc. Còn nói về thuyết pháp: Phật cũng từng nói pháp 49 năm, nhưng cũng phủ nhận là không có nói một chữ, vì pháp tự nhiên thành, pháp tự pháp trụ. Trong Kinh Lăng Già, Phật nói kệ:

 

“Từ đêm Ta thành Đạo

Đến khi nhập Niết bàn

Ở trong khoảng giữa ấy

Ta trọn không có nói

Duyên tự pháp trụ

Nên Ta nói thế ấy”.

 

Pháp của Phật không do tư duy, suy tưởng mà do Phật tự thấy tự chứng rồi nói lại cho người. Tất cả pháp đều sẵn có trong trời đất, Phật không “chế” ra, không phải Phật ra đời mới có, khi Phật chưa ra đời thì không. Vì vậy, Kinh thường nói các pháp mầu Phật đạo không do Phật làm ra, không do Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn hay trời người làm ra… Nếu các pháp do người khác làm ra thì các pháp đó cũng thành sanh diệt, do tạo tác mà thành, thì cũng không thể tu không thể chứng. Nếu nói là “duyên tự đắc pháp trụ”, tức là các pháp tự có chứ không phải ai nghĩ ra, chế ra.

 

---o0o---

 

Phật nói công đức thọ trì Kinh này nhiều hơn bố thí thất bảo.

 

“Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đem bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới mà bố thí, thì thiện nam tử, hoặc thiện nữ này nhờ nhân duyên đây được số phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Nhờ nhân duyên đây nên thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì số phước đức mà Như Lai nói là chẳng phải phước đức, cho nên Như Lai nói là số phước đức.

Phật lại bảo Thiện Hiện:

- Thiện Hiện! Nếu có thiện nam, hoặc thiện nữ đem bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới để bố thí, và nếu có thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn này, cho đến bốn câu kệ mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì do nhân duyên đây số phước được nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều từ Kinh đây mà ra, chư Phật Thế Tôn đều sanh từ Kinh đây. Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì pháp chư Phật mà Như Lai nói là chẳng phải pháp chư Phật. Cho nên Như Lai nói là pháp chư Phật”.

 

Bảy báu là thứ khó tìm mà dùng bảy báu đầy khắp Tam thiên đại thiên thế giới để bố thí thì phước đức có được làm sao kể xiết. Nhưng nếu có người thọ trì Kinh này rồi giảng nói cho người khác nghe, từ một quyển, nửa quyển hay ít nhất là bốn câu kệ thì công đức của người này hơn người trước vô lượng vô số. Tại sao? Vì bố thí tài vật: Cơm ăn, áo mặc… chỉ là giúp ích về vật chất cấp thời đem lại no ấm cho con người, giải quyết được phần nào cái khổ não về vật chất. Nhưng bố thí pháp (pháp thí) dù ở trong phạm vi nhỏ hẹp cũng có thể giúp con người có cuộc sống an vui, giải thoát những phiền muộn của cuộc sống thế tục; trong phạm vi lớn hơn thì cứu thoát người ra khỏi luân hồi sanh tử; cao hơn nữa thì giúp con người thành Bồ Tát, thành Phật cứu độ tất cả chúng sanh thoát khỏi sanh tử hay vào Niết bàn.

Kinh này giải bày diệu lý chơn như, bao gồm giáo lý hạnh quả. Chẳng những tự mình thọ trì có thể tiến đến cực quả, mà còn giúp cho người khác thọ trì, khiến họ phát Bồ đề tâm tu hành chánh hạnh, chứng căn bản trí và hậu đắc trí mà thẳng đến quả Bồ đề. Rồi những vị đã thành đạt lại giáo hóa, cứu độ kẻ khác cũng như vậy theo cấp số nhân. Cho nên Kinh này được coi là mẹ của tất cả chư Phật, chư Bồ Tát. Giáo lý của Kinh này là tuyệt đối vô thượng thì lẽ dĩ nhiên, những ai thọ trì phải được phước đức không thể tính lường nói chi đến việc so sánh với người bố thí bảy báu.

Nhưng các pháp vô thượng này không có năng sở, ngoài vòng đối đãi, không thể luận bàn. Cho nên nói không có người thuyết, không có người nghe, không có pháp bị thuyết. Tất cả đều không, chỉ dùng lời nói để khiển trừ lời nói, nên tạm gọi là pháp Phật. Nếu còn thấy Ta là người nói pháp, chúng sanh là người nghe và có pháp do Ta thuyết, tức năng sở chủ khách vẫn còn nguyên, vọng chấp chưa tiêu làm sao chứng Bát Nhã Trí. Vì thế, Phật bảo Thiện Hiện: Pháp Như Lai thuyết chẳng phải pháp chư Phật.

HT Thích Thiện Hoa trong Phật Học Phổ Thông, khóa XII, sơ lược về Kinh Kim Cương, nói như sau: “Từ hồi nào đến giờ, tất cả pháp không phải sắc, không phải tâm, không phải trí không phải thức v.v… chỉ vì chúng sanh vọng chấp phân biệt, so sánh đối đãi với nhau mà thành ra thế này hay thế kia như đối với hữu thì nói là vô, đối với sắc thì gọi là tâm, đối với thức thì gọi là trí, đối với cao thì gọi là thấp, đối với lớn gọi là nhỏ, đối với tốt gọi là xấu v.v… Nếu chúng sanh xa lìa vọng chấp thì không có pháp gì gọi được (tức thuyết được). Lúc bấy giờ hành giả mới thấy rõ các pháp không thể kêu gọi (ly danh tự tướng), không thể nói năng luận bàn (ly ngôn thuyết tướng) hay suy nghĩ được (ly tâm duyên tướng)".

 Đó chính là yếu chỉ của Kim Cương Năng Đoạn, cắt đứt tất cả dây mơ rễ má trong ngoài để tâm được an nhiên tự tại.

 

---o0o---

 

Không nên chấp mình chứng bốn quả Thanh văn.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các vị Dự lưu có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Dự lưu không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Dự lưu không nghĩ rằng ta chứng được quả Dự lưu. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì các vị Dự lưu không dự một chút pháp gì nên gọi là Dự lưu. Không dự sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi Dự lưu.

Bạch Thế Tôn! Nếu vị Dự lưu nghĩ như vầy: Ta chứng được quả Dự lưu, tức là vị ấy chấp ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la v.v…

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các vị Nhất lai có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Nhất lai không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Nhất lai không nghĩ rằng, ta chứng được quả Nhất lai. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào để chứng tánh Nhất lai, nên gọi Nhất lai.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các vị Bất hoàn có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Bất hoàn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Bất hoàn chẳng nghĩ rằng, ta chứng được quả Bất hoàn. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào để chứng tánh Bất hoàn, nên gọi là Bất hoàn.

Phật bảo:

- Thiện hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các vị A la hán có nghĩ rằng: Ta chứng được quả A la hán không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị A la hán chẳng nghĩ rằng, ta chứng được tánh A la hán. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào gọi là A la hán, do nhân duyên đây nên gọi là A la hán.

Bạch Thế Tôn! Nếu A la hán khởi nghĩ như vầy: Ta chứng được tánh A la hán, tức là chấp ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la… Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói: Con được trụ Vô tránh tối thượng bậc nhất. Bạch Thế Tôn! Dù con là A la hán lìa hẳn tham dục, song con chưa từng khởi nghĩ như vầy: Ta được A la hán lìa hẳn tham dục.

Bạch Thế Tôn! Nếu con khởi nghĩ rằng: Ta được A la hán lìa hẳn tham dục, thì Như Lai chẳng nên nói với con rằng: Thiện nam tử Thiện Hiện đắc trụ Vô tránh tối thượng bậc nhất. Vì hoàn toàn vô trụ, nên Như Lai nói là Vô tránh trụ”.

 

Sơ giải:

 

Tu Tiểu thừa thì chứng được bốn quả: Tư đà hoàn(Thất lai hay Dự lưu), Tư đà hàm(Nhất lai), A na hàm(Bất hoàn) và A la hán:

- Quả thứ nhất gọi là Tu đà hoàn, còn gọi là Thất lai hay Dự lưu: Các vị này đã đoạn được kiến hoặc nhưng chưa đoạn được tư hoặc. Nên phải trở lại thế gian này bảy lần nữa để đoạn trừ 9 phẩm tư hoặc, mới thoát khỏi sanh tử. Vì vậy, gọi là Thất lai. Còn Dự Lưu có nghĩa là mới nhập vào dòng Thánh.

- Quả thứ hai gọi là Tu đà hàm: Còn gọi là Nhất lai. Những vị này cần phải một lần nữa tái sanh để đoạn trừ tư hoặc hay tư dục ở trong nội tâm. Kinh nói dục giới có 9 phẩm tức cái thấy sai lầm về Sự. Tư đà hàm phải đoạn 6 phẩm, còn ba phẩm chưa đoạn hết, nên phải trở lại. Bởi tư hoặc không thể đoạn một lần thì xong. Nếu cái thấy, cái hiểu biết sai lầm mà có người hướng dẫn chỉ bảo thì có thể dứt trừ ngay được, còn cái nghiệp huân tập, cái dục trong nội tâm rất khó sửa đổi, nên gọi là nghiệp tập vi tế. Bởi thế phải công phu lâu dài.

- Quả thứ ba gọi là A na hàm hay Bất lai. Những vị này không còn trở lại nữa sau khi đoạn trừ hết 9 phẩm tư hoặc, đoạn hết 9 phẩm thuộc về Dục giới này liền lên cõi Trời Ngũ A Na Hàm thiên, ở đó rồi vào Niết bàn, không sanh trở lại Dục giới nữa, nên gọi là Bất lai.

- Quả thứ tư là A la hán: A la hán có nghĩa là:

1- Sát tặc: Tức dứt sạch mọi phiền não;

2- Ứng cúng: Bậc giải thoát được nhơn thiên cúng dường;

3- Vô sanh: Tức không còn tái sanh tử nữa.

Ở đây nhằm nghĩa thứ ba là vô sanh. Trong Tứ Thập Nhị Chương có chép: Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng. Nghĩa là tu không chấp vào mình tu, thế mới gọi là tu. Chứng không chấp vào mình chứng, thế mới thật là chứng. Nếu người tu và chứng đúng theo tinh thần này thì khế hợp với Bát Nhã, nghĩa là không còn vọng chấp ngã, pháp và bốn tướng, thì mới là thật tu thật chứng(1).

Vì vậy, Thiện Hiện mới lấy mình làm thí dụ: Cũng như con đây vì không có chấp mình có tu chứng, nên mới được Như Lai cho là đắc Vô tránh tam muội, người ưa tu hạnh A lan nhã, ly dục bậc nhất.

Hạnh vô tránh là không thích tranh cãi, không tranh cãi là tức là thanh tịnh lặng lẽ. Hạnh A lan nhã, hay hạnh viễn ly, sống xa trần lìa cấu cũng có nghĩa là thích tịch tịnh. Ly dục tức không còn ham muốn, nắm bắt nữa. Nếu không ham muốn nắm bắt thì tâm tịnh. Vậy, vô tránh tam muội, hạnh A lan nhã, ly dục đều chỉ cho trạng thái hoàn toàn thanh tịnh, nên Thiện Hiện mới được Phật trao ký là bậc A la hán, là trưởng lão lý giải Tánh Không vào bậc nhất trong 10 đệ tử lớn của Phật thời bấy giờ.

Tóm lại, Vô tránh tam muội, hạnh A lan nhã hay ly dục là nói tới cái tâm tịch tĩnh của chính mình. Còn quả A la hán do cái tâm không còn sanh diệt chứ không có gì khác. Đó là cái thầm chứng. Dù cho ai thọ ký cho mình là Thất lai, Nhất lai, Bất lai, A la hán, Độc Giác Bồ đề, Bồ Tát hay quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác cũng là những danh tự bên ngoài. Nếu khởi niệm mình đã chứng đắc bốn quả tức mình là có sở đắc, có chỗ được, có được là có mất, tức vẫn còn sanh diệt. Có chỗ trụ tức là còn dính tướng, dính tướng thì làm sao chứng tánh.

Nên học Bát Nhã là phá chấp để ly tướng, ly tướng thì trở về với tự tánh chân thật. Vọng ngoại tìm cầu là tự dối mình dối người, nên dễ bị gạt. Kim Cương năng đoạn là vậy.

Kinh ĐBN có một đoạn Kinh cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: “Nếu năng tin hiểu, không có pháp năng chứng, không có pháp sở chứng, không có xứ (xứ sở) chứng, không có thời (thời gian) chứng, cũng không do đây mà có sở chứng, thời năng tin hiểu Vô thượng Bồ đề của chư Phật. Nếu có chứng biết, không có pháp năng chứng, không có pháp sở chứng, không có xứ chứng, không có thời chứng, cũng không do đây mà có pháp sở chứng, thời năng chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp đều rốt ráo rỗng không. Trong rốt ráo không, đều không có pháp khá gọi là năng chứng, khá gọi sở chứng, khá gọi xứ chứng, khá gọi thời chứng, khá gọi do đây mà có sở chứng. Vì sao? Các pháp đều không, hoặc tăng hoặc giảm đều vô sở hữu, bất khả đắc”.

Vì vậy, nếu tu mà còn thấy mình tu, thấy mình chứng là còn thấy sở cầu, sở đắc dù đó là quả vị nhỏ nhoi nhất. Còn thấy chỗ để cầu để đắc nên không bao giờ chứng đắc. Vô sở hữu, bất khả đắc mới đắc mới hiện quán. Tôn chỉ Bát nhã Ba la mật là vậy!

Thích nghĩa cho đoạn sơ giải này:

(1). Quyển 567, phẩm “Pháp Giới”, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo:

- “Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba la mật xuất thế và hậu đắc trí vô phân biệt có thể chứng, có thể đắc.

- Kính bạch Thế Tôn! Nghĩa chứng và đắc có gì khác?

- Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba la mật xuất thế có khả năng thấy đúng như thật nên gọi là chứng, hậu đắc trí thông suốt nên gọi là đắc”.

Thấy đúng chơn như thật tướng thì gọi là chứng. Thông suốt tất cả pháp thì gọi là đắc. Nhưng chứng mà chẳng có gì để chứng, đắc cũng chẳng có gì để đắc, chỉ mình tự hội. Mong cầu nắm bắt như nắm bắt một làn hương! Vì vậy, kinh Bát Nhã khuyên phải đoạn trừ kiến chấp. Vì vậy, mới có đoạn kinh sau.

 

---o0o---

 

Phật phá cái chấp “Như Lai có đắc pháp”.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thuở xưa, Như Lai ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có nắm giữ chút pháp nào không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Thuở xưa, Như Lai ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoàn toàn không có chút pháp nào để nắm giữ”.

 

Đoạn Kinh trên Phật phá cái chấp “Như Lai có chứng đắc quả Vô Thượng Bồ đề và thuyết pháp. Đoạn Kinh này Phật lại hỏi Thiện Hiện: Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng có đắc pháp gì không?

Theo Kinh Bổn Hành Tập và Thoại ứng: Phật Nhiên Đăng khi chưa xuất gia tên là Đĩnh Quang, sau xuất gia thành đạo có tên là Nhiên Đăng. Lúc bấy giờ, Đức Thích Ca đang ở thất địa Bồ Tát có tên là Nho Đồng cũng còn gọi là Thiện Tuệ, đang lúc sắp mãn A tăng kỳ kiếp thứ hai thì gặp Phật Nhiên Đăng nghe pháp chứng vô sanh pháp nhẫn mà nhập bát địa tức vào A tăng kỳ kiếp thứ ba. Phật Nhiên Đăng vì đó mà thọ ký: Từ đây về sau 91 kiếp, gọi là Hiền Kiếp sẽ làm Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Lịch sử là như thế. Nhưng khi Phật hỏi Thiện Hiện thì Thiện Hiện trả lời: Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng hoàn toàn không có đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác.

Không phải cụ Thọ không biết Đức Thế Tôn được thọ ký từ Phật Nhiên Đăng. Trong Kinh Đại Bát Nhã, phẩm “Khen Các Đức Tướng”, quyển 99, Hội thứ I, Phật đã kể lại việc được thọ ký của mình trong thành Chúng Hoa trước mặt tất cả các đệ tử và các Tiên Thiên. Cụ Thọ hơn ai hết biết rõ điều đó. Nhưng tại sao cụ Thọ Thiện Hiện trả lời là không. Nếu Như Lai còn chấp mình “có đắc pháp và được thọ ký”, tức Như Lai còn chấp ngã (Ta được), chấp pháp (đắc pháp) thì không phải là Như Lai. Bởi thế, Thiên Hiện trả lời là Như Lai chẳng đắc pháp gì cả.

Vì Như Lai không chấp mình có đắc pháp và được thọ ký, nên không mắc vào chấp bốn tướng mà rơi vào hữu sở đắc, nên mới nhập được Bát Nhã. Như thế, mới gọi là đắc pháp và được thọ ký. Đó là ý nghĩa của vô sở trụ, vô sở đắc của Kinh này.

Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 129, Hội thứ I, ĐBN Thiên Đế Thích bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Đại Ba la mật, là Vô thượng Ba la mật, là Vô đẳng đẳng Ba la mật. Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, tuy biết tâm hành cảnh giới của tất cả hữu tình sai khác, mà bất đắc ngã, bất đắc hữu tình, mạng giả (dòng sinh mạng), sanh giả (người sanh), dưỡng giả (người dưỡng dục), sĩ phu (người trưởng thành), bổ đặt già la (chủ thể luân hồi), ý sanh (người do người sanh), nho đồng (ngã tối thắng), tác giả (người tạo tác), thọ giả (người thọ), tri giả (người biết), kiến giả (người thấy). Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc sắc, bất đắc thọ tưởng hành thức. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc 12 xứ, bất đắc 18 giới. Bồ Tát ma ha tát này cũng bất đắc địa giới, bất đắc thủy hỏa phong không thức giới (lục đại chủng). Bồ Tát ma ha tát này cũng bất đắc vô minh, bất đắc hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não (Thập nhị nhân duyên). Bồ Tát ma ha tát này cũng bất đắc bố thí Ba la mật, bất đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật (lục độ). Bồ Tát ma ha tát này cũng bất đắc nội không, bất đắc ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không (18 pháp Không). Bồ Tát ma ha tát này cũng bất đắc chơn như, bất đắc pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới (Thập nhị chân như). Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc khổ Thánh đế, bất đắc tập, diệt, đạo Thánh đế (Tứ đế). Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc bốn tĩnh lự, bất đắc bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc tám giải thoát, bất đắc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc bốn niệm trụ, bất đắc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi (37 bảy pháp trợ đạo). Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc không giải thoát môn, bất đắc vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc năm nhãn, bất đắc sáu thần thông. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc Phật mười lực, bất đắc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 Pháp Phật bất cộng. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc tất cả Đà la ni môn, tất cả Tam ma địa môn. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc Dự lưu, bất đắc Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc Dự lưu hướng Dự lưu quả, bất đắc Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc Độc giác, bất đắc Độc giác Bồ đề. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc Bồ Tát Ma ha tát, bất đắc pháp Bồ Tát Ma ha tát. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba la mật đây, chẳng phải nhân có sở đắc mà được hiện tiền vậy. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đều vô tự tánh, cũng bất khả đắc. Năng đắc, sở đắc 2 chỗ nương, tánh tướng đều rỗng không bất khả đắc vậy.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng: Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Vì sao? Kiều Thi Ca! Bồ Tát Ma ha tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm hãy bất đắc Bồ đề và Tát đỏa, huống là đắc Bồ Tát. Bồ Tát này đã bất khả đắc, thì đâu đắc pháp Bồ Tát. Bồ Tát cùng pháp Bồ Tát còn bất khả đắc, huống là đắc chư Phật và pháp của chư Phật!”

Đó là giáo lý vô sở hữu, bất khả đắc của Bát Nhã: Tất cả căn trần xứ giới, 18 pháp Không cho tới tất cả các thiện pháp từ tứ đế, thập nhị nhân duyên, lục độ, bốn quả Thanh văn, hoặc Độc giác Bồ đề hoặc Bồ Tát, quả vị Phật đều bất khả đắc... Nên Thiên đế Thích nói:

“Vì sao? Vì Đại Bát Nhã Ba La Mật đây, chẳng phải nhân có sở đắc mà được hiện tiền vậy. Vì sao? Vì Đại Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm đều vô tự tánh, cũng bất khả đắc. Năng đắc, sở đắc hai chỗ nương, tánh tướng đều trống không bất khả đắc vậy”.

 

---o0o---

 

Phật phá cái chấp “Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật”.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu có Bồ Tát nói lời như vầy: Ta sẽ thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật. Bồ Tát nói như thế là chẳng phải nói lời chơn thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì công đức trang nghiêm cõi Phật ấy, Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm. Cho nên Như Lai nói là công đức trang nghiêm cõi Phật”.

 

Đoạn này Phật phá cái chấp làm trang nghiêm cõi Phật. Bồ Tát làm Phật sự, giáo hóa chúng sanh, mỗi công hành đều hồi hướng Phật độ, đây gọi là trang nghiêm. Nhưng nếu Bồ Tát còn chấp ta làm Phật sự, ta giáo hóa chúng sanh tức chấp ngã, chấp pháp… tức năng sở đây kia còn nguyên làm sao có thể trang nghiêm, thanh tịnh cõi Phật.

Phải chăng Bát Nhã đưa ra một phản biện ngược đời: “Không trang nghiêm mới chính là trang nghiêm?” Thông thường người ta gọi đại Bồ Tát trang nghiêm, có nghĩa nói một cách nghiêm chỉnh rằng Bồ Tát hiện thân ở cõi này mục đích là làm cho cõi này mỗi ngày mỗi tươi đẹp hơn lên, mỗi ngày mỗi thanh tịnh trong sáng hơn lên vì muốn cõi nước này không còn phiền não, khốn khổ nữa. Nói khác, là Bồ Tát muốn tạo một mô hình hoàn hảo, đầy trang nghiêm mà tất cả các cõi nước khắp Tam thiên hằng ngưỡng mộ. Bồ Tát mới an trụ trong Bát nhã Ba la mật, dạy chúng hữu tình thực hành lục Ba la mật, tứ niệm xứ, mười tám pháp bất cộng cho đến Nhất thiết trí để thành thục chúng sanh và thanh tịnh quốc độ. Đây gọi là đại Bồ Tát đại trang nghiêm. Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa do Ngài La Thập dịch, cũng nằm trong Hội thứ II do Phật thuyết, quyển thứ 05, diễn đạt như sau:

 “Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Theo con hiểu ý Phật nói thời đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm. Vì các pháp tự tánh rỗng không vậy”.

Đức Phật nói: “Phải lắm, đúng như lời ông nói. Nầy Tu Bồ Đề! Nhất thiết trí chẳng phải là tác pháp, chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp. Đại Bồ Tát vì chúng sanh này mà đại trang nghiêm. Tại sao? Vì tác giả bất khả đắc vậy.

Này Tu Bồ Đề! Nhất thiết trí chẳng phải là pháp làm ra, sanh ra, chúng sanh này cũng chẳng phải pháp làm ra, sanh ra. Tại sao? Vì sắc chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra; ngã nhơn nhẫn đến tri giả, kiến giả chẳng phải làm ra, chẳng phải chẳng làm ra.

Tại sao vậy? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy”.

Đây không phải là một phản biện nghịch đời. Vì Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa quan niệm rằng: Các pháp tự tánh rỗng không, cho đến Nhất thiết trí cũng chẳng phải là tác pháp, chúng sanh cũng không phải là tác pháp. Bồ Tát vì chúng sanh này mà đại trang nghiêm. Tại sao? Vì tác giả bất khả đắc, vì tất cả pháp rốt ráo cũng bất khả đắc. Nên trang nghiêm mà không thấy năng sở thì mới thật là trang nghiêm!

Giáo pháp của Bát Nhã tánh Không là: Các pháp tự tánh rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc. Đó cũng chính là giáo pháp vô trụ vô trước vậy. Đoạn kế sẽ nói tiếp giáo pháp này.

 

---o0o---

 

Phật dạy: “Đừng sanh vọng tâm trụ chấp nơi nào”.

 

“Vậy nên, Thiện Hiện! Bồ Tát nên sanh tâm hoàn toàn vô trụ như vậy. Nên sanh tâm chẳng trụ sắc, nên sanh tâm chẳng trụ phi sắc. Nên sanh tâm chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp. Hoàn toàn sanh tâm vô trụ như thế”.

 

“Đừng sanh vọng tâm tr chấp nơi nào”. Đây là câu nói thời danh mà Lục Tổ chứng nhập. Khi xưa Lục Tổ Huệ Năng nghèo dốt làm nghề đốn củi nuôi thân và phụng dưỡng mẹ già. Một hôm, ông gánh củi đến bán cho một phú ông, trong khi ngồi đợi để giao hàng thì nghe phú ông tụng Bát Nhã tới câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền hoắt ngộ, nên mới hỏi phú ông là tụng Kinh gì mà hay quá vậy? Phú ông mới cho biết là tụng Kinh Kim Cang. Phú ông lại nói thêm ở chùa Đông Thiền huyện Huỳnh Mai có Ngũ Tổ tên là Hoằng Nhẫn thường khuyên kẻ Tăng người tục trì tụng Kinh này thì thấy tánh, thành Phật. Nghe tới đó, chàng tiều phu trẻ tuổi có ý định đi tu, nhưng còn mẹ già không ai phụng dưỡng, nên không biết tính sao. Phú ông nghe tâm sự như vậy, mới đề nghị: Vậy ngươi nên đốn củi thật nhiều, ta sẽ trả vàng cho để nuôi mẹ. Lục Tổ làm việc vất vả, tìm đủ số vàng nuôi mẹ, mới theo lời chỉ dẫn của phú ông lần đến thôn Hoàng Mai, gặp Ngũ Tổ học đạo. Sau đó chứng ngộ và được Ngũ Tổ truyền y bát làm Tổ thứ sáu. Đó là tóm tắt cái duyên chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà trở thành đại ngộ(1).

Đừng sanh vọng chấp do sáu trần lôi cuốn mà sanh chấp ngã, chấp pháp, chấp các tướng… rồi bị phiền não. Phiền não sẽ sanh ra các lậu hoặc, do lậu hoặc mà gây tạo tác, vì tạo tác thì phải thọ quả, nên phải luân hồi trong sáu nẻo. Nếu không trụ chấp nơi sáu trần hay bất cứ thứ gì khác… tâm sẽ an tịnh thì không tạo nghiệp, không tạo nghiêp thì không bị lưu chuyển trong luân hồi sanh tử. Đó là pháp tu của Đại thừa đốn giáo, rất giản dị nhưng mang nhiều hiệu quả trong việc “hàng phục vọng tâm và an trụ chân tâm”.

 

Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 600, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo:

“Chẳng phải tất cả các pháp có nghĩa khá trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không nắm giữ. Bởi không nắm giữ nên không thể trụ được. Nếu tất cả pháp có thể trụ, thì có thể thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp thường trụ. Như Lai cũng có thể an trụ vào các pháp, thị hiện các pháp, đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp có thể tích tập.

Vì tất cả pháp không thể an trụ, không thể nắm giữ, cũng không thể tích tập, cho nên không có pháp nào là thường trụ. Do đó mà Như Lai không an trụ vào pháp nào, cũng không thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ hay đây là pháp có thể tích tập”.

Giáo lý này được thuyết rất nhiều lần, nên chúng ta hiểu có trụ là có quái ngại, nhất là trụ vào nhị pháp thường đoạn, được mất, có không v.v... Nhưng Kinh nhiều lần nói: Chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Nếu không trụ vào chơn như pháp giới, chẳng trụ vào Bát nhã Ba la mật thì làm sao tu hành, làm sao đắc quả? Trụ cứ trụ nhưng đừng dính ngã, ngã sở vào đó. Nếu cho Ta có khả năng trụ vào chơn như pháp giới hay bất cứ pháp nào được xem là mang lại nhiều công đức nhất... Do chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ này, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Muốn được như vậy thì không nên trụ chấp bất cứ thứ gì. Trụ trong chữ trụ xứ. Trụ là trú, là ở; xứ là nơi chốn. Nói nôm na trụ xứ là chỗ ở, chỗ trú. Trong nhà Thiền hay trong văn chương Phật giáo thường dùng những danh từ như bổn trụ, y chỉ, tông phong, sở ngộ… nó mang màu sắc tinh thần nhiều hơn là chỗ ở, chỗ che nắng đụt mưa thường ngày. Trụ xứ đó chính là địa bàn hoạt dụng của các đạo gia mà địa bàn đó là vô sở trụ. Đó là cái kỳ đặc ngược đời trong cuộc sống tâm linh của các Bồ Tát.

Phật dạy: “Bồ Tát nên sanh tâm hoàn toàn vô trụ như vậy. Nên sanh tâm chẳng trụ sắc, nên sanh tâm chẳng trụ phi sắc. Nên sanh tâm chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp. Hoàn toàn sanh tâm vô trụ như thế”.

 

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, phần Phật tự thuyết có ghi: “Trong cái thấy không có nắm tướng chung, không có nắm tướng riêng. Trong cái nghe chỉ là cái nghe, không có nắm tướng chung, không có nắm tướng riêng v.v…”  Có thấy có nghe mà không sanh vọng tâm chấp vào cái thấy nghe tức không trụ ở sắc hay thanh thì tâm không động. Đối với chúng sanh tâm lúc nào cũng sanh khởi theo hình sắc danh tướng… Tâm càng sanh thì càng khổ. Nên Phật khuyên đừng bám trụ vào đâu mà sanh tâm, thì mới làm chủ trọn vẹn được chính mình.

Trong Bát Nhã Bát Thiên Tụng, tương đương với Tiểu Bản Bát Nhã của Ngài Huyền Trang dịch, có câu: “Tâm Như Lai không trụ bất kỳ đâu, không trụ trên các pháp hữu vi, không trụ trên các pháp vô vi, và do đó không rời khỏi sở trụ”.

Kinh Duy Ma cũng có đoạn: “Bồ đề không trụ, do đó không chứng” hay “nương theo cội nguồn không trụ mà các pháp được thành lập”.

Kinh Lăng Nghiêm lại nói: “Những vị Bồ Tát như thế lấy tất cả cõi Phật làm trụ xứ, nhưng không dính mắc vào trụ xứ này, vì vốn không thể thấy, không thể chứng”.

 

Trong Thiền luận III, Thiền sư D.T. Suzuki viết như sau:

“Khi chúng ta bảo rằng trụ xứ của Bồ Tát quả thực là không trụ xứ, rằng Bồ Tát cố định ở chỗ không cố định, rằng lang thang hay lơ lửng như những cụm mây trời không cần có hậu cứ, nói như thế có vẻ không nói gì hết. Nhưng đó là đường lối của những nhà Đại thừa Phật giáo đã tự luyện tập trong đời sống hành đạo của họ; không thể áp dụng những định luật tiêu biểu của pháp thức suy luận vào đó”.

Vì vậy, Thiền sư mới nói: “Khi có trụ điểm cố định, ở đâu đó, dù ở trong Bát nhã, đấy là một kết quả nó trói buộc chúng ta, và chúng ta không còn độc lập trong tri thức, đạo đức hay tâm linh. Bát nhã Ba la mật như thế dạy chúng ta quét sạch mọi trụ điểm cố định có thể có, hay quét sạch mọi vọng tưởng. Khi đạt được thế giới không còn những vọng tưởng, đấy là vô trụ xứ hay trụ trong Tánh Không. Phật hay Bồ Tát nói ra giáo pháp của mình từ chỗ vô trụ xứ đó; cho nên, trong đó, không có người thuyết, không có pháp được thuyết cũng không có người nghe thuyết”.

 

Phẩm “Hiện Tướng”, Q.570, Hội thứ VI, ĐBN. Nói:

 

1- “(...)Vì đại Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Thí như có người sanh cõi Vô sắc, trong tám vạn đại kiếp chỉ có một thức, không có chỗ trụ cũng không có chỗ duyên. Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa như vậy, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì các Bồ Tát này, tâm không hành cũng không có chỗ hành, tâm không tưởng cũng không có chỗ tưởng, tâm không duyên cũng không có chỗ duyên, tâm không dính mắc cũng không có chỗ dính mắc, tâm không loạn cũng không có chỗ loạn, tâm không cao thấp, tâm không thuận nghịch, tâm không buồn, không vui, không phân biệt, lìa phân biệt, lìa Xa ma tha, Tỳ bát xá na, tâm chẳng theo trí, tâm chẳng trụ nơi mình cũng chẳng trụ nơi khác, chẳng nương vào mắt mà trụ, chẳng nương vào tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà trụ, chẳng nương vào sắc mà trụ, chẳng nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà trụ. Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở hai bên. Tâm chẳng duyên pháp cũng chẳng duyên trí, chẳng trụ 3 đời cũng chẳng lìa 3 đời”.

Đó là chỗ cao tuyệt của tu hành. Muốn được như vậy thì phải gia công tập luyện thôi.

 

2- “(...) Trí tuệ của các Bồ Tát này không trụ hữu vi, không trụ vô vi; không trụ các uẩn và các xứ, các giới, không trụ trong, ngoài và hai bên; không trụ thiện, ác và thế gian hay xuất thế gian; không trụ nhiễm, tịnh, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi; không trụ ba đời và lìa ba đời; không trụ hư không, trạch diệt, phi trạch diệt. Các Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa, tuy tâm thường vô trụ như vậy, nhưng thông đạt tánh tướng các pháp; dùng trí vô ngại, vô công dung hạnh, tuyên thuyết các pháp thường tại tịch tĩnh, làm việc giáo hóa không có ngừng nghỉ. Nguyện lực đời trước của các Bồ Tát ấy vững mạnh, vô công dụng hạnh, vì người khác mà nói pháp. Các Bồ Tát ấy nhờ phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật nên thường không kinh sợ. Vì sao? Vì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm có thần Chấp Kim Cang thường luôn đi theo bảo vệ”.

Cái khó là biết tất cả các pháp dù mang nhiều công đức nhất mà không được trụ chấp. Vì mỗi khi có sở trụ là có dính mắc. Có dính mắc là có quái ngại thì không phải là chân trụ. Đó mới gọi là khó!

 

Kết luận:

(cho đoạn Kinh này)

 

Cư sĩ Giang Vị Nông nói: “Hiểu rõ chân thật nghĩa của vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, thì chỗ bảo là sanh là nhậm vận tự nhiên mà sanh, chỗ bảo là trụ ấy là không ngại gì tùy duyên mà trụ. Tùy duyên mà trụ là vô tâm ở cái trụ, tuy trụ mà không có chỗ trụ. Nhậm vận tự nhiên mà sanh, là pháp nhĩ hiển hiện như thế, nói sanh mà thực không có chỗ sanh. Quả nhiên, có thể như thế, thì pháp nào cũng đều hiển lộ ra vô trụ chân tâm, vật nào cũng là Bát Nhã thật tướng. Như chỗ Cổ đức nói: “Trần trần là báu, chỗ chỗ gặp nó”.

Cho nên cụ thọ Thiên Hiện trước đây lúc thấy Thế Tôn mặc áo, cầm bình bát khất thực, đi ra đi về, hiển được diệu đế vô sở trụ, liền từ trong đại chúng đứng ra tán thán: “Hi hữu thay Thế Tôn! Thiện hộ niệm, thiện phó chúc” mà thỉnh vấn kẻ phát đại tâm phải làm sao mà trụ, làm sao hàng phục? Thế Tôn nhân dịp này ấn chứng: “Thiện hộ niệm, phó chúc, phải như chỗ ngươi nói mà trụ như thế, mà hàng phục như thế”.

 

Phẩm “Đa Vấn Bất Nhị”, quyển 363, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, Đại Bồ Tát do trụ chỗ nào mà chứng thật tế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Ông có do trụ đạo mà hết các lậu, tâm được giải thoát chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Này Thiện Hiện! Ông do trụ phi đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không!

-  Này Thiện Hiện! Ông do trụ đạo phi đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Này Thiện Hiện! Ông do trụ phi đạo phi phi đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không! Chẳng phải con có trụ mà được hết các lậu, tâm vĩnh viễn giải thoát. Nhưng con hết các lậu, tâm được giải thoát là hoàn toàn không trụ vào đâu.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát cũng như thế, tu hành Bát nhã Ba la mật hoàn toàn không trụ vào đâu mà chứng thật tế”.

Có trụ thì không chứng, vô trụ mới chứng. Giáo lý này có thể tìm thấy trong bất cứ quyển Kinh nào thuộc Hệ Bát Nhã.

Tất cả giáo lý vô trụ quan trọng được dẫn chứng trên như là một chuỗi ngọc vô giá cho hành giả Bát Nhã, phải cố gắng nghiền ngẫm để tự thâm nhập như Lục Tổ thôi.

Thích nghĩa cho đoạn kinh này:

(1). Truyền thuyết này trích trong Kinh “Kim Cang Giảng Giải” của HT. Thích Thanh Từ.

 

---o0o---

 

Phật phá cái chấp “Thân thể lớn như núi Tu di”.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như có người nam thân thể to lớn, giả sử sắc thân của vị ấy như núi chúa Diệu Cao. Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thân thể của vị ấy có to lớn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế tôn! Thân thể của vị ấy rất to lớn. Bạch Thiện Thệ! Rất to lớn! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì thân thể của vị ấy, Như Lai nói là chẳng phải thân thể của vị ấy, nên gọi là thân thể. Chẳng vì thân thể ấy mà gọi là thân thể”.

 

Chúng ta nghe HT. Chí Công đã nói ở trên: “Trong thân có tướng là thân vô tướng, trên đường vô minh là đưng vô sinh”. Báo thân là thân có tướng do cha mẹ sanh, có thành có hoại tức có sống có chết, giả hợp do tứ đại tạo thành, nên có thể thấy lớn thấy nhỏ. Vì vậy, Thiện Hiện trả lời thân vị ấy lớn lắm. Lớn như núi Tu di nên mới nói là lớn. Vì cái lớn nhỏ này có thể thấy bằng mắt trần, so sánh được, phân biệt được.

Nhưng pháp thân là thân vô tướng, không do cha mẹ sanh, không thành không hoại, không có hình tướng, không có số lượng, nên Ngài Phó Đại sĩ mới nói: “Có hình trọn chẳng lớn, không tướng mới là chân”. Thấy tướng cho là lớn nhỏ tức bị tướng che. Tướng che vì tưởng mà sanh vọng, vọng sanh nên không phải là chân. Thấy tướng mà lìa tướng liền được cái chân thật hiện tiền, nên nói là chứng tánh.

Đoạn Kinh này phá cái chấp về thân tướng để tự mình soi lại cái thân tướng giả hợp này để đừng tưng tiu chiều chuộng, quá lo lắng về nó mà quên đi những giá trị tinh thần khác. Thấy tướng mà ôm cứng lấy tướng thì bị tướng che nên không thấy tánh. Thấy tướng mà ly tướng thì tâm tự lặng. Đó chính là chỗ tu hành. Thấy vô tướng là cái thấy chân thật, mới có đạo nhãn thanh tịnh.

Phẩm “Chân Như”, quyển 323, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo Xá Lợi Phất:

Xá Lợi Tử! Có các Bồ Tát vì sơ phát tâm chẳng lìa Nhất thiết trí trí, siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, phương tiện khéo léo. Tuy nhớ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến quá khứ, vị lai, hiện tại mà chẳng lấy tướng. Tuy tu tất cả không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng chẳng lấy tướng. Tuy nhớ các thứ công đức căn lành mình người, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng chẳng lấy tướng. Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát này chẳng trụ Thanh văn hoặc bậc Độc giác, thẳng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm cho đến rốt ráo thường chẳng xa lìa tâm Nhất thiết trí trí. Tuy tu bố thí mà chẳng lấy tướng; tuy tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã cũng chẳng lấy tướng. Tuy nhớ bao nhiêu nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại cũng chẳng lấy tướng. Tuy tu tất cả đạo Bồ Tát không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng chẳng lấy tướng”.

Bồ Tát phải đem tâm ly tướng mà tu các thiện pháp. Đối với sở tu, sở cầu không sở nhiếp thọ. Vì năng tu sở tu đều vô sở hữu, bất khả đắc. Nếu năng hành được như vậy, thì không bị tướng che, liền thấy Tánh.

Lại nữa, Kinh nói: “Phật thuyết phi thân thị danh đại thân”. Phi thân là trỏ pháp thân mà nói, thị danh là trỏ báo thân mà nói. Báo thân thì có hình tướng lớn nhỏ, đẹp xấu. Phi thân làm gì có hình tướng lớn nhỏ. Kẻ đắc quả có pháp thân nhưng không trụ ở pháp thân này, nên mới chứng được vô tướng mà xứng tánh, nên lúc nào cũng có đạo nhãn thanh tịnh. Thấy thân là phi thân (vô tướng) thì có thể chuyển các pháp mà không bị pháp chuyển nên gọi là đại thân. Thân lớn nói theo thế pháp là đại thân, trong thắng nghĩa không có phân biệt. Như thế mới gọi là thân đại sĩ.

 

---o0o---

 

Thọ trì Kinh này phước đức vô lượng.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Cho đến có bao nhiêu số cát trong sông Hằng, giả sử có số sông Hằng ngang với số cát như thế, thì số cát của các sông Hằng này chắc là nhiều lắm phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Nhiều lắm! Các con sông Hằng còn nhiều vô số, huống nữa là số cát ấy.

Phật nói:

- Thiện Hiện! Ta nay bảo ngươi, khai ngộ cho ngươi. Giả sử có thiện nam, hoặc thiện nữ đem bảy báu đẹp đựng đầy khắp thế giới nhiều như số cát sông Hằng…, dâng cúng cho đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thiện nam, hoặc thiện nữ này do nhân duyên đây được số phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Nhiều lắm. Thiện nam hoặc thiện nữ này nhờ nhân duyên đây được số phước ấy rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu đem bảy báu đựng đầy khắp thế giới nhiều như số cát sông Hằng, dâng cúng cho đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, rồi thiện nam hoặc thiện nữ nào đối với pháp môn đây, cho đến bốn câu kệ mà thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì do nhân duyên đây, được số phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số”.

 

Số cát của sông Hằng đã nhiều, giả dụ trên thế gian lại có rất nhiều sông Hằng ngang bằng với số lượng của cát sông Hằng hiện có thì phải biết số sông Hằng này không thể tính hết. Bây giờ, Phật lại hỏi số cát của các sông Hằng gộp lại đó có nhiều không? Thiện Hiện trả lời: Nhiều, nhiều lắm! Nếu chỉ tính những sông Hằng mà thôi, hãy còn nhiều vô số, huống chi tính tất cả số cát trong vô số sông Hằng.

Đây không có ý so sánh to nhỏ, nhiều ít… mà mục đích Phật hỏi cụ Thọ: Có chúng sanh nào đem bảy báu đầy Tam thiên đại thiên thế giới nhiều như số cát trong vô số Hằng mà bố thí thì phước đức có nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nhiều lắm!

 Phật bảo Thiện Hiện: Nếu đem pháp môn này cho đến bốn câu kệ thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, do nhân duyên đây, được số phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô biên.

Bố thí chẳng ly tướng thì phước đức được hưởng là cõi nhân thiên giàu có sung sướng. Nhưng nhân thiên cũng còn trong luân hồi sanh tử, nếu sanh một niệm bất giác thì cũng bị đọa như thường, nên phước đức này là phước đức hữu lậu, có đó mất đó. Nhưng nếu thọ trì Bát nhã Ba la mật để khai mở trí tuệ cho chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử thì được phước đức vô lậu không thể nào tính đếm.

Kinh Kim Cương không những độ người liễu sanh thoát tử mà còn giúp chúng sanh kiến tánh thành Phật, rồi chúng sanh đó lại giáo hóa các chúng sanh khác cũng thành Phật như mình, cứ thế nhân lên theo cấp số nhân thì phước đức không thể cân lường so sánh nổi.

Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ nói về ý này như sau:

 

Đựng bảy báu đầy đại thiên

Bố thí trồng ruộng phước

Chỉ được phước hữu lậu

Hưởng phước cõi nhân thiên.

Trì tụng bốn câu kệ

Tạo duyên lành với Phật

Muốn vào biển vô vi

Phải nương thuyền Bát Nhã.

 

 Vì vậy, Kinh Bát Nhã được tán tụng là mẹ của chư Phật và chư Bồ Tát. Nên chỗ nào có thờ tụng Kinh này thì tất cả Thánh hiền, Thiên nhân, Quỷ thần đều đến chỗ đó đi nhiễu, cúng dường, lễ bái… kính trọng như chỗ đền, chùa, tháp… nơi có thờ Phật.

 

---o0o---

 

Thiện Hiện hỏi Phật: Pháp môn này tên gì?

 

- “Bạch Thế Tôn! Pháp môn này nên gọi tên gì? Con phải phụng trì như thế nào?

Phật bảo Thiện Hiện rằng:

- Cụ thọ! Pháp môn đây gọi là “Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật”. Danh tự như thế, ngươi nên phụng trì. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật như vậy, Như Lai nói là chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật, cho nên Như Lai gọi là Bát Nhã Ba La Mật”.

 

Kim cương là một khoáng chất cứng rắn và sắc bén có thể cắt chặt các loại vật mà không bị các loại vật khác phá hoại. Kinh này ví như kim cương, vì có thể phá trừ những phiền não, lậu hoặc… trói buộc làm cho con người sống trong đau buồn, khổ não. Năng đoạn có nghĩa Kinh này có thể giúp con người dứt trừ, đoạn tận các phiền não lậu hoặc nói trên. Nhưng lấy gì để đoạn trừ, phải lấy trí tuệ. Bát Nhã là trí, trí này siêu việt không những giúp con người vượt mọi chướng ngại thế gian mà còn mang lại sự an bình cho toàn thể chúng sanh trong tất cả cõi. Ba la mật có nghĩa là phương tiện rốt ráo viên mãn nhất có thể đưa người từ bờ mê đến bến giác.

Vì Kinh Kim Cương có công năng như vậy, nên Phật bảo chúng hội “các ông phải phụng trì”. Phụng là tuân theo, trì là hành trì. Hành trì không những có nghĩa là tự mình chấp hành mà còn khuyên người khác chấp hành.

Từ đầu quyển Kinh cho tới đoạn này không lúc nào mà Kinh chẳng đề cập đến vấn đề này: Ưng hàng phục kỳ tâm, vân hà hàng phục tức phát đại nguyện, hành đại hành; chẳng trụ cảnh giới lục trần, hành rộng Lục độ, độ tất cả chúng sanh thành Phật mà chẳng thủ tướng độ sanh, cho đến pháp và phi pháp đều chẳng thủ. Lột từ tầng như lột bẹ chuối, càng lột càng tinh tế, qui kết đến chẳng trụ lục trần, sanh thanh tịnh tâm. Bao nhiêu lời nói rốt ráo đều dẫn đến TÍN, GIẢI, HÀNH, CHỨNG tức là nhất nhất phải phụng trì. Được như vậy thì mới có cơ hội chứng ngộ(1).

Mặc dù vậy, Kim cương hay gì gì đi nữa cũng chỉ là danh tự. Bát Nhã là pháp, pháp nào pháp nào cũng là giả danh, nếu không tiêu hóa nổi thì cũng chỉ là tập giấy lộn để trên bàn thờ, không ai đọc tụng, một ngày nào đó mình chết đi, con cháu đem tái tạo hết (recycle). Như vậy, Như Lai nói chẳng phải là Bát nhã Ba la mật. Bát Nhã chỉ trở thành Bát Nhã sống khi nó được úng dụng và thực hành, nên Kinh nói: “Dĩ thị danh tự, như đương phụng trì”. Tám chữ này có nghĩa: Thấy cái tên nên nghĩ tới cái nghĩa, hiểu cái nghĩa thì phải “y giáo phụng hành”. Đừng chấp danh tự, danh tự chỉ là giả danh. Vì vậy, mới “không hoại giả danh mà bày thật tướng”.

Cái quan trọng là làm sao hiểu để thọ trì, muốn thế thì phải thật sự sống với Bát Nhã. Lục Tổ nói: “Hoặc người Đại thừa, hoặc người Tối thượng thừa nghe nói Kinh Kim Cương, vì tâm tỏ ngộ nên biết bản tánh tự có trí Bát Nhã, vì dùng trí tuệ Bát Nhã thường quán chiếu, nên chẳng nhờ nơi văn tự”, tức người Đại thừa hay Tối thượng thừa nghe nói kinh Kim Cương tâm liền sáng tỏ, biết được, nhận được rõ ràng trí Bát Nhã này có sẵn, chính là tự tánh của mình, cho nên từ đó mình ứng dụng ra, thường quán chiếu luôn thì đâu có nhờ đến bên ngoài. Đó là vượt qua văn tự, sống ngay với tự tánh Bát Nhã.

Thích nghĩa cho đoạn kinh này:

(1). Ý của cư sĩ Giang Vị Nông.

 

---o0o---

 

Phật phá cái chấp “có vi trần và thế giới”.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Cho đến vi trần đại địa trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vi trần đại địa này rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Vi trần đại địa, Như Lai nói chẳng phải vi trần, cho nên Như Lai gọi là vi trần đại địa. Các thế giới, Như Lai nói chẳng phải thế giới, cho nên Như Lai gọi là thế giới”.(1)

Thích nghĩa:

(1). Đoạn kinh này do Ngài La Thập dịch từ Phạn sang Hán, như sau:

 - “Tu Bồ đề, ư ý vân hà? Tam thiên Đại thiên thế giới, sở hữu vi trần, thị đa phủ?

Tu Bồ đề ngôn:

- Thậm đa, Thế Tôn!

- Tu Bồ đề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần thị danh vi trần. Như Lai thuyết thế giới phi thế giới thị danh thế giới”.

HT Thích Trí Tịnh Việt dịch:

- “Này Tu Bồ đề! Ý ông nghĩ sao? Tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu vi trần, ấy là nhiều chăng?

Tu Bồ đề thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều!

- Này Tu Bồ đề, các vi trần Như Lai nói không phải vi trần, ấy gọi là vi trần. Như Lai nói thế giới không phải thế giới ấy gọi là thế giới”.

 

Sơ giải:

 

Đoạn Kinh này Phật phá cái chấp “thật có vi trần và thật có thế giới” tức phá cái chấp lớn nhỏ. Làm sao có thể đoạn diệt được pháp. Pháp hữu vi biểu hiện bằng hình thể hoc vuông tròn hoặc lớn nhỏ, tốt xấu… ai cũng thấy, ai cũng biết, ai cũng có thể phân biệt. Người phân biệt tinh tế, giỏi nhất thế gian này phải nói là Phật. Phật là người phân biệt chỉ cho mọi chúng sanh biết thế nào ngũ uẩn, thế nào là căn trần, xứ, giới. Qua căn trần xứ giới ấy mà người thế gian cảm thọ phân biệt có lớn nhỏ, tốt xấu... Ở đây Phật không có phá pháp mà Phật phá chấp. Có phân biệt là có chấp, có chấp là có phiền não.

Chư Phật chư Bồ Tát cũng sống trong phân biệt như mọi chúng sanh khác, nhưng khác với chúng sanh là “tâm không sai biệt”, như Thiền sư D.T. Suzuki trong cuốn “Cốt Tủy của Đạo Phật” gọi là “sai biệt mà không sai biệt” và “phân biệt mà không phân biệt” hoặc ngược lại “không sai biệt mà sai biệt” và “không phân biệt mà phân biệt”. Đó là thế giới của chư Phật chư Bồ Tát.

Thế giới đó là thế giới vô phân biệt hay vô sai biệt, vì thế giới này tuyệt đối không những không chấp nhận đối đãi giữa các tương quan mà siêu vượt trên tất cả các mối tương quan của ý thức phân biệt. Đó là thế giới của đệ nhất nghĩa đế.

Khi nói thế giới thật lớn có nghĩa là so sánh với cái thật nhỏ như vi trần, nên thấy thế giới lớn. Vì cái thấy của con mắt phàm là đòi hỏi phải có đối tượng mà đối tượng đó chính là hình tướng. Còn thấy mà không thấy tướng hay thấy vô tướng tức thấy tánh, lại là cái thấy đặc biệt của Phật đạo. Vì vậy, Tam Tổ Tăng Xán trong “Tín Tâm Minh”, mới nói:

 

Cực tiểu đồng đại

Ngôn tuyệt cảnh giới.

Cực đại đồng tiểu

Bất biến biên biểu.

 

Dịch:

 

Cực nhỏ đồng cực lớn

đồng nhau bặt cảnh duyên.

Cực lớn đồng cực nhỏ

đồng nhau chẳng giới biên.

 

Quên được cái niệm lớn nhỏ, rộng hẹp, thấp cao… thì vượt qua kiến chấp, tình chấp mới thấy tâm mình vô ngại, rộng lớn không ngằn mé. Cho nên không còn cảnh giới để mình phân biệt nữa, không còn bờ mé để mình duyên theo, ngay đó tâm mới được thênh thang rỗng suốt. Như vậy, mới hiểu được câu Phật nói: “Chẻ một hột cải có thể nhét một quyển Kinh, trên đầu mảy lông chứa hết Tam thiên đại thiên thế giới”.

 

1. Tề trụ trì hỏi:

- Thế nào là Đại thừa?

Thần Hội đáp:

- Tiểu thừa.

Lại hỏi:

- Nay hỏi Đại thừa vì sao lại nói đó là Tiểu thừa?

Sư đáp:

- Nhân vì có tiểu nên mới lập ra đại. Nếu không có tiểu thì đại lấy đâu mà sanh ra. Đại mà ông hỏi đây là đại của tiểu. Cái gọi Đại thừa trống không chẳng có một vật, do đó làm sao nói đại tiểu được. Tỉ như hư không, hư không chẳng hạn lượng mà không thể nói là chẳng hạn lượng. Hư không chẳng có ngn mé mà chẳng thể nói là không ngn mé. Đại thừa cũng lại như thế. Do đó mà Kinh Phật nói: Hư không chẳng có trung gian, chẳng có ngn mé, pháp thân chư Phật cũng thế”. Do đó mà ông hỏi Đại thừa ta mới đáp là Tiểu thừa. Đạo lý rõ ràng mà còn kinh ngạc ni gì! (Thần Hội ngữ lục)

 

2. Trong Kinh “Lăng Nghiêm” nói: Cái “thấy” không có vuông tròn, lớn nhỏ mà lớn nhỏ vuông tròn là ở cảnh vật. Nên Phật bảo:

-  A Nan, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ vì mê mình (tâm) làm vật, bỏ mất cái chân tâm của mình, bị cảnh vật xoay chuyển, nên thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, tốt xấu v.v… Nếu ai chuyển xoay được cảnh vật, thân tâm được sáng suốt viên mãn, thì đồng với chư Phật. Lúc bấy giờ, không rời đạo tràng mà trên đầu một mảy lông, có thể chứa đựng khắp mười phương thế giới”.

Lược giải đoạn Kinh này trong “Phật Học Phổ Thông”, HT. Thích Thiện Hoa bảo:

“Từ nơi thể tánh chơn tâm, vì vô minh vọng động, sanh ra có hư không và thế giới, chúng sanh cùng cảnh vật, nên gọi “mê mình làm vật”. Khi có cảnh vật rồi, cứ theo đó mà phân biệt xấu tốt, lớn nhỏ, mừng giận… nên nói “bị vật chuyển xoay”. Đến hết vô minh vọng động, trở lại với thể tánh chơn tâm, thì các cảnh vật ấy không còn; như người thức giấc chiêm bao, thì cảnh chiêm bao hết, nên nói “xoay chuyển vật” là thế.

Lúc bấy giờ, một sợi lông hay mười phương thế giới cũng đều là chơn tâm cả. Đã đồng là chân tâm, thì không còn thấy thế giới lớn hơn sợi lông, hay sợi lông nhỏ hơn thế giới, vì đồng thể tánh, nên nói “trên đầu sợi lông, có thể chứa đựng mười phương thế giới”.

Đoạn này lý thâm, phải suy nghĩ nhiều mới hiểu.

 

---o0o---

 

Phật phá cái chấp “Thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy Phật”.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có thể quán Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bằng ba mươi hai tướng Đại sĩ phu không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Chẳng thể quán Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bằng ba mươi hai tướng Đại sĩ phu. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì ba mươi hai tướng Đại sĩ, Như Lai nói là chẳng phải tướng, cho nên Như Lai gọi là ba mươi hai tướng Đại sĩ”.

 

Đoạn trên Phật phá cái chấp to nhỏ của thế giới và vi trần tức phá cái chấp về y báo (cái hình tướng tạo thành thế giới chung quanh ta), đoạn này Phật phá chánh báo (chấp thân) nghĩa là chấp thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật. Đây là lần thứ hai Phật lặp lại câu hỏi này. Trước Phật hỏi: Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?

Câu trả lời cũng như đoạn trước: Nếu còn thấy tướng đầy đủ là còn chấp nhân, chấp ngã nghĩa là còn thấy người thấy ta là còn thấy tướng, liền bị tướng che nên không thể thấy tánh. Mà thấy tánh thì thành Phật nên nói là thấy Như Lai. Cái thân 32 tướng tốt cũng chỉ là phần vật chất do đất nước gió lửa tạo thành, có thành có hoại; còn pháp thân là cái không có hình tướng nên muôn kiếp vững bền. Nên khi nói đến xác thân thì phải xuyên qua cái xác thân bằng xương bằng thịt mà thấy pháp thân.

Có tướng thì mới có thể, có thể thì mới có dụng. Đó là tương duyên. Khi Phật bác bỏ 32 tướng cho là không thật thì không có gì là thật cả. Phật sợ nói như vậy lại có người chấp là đoạn diệt nên liền nói: 32 tướng tức chẳng phải tướng Đại sĩ, đó gọi là tướng Đại sĩ. Vì tướng là cái dụng chứa thể, thể là căn bản của dụng. Nếu đoạn diệt tướng thì làm gì có thể có dụng. Ý Phật nói phải xuyên qua sắc tướng đó mà tu học quán chiếu thì sẽ thấy pháp thân vô tướng, nên có thể chứng tánh. Chứng tánh là thành Phật nên nói là thấy Như Lai.

Ngài Giang Vị Nông bình giảng đoạn này như sau:

“(…)Nếu trước ở tướng thì chỗ thấy là tướng của ứng thân, chẳng phải là thể của pháp thân, sao có thể gọi là thấy Như Lai? Hiểu rõ Như Lai làm sao mà thấy, thì biết 32 tướng cũng do duyên hội mà sanh, đương thể tức không. Đương thể tức không nghĩa là có mà chẳng phải có. Duyên hội mà sanh tức không mà chẳng phải không. Có mà chẳng phải có, cho nên gọi là phi tướng, không mà chẳng phải không cho nên gọi “thị danh tam thập nhị tướng”. Nên Kinh nói “Như Lai thuyết tam thập nhị tướng tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng”

“Nói, một chữ PHI là khiến chẳng trước ở . Nói, một chữ THỊ là chẳng khiến trước ở không, mà nói PHI nói THỊ cả hai là khiến hai bên đều chẳng thể trước. Vì cớ sao đều chẳng thể trước? Vì trong thân này, ngoài thế giới, y báo chánh báo đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh. Đương lúc duyên hội mà sanh, hiển nhiên hiện ra thân tướng y báo chánh báo (mọi người đều thấy) há có thể chấp không? Đương lúc duyên tán mà diệt mất, thì thân này ở chỗ nào, thế giới này ở chỗ nào, há có thể chấp ? Chẳng những thế, y chánh hai báo đương lúc nó duyên sanh đã là do nhân duyên hòa hợp nên gọi đó là sanh, thì có thể thấy trừ nhân duyên ra không có thật pháp nào khác, nên lúc hiện thị danh tức là lúc phi hữu, cho nên nói hữu tức phi hữu. Lại cũng đương lúc phi hữu tức là lúc hiện thị danh, cho nên nói phi hữu mà hữu. Hợp lại mà xem, há chẳng phải có không đồng thời đầy đủ ư? Đã đồng thời đầy đủ, nên trước Không trước Có đều chẳng phải, cho nên nay thị phi cùng nói, tức là khiến kẻ nghe pháp khế hội cái ý có không đều đầy đủ, chẳng thể trước”.

Theo kiến giải này cái không nằm trong cái và ngược lại cái lại nằm trong cái không, tức có không đều đồng thời đầy đủ trong nhất chân pháp giới. Vậy, có không, đoạn thường, bỉ thử… đều dẹp, như vậy mới diệt trừ được vọng niệm mà sanh tịnh tâm. Tịnh tâm là tâm Phật, tức thành Phật nên nói là thấy Như Lai. Thuyết như vậy, già chiếu đồng thời, quá hay quá đủ!

 

---o0o---

 

Cụ thọ Thiện Hiện bùi ngùi rơi lệ.

 

“Phật lại bảo Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Giả sử có thiện nam, hoặc thiện nữ, cứ mỗi ngày là xả thí thân thể mình nhiều như số cát sông Hằng. Xả thí thân mình như vậy trải qua kiếp số nhiều như số cát sông Hằng. Lại có thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn đây, cho đến bốn câu kệ, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý. Do nhân duyên đây nên được phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nghe oai lực của pháp, bùi ngùi rơi lệ, cúi người lau nước mắt rồi thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có! Bạch Thiện Thệ! Rất là hiếm có! Nay Như Lai đã nói ra pháp môn này, làm nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thượng thừa, làm nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thắng thừa.

Bạch Thế Tôn! Từ khi sanh trí tuệ đến nay, con chưa từng được nghe pháp môn nào như thế”.

 

Khi thuyết tới đây, Phật bảo Thiện Hiện có người xả thí thân mạng của mình nhiều kiếp như số cát sông Hằng cũng không bằng người trì tụng, vì người tuyên thuyết chỉ bày Kinh này thì phước đức hơn người thí mạng trong vô lượng vô số kiếp. Nghe tới đó Thiện Hiện rơi lệ, cúi người lau nước mắt rồi thưa Phật: Rất là hiếm có! Nay Như Lai đã nói ra pháp môn này, đem nhiều nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thượng thừa, Tối thắng thừa.

Chỗ Thiện Hiện bùi ngùi rơi lệ không phải vì phước đức vô lượng do trì tụng hay thuyết giảng chỉ bày cho người, nhưng Thiện Hiện rơi lệ là vì mình được phúc duyên nghe được Kinh điển thậm thâm này, mà xưa kia Bồ Tát Thường Đề phải chẻ xương bán tủy ngày đêm cầu khẩn mới được nghe và cũng vì kinh này luôn luôn được tán tụng là mẹ sanh mẹ dưỡng của chư Phật chư Bồ Tát; tất cả các thiện pháp, các Thánh pháp hy hữu, các pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ Tát… đều lưu xuất từ kinh này; nó cũng là pháp ấn, tâm ấn, trí ấn, trí tạng của các đức Như lai ở mười phương ba đời; giáo lý của nó không thể cân lường, không thể nghĩ bàn, các công đức của nó cũng như vậy.

Đó là chỗ qui kết, thú hướng thù thắng của Kinh này như vậy. Nên Thiện Hiện mặc dù có trí tuệ, có pháp nhãn nhưng không thể suy lường nổi, nên rơi lệ buộc miệng khen: Thật hy hữu!

 

---o0o---

 

Người nghe hiểu Kinh này

mà sanh tưởng chân thật phải biết là hiếm có.

 

“Bạch Thế Tôn! Nếu hữu tình nào nghe thuyết Kinh điển thâm sâu như thế mà sanh tưởng chân thật, thì phải biết hữu tình này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các tưởng chơn thật, kẻ tưởng chơn thật, Như Lai nói là chẳng phải tưởng, cho nên Như Lai gọi là tưởng chơn thật”.

 

1. Kinh này thậm sâu huyền diệu như vậy nên cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật rằng kẻ nào nghe thuyết Kinh điển này mà sanh tưởng chân thật, sẽ thành tựu sự thù thắng hiếm có. Thành tựu đó không ngoài trí tuệ và công đức của tu phước huệ. Hữu tình nghĩ tưởng không ngoài sắc và dục. Tâm tưởng luôn luôn bị khuấy động vì sắc dục chẳng khác nào nước gặp gió tạo thành sóng mòi, nên quên đi giác tâm, cái bản nhiên thanh tịnh của mình. Bây giờ, nhờ Bát Nhã phá chấp, đoạn trừ tất cả phiền não tập khí nối nhau thì quay trở lại thấy cái thật tướng của chính mình hay nói khác là thấy lại khuôn mặt tròn đầy khi xưa (bản lai diện mục).

Ngài Phó đại sĩ có bài kệ(1):

 

“Chưa có, cảnh không tâm; từng không tâm không cảnh.

Cảnh quên tâm tự diệt; tâm diệt cảnh cũng không.

Trong Kinh gọi thật tướng; lời diệu lý lại sâu.

Chứng biết chỉ có Phật; tiểu Thánh dễ nhận đâu”.

 

Nếu tâm không phân biệt thì cảnh có cũng như không, cảnh bặt thì tâm không có chỗ bám. Ngay đó sinh thật tướng. Bởi vì, không có cảnh nào mà không có tâm; cũng chưa có tâm nào mà không có cảnh. Nhưng tâm dong ruỗi theo cảnh là tâm hư dối, tâm chấp cảnh quên mình, tâm lang thang vọng tưởng. Khi cảnh quên rồi thì tâm tự dứt, không có cảnh để duyên theo, ngay đó tâm được lặng. Chỗ tâm cảnh đều vắng lặng nên nói là thật tướng. Nhưng thật tướng đó không phải dễ thấy. Cho nên lời nói đó là vi diệu, vượt ngôn ngữ nói năng. Bởi vậy, chứng biết chỉ Phật, còn tiểu Thánh dễ gì nhận ra được.

Vì vậy, Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo thị giả của mình: “A Nan, vì có trần cảnh, nên ở nơi căn mới khởi ra phân biệt. Vì có năng phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt. Căn (kiến) và cảnh (tướng) đối đãi nhau vọng hiện, chớ không có thật (vô tánh), cũng như hình cây lau gác nhau (ở xa thấy có tướng người hay vật)”.

 

Qua bài kệ trên cũng như lời giải thích của Phật nói về mối tương quan sanh diệt giữa tâm và cảnh: Cảnh vật và tâm hư vọng này sở dĩ hiện hữu là nhờ nương tựa nhau. Chúng không có tự tánh, cũng không tha tánh, nên gọi là duyên sanh. Duyên sanh thì không thể đứng một mình, nó có là nhờ cái khác mà có. Thật tướng là cái bất sanh diệt. Như con mắt tức căn, cái thấy. Cái thấy này đòi hỏi phải có đối tượng, mà đối tượng là cảnh, cảnh là hư dối sanh diệt. Nên nói cái thấy đó là hư vọng. Cũng cùng cái thấy mà biết quay lại, thâu nhiếp lấy tâm. Thấy lại chính bản tâm mình, cái thấy đó là chơn tâm. Chơn tâm tức thật tướng, tức là làm chủ trọn vẹn chính tâm thể của mình. Trong “Tín Tâm Minh” Tổ Tăng Xán nói:

 

Quy căn đắc chỉ

tùy chiếu thất tông

Tu du phản chiếu

thắng khước tiền không

 

Dịch:

 

Trở về nguồn nắm mối

Dõi theo ngọn mất tông

Phút giây soi ngược lại

Trước mắt vượt cảnh không.

 

Vì vậy, Thiền sư D.T. Suzuki trong quyển viết về “Thiền” nói: “Khi thời tiết đến thì nhận ra quá khứ và tương lai tự kết tinh, như đang là, trong hiện thời Tuyệt đối, trong hiện tại Vĩnh hằng, an trú trong “ở đây và ngay bây giờ” và làm chủ chính mình, hay nói khác là sống với ông chủ(2). Ông không còn là một chúng sanh nữa, vừa là chúng sanh vừa không phải là chúng sanh. Có nghĩa là ông trở về với chính mình và ở trong chính mình, ông an trú trong “ở đây và ngay bây giờ”, ông không còn lệ thuộc bất cứ ai hay nô lệ bất cứ điều gì, mà ông là ông chủ của đại thiên vũ trụ, của kho báu vô vàn quyền năng”.

 

2. Nhưng khi nói đến thật tướng Phật sợ sẽ có người chụp lấy mà bám trụ, nên Phật bảo “thật tướng đó chẳng phải là thật tướng chỉ tạm gọi là thật tướng”. Thật tướng cũng chỉ là danh tự ngôn ngữ, nghĩ tưởng chấp trước vào danh tự giả tướng và cho là thật thì cũng không tránh khỏi những sai lầm trói buộc của nó. Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo: “(…)Mở gút đầu tiên là phá trừ ngã chấp (ngã, chúng sanh, mạng giả, thọ giả, v.v…) trước chứng được nhơn không. Tiến đến tầng thứ hai là phá trừ pháp chấp, sau chứng được pháp không. Ngã pháp đều không sanh, thế mới gọi là Bồ Tát đặng Vô sanh pháp nhẫn”. Tới đó không còn chấp tướng hay phi tướng, tướng cũng bỏ phi tướng cũng bỏ, nên nói lìa các tướng tức chư Phật.

Muốn thấy tánh thì phải lìa tướng. Nếu không có công phu thì làm sao mà lìa. Công phu là tu tập. Phải nói một chữ PHI tức là tuyệt bách phi, lại cũng là tứ cú đều ly, chỗ gọi là hữu cũng ly, vô cũng ly, diệc hữu diệc vô(3) cũng ly, phi hữu phi vô cũng ly là vậy. Cổ đức nói vô tướng vô bất tướng. Và từ VÔ là tuyệt đối, VÔ không có nghĩa vô đối với hữu (không đối với có), VÔ này là Tánh Không Bát Nhã. Vì tướng và bất tướng vẫn là hai thứ đối đãi. Có đối đãi là có động, có sanh diệt, nên gọi là vô thường. Mà tánh thể vạn cổ vẫn thường hằng, bất biến, vô sanh vô diệt, không đối đãi, là tuyệt đối không, rốt ráo không (tất cánh không) và cái không cuối cùng cũng không nốt. Nói tóm lại, tướng là hữu, bất tướng là vô, vượt ngoài tướng bất tướng, tức vượt ngoài hữu và vô, nên nói “vô tướng vô bất tướng” là lý tuyệt đối vô. Đấy gọi là hữu vô tứ cú đều ly, nên Kinh nói “thị thực tướng giả tắc thị phi tướng”, từ PHI chỉ cho công phu vậy.

 “Công phu đó chẳng qua dùng hai chữ CHẲNG PHẢI để làm yếu chỉ: Nói hữu nói vô đều mắng là chẳng phải, nói diệc hữu diệc vô cũng mắng là chẳng phải… Vậy chẳng còn gì là thiên lệch, không còn chỗ để chấp trước. Đây là pháp môn vi diệu để phản tỉnh”(4).

Đại Trí Độ luận có kệ rằng:

 

“Hết thảy thật, hết thảy chẳng phải thật

Hết thảy thật cũng chẳng phải thật

Hết thảy chẳng phải thật, chẳng phải chẳng phải thật

Ầy gọi là thật tướng của chư Phật”.

 

Nói như vậy vẫn còn chỗ để nói! Vậy xin hỏi thế nào là ly danh tự tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng? Lìa tứ cú, tuyệt bách phi là gì(5)? Tổ Tăng Xán trong “Tín Tâm Minh” bảo rằng:

 

Đa ngôn đa lự

Chuyển bất tương ưng

Tuyệt ngôn tuyệt lự

Vô xứ bất thông

 

Dịch:

 

Nói nhiều thêm lo quẩn

Loanh quanh mãi chẳng xong

Dứt ngôn thì hết quẩn

Đâu đâu chẳng suốt thông.

 

Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:

(1). Trích trong Kinh Kim cang Giảng lục của TT. Thích Thông Phương.

(2). Ông chủ hay bản lai diện mục hay còn gọi là Phật tánh.

(3). Diệc hữu diệc vô trong tứ cú, phá trừ phiền não thiên chấp Có, Không để vào Đệ nhất nghĩa đế, tức là pháp môn song chiếu Có và Không để hiển bày lý Trung đạo.

(4). Viết theo ý của cư sĩ Giang Vị Nông, không trích dẫn nguyên văn dài dòng.

(5). Lìa tứ cú, tuyệt bách phi: Tứ cú là: Có, không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không. Tất cả tứ tướng đều chẳng ngoài tứ cú này, nếu trụ thì chướng ngại sự dụng của bản thể tự tánh mà sanh ra bách phi (đủ thứ sai lầm), nếu lìa thì hiển bày đại dụng của tự tánh liền dứt niệm sai lầm.

 

---o0o---

 

Người có hạt giống Bát Nhã mới có thể thọ trì, truyền bá Kinh này.

 

Tiếp theo cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Nay con nghe pháp môn như thế, lãnh ngộ tin hiểu, nhưng chưa là hiếm có. Đời đương lai hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, nếu hữu tình nào đối với pháp môn thâm sâu như thế mà lãnh ngộ tin hiểu, thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì phải biết hữu tình này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các hữu tình ấy không có tưởng ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả… Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các tưởng ngã tức là chẳng phải tưởng, các tưởng hữu tình, tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ đặc già la, tưởng ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả tức là chẳng phải tưởng. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn lìa tất cả tưởng”.

 

Sau khi nghe Phật nhiều phen thuyết giải, Thiện Hiện lãnh hội được Kinh này. Nhưng nghĩ rằng đời sau hậu bối không thường gần Phật, không thường nghe pháp thì làm sao có đủ tín giải mà thọ trì. Nhưng nếu có chúng sanh nào đối với pháp môn thâm sâu như thế mà liễu ngộ tin hiểu, thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, thì phải biết chúng sanh này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao? Vì chúng sanh đó thấy ngã không, pháp không, phi pháp cũng không, gọi là tam không, vượt hẳn phàm phu tục tử, chắc người đó có căn tánh Đại thừa, nhiều đời thờ phụng cúng dường vô số chư Phật nên mới có thể tín giải thọ trì Kinh này.

Phật đồng ý: “Đúng vậy, đúng vậy. Thiện Hiện! Nếu các hữu tình nghe Kinh điển thâm sâu như thế, mà không kinh, không sợ, không hoảng hốt, thì phải biết hữu tình ấy thành tựu sự tối thắng hiếm có”.

Trước đây Phật bảo: Nếu thấy tướng chẳng phải tướng liền thấy Như Lai. Ở đây Phật nói: Lìa chư tướng tức gọi là chư Phật. Trước đó Thiện Hiện nghe xong liền hỏi Phật: Chúng sanh khi nghe Kinh này biết có tin được không? Tức còn có điểm còn do dự, nghi ngờ liền bị Phật quở. Nhưng tới đây Ngài quả quyết rằng: “Nếu có người nghe Kinh này mà không nghi ngờ kinh sợ, thì người này rất hy hữu”.

Kinh một mực từ đầu tới cuối đều phá cái chấp tướng: Thấy 32 tướng tốt không phải là thấy Như Lai; thấy tướng là phi tướng mới thấy Như Lai; lìa tất cả tướng mới gọi là chư Phật. Đó là những điều đi ngược với pháp thức thường tục, nếu nghe như thế mà không kinh không sợ mới thật là hy hữu.

Để đối trị với những cái nhìn thông tục dễ dãi trong thế giới đang sống như là một thực tại thường trụ, Bát Nhã lật úp thế giới đó và cho nó chỉ là những giả tướng, mộng mị, huyễn hoặc…làm sao một con ngươi phàm tục không hoang mang nghi ngờ cho được? Nhưng chủ đích của Bát nhã Ba la mật là phá trừ những sai lầm căn để, chống lại sức mạnh cám dỗ của ngũ dục lục trần, để dẫn dắt con người đi đến chỗ Thánh thiện hơn. Muốn được như vậy, không có gì khác là phải lìa tướng, lìa tưởng, tránh động niệm.

 

---o0o---

 

Phật phá cái chấp “Bát Nhã là đệ nhất Ba la mật”

 

“Thiện Hiện! Vì Như Lai nói Ba la mật tối thắng là Bát nhã Ba la mật. Thiện Hiện! Ba la mật tối thắng mà Như Lai đã nói, được vô lượng chư Phật Thế Tôn cùng tuyên thuyết, nên gọi là Ba la mật tối thắng. Như Lai nói Ba la mật tối thắng tức chẳng phải Ba la mật, cho nên Như Lai gọi là Ba la mật tối thắng”.

 

Đại Bát Nhã thường tán tụng: Bát Nhã là chỉ đạo của các Ba la mật. Nó như người có mắt, còn các Ba la mật khác như bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định như người mù bẩm sanh. Nếu không có người sáng mắt hướng dẫn thì tất cả các Ba la mật khác không thể đi được trên con đường chánh huống chi có thể đến được thành lớn lợi vui. Lại nữa, Bát Nhã được coi là đệ nhất Ba la mật, vì nó đứng trên tất cả ảnh tượng tạp nghiễm của các vật thể trần gian. Ánh sáng của nó soi rõ vạn hữu và một khi chạm vào nào vật nào thì vật ấy bỏ hình tướng giả tạo để trở về thật tướng của nó. Nó vượt trên mọi phân biệt đối đãi. Nó là trọng tâm chỉ đạo chung của mọi suy tư và cảm giác. Vì vậy, nên nói Bát Nhã là đệ nhất Ba la mật.

Nhưng khi nói Bát Nhã là đệ nhất Ba la mật thì Bát Nhã không còn là Bát Nhã nữa. Vì còn thấy “tướng số một” của nó. Có nhất phải có nhị, tức có một thì phải có hai. Như vậy, Bát Nhã không tránh khỏi phân biệt, so đo của cuộc đời thường, của lưỡng nguyên đối đãi. Cho nên, Phật mới nói “Chẳng phải đệ nhất Ba la mật mới thật là Ba la mật”. Ở đây, Phật không cho mình chấp!

 

Có vị Tăng hỏi Thiền sư Duy Giám:

- Phật và chúng sanh là một hay hai?

Sư đáp:

     Hoa nở đầy vườn hồng

     Hoa rụng muôn cành trống.

Tăng hỏi:

- Rốt ráo là một hay là hai?

Đáp:

     Chỉ còn thừa một đóa

     Ngày mai ngại gió rơi.

 

Nghĩa là đến chỗ tột cùng rồi, một cũng không còn. Bởi vì trong tâm còn dấu vết của cái một tức là có cái hai, có ít có nhiều đều không tránh khỏi ngõ cụt hai đầu. Bát Nhã là không, là phủi tất cả, không cho bám vào bất cứ chỗ nào dù nhất hay nhị thì mới được vô thức vô niệm vô tâm.

Tam tổ Tăng Xán, trong “Tín Tâm Minh” nói:

 

Nhị do nhất hữu

Nhứt diệc mạc thử

Nhất tâm bất danh

Vạn pháp vô cữu

 

Dịch:

 

Hai do một mà có

Một rồi cũng buông bỏ

Một tâm vốn chẳng sanh

Muôn pháp tội gì đó.

 

---o0o---

 

Phá cái chấp “nhẫn nhục Ba la mật”

 

“Lại nữa, Thiện Hiện! Như Lai nói nhẫn nhục Ba la mật tức chẳng phải Ba la mật, cho nên Như Lai gọi là nhẫn nhục Ba la mật. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì đời quá khứ xưa, Ta từng bị vua Yết lợi cắt tay chân, xẻo thịt. Khi ấy, Ta hoàn toàn không có tưởng ngã, hoặc tưởng hữu tình, hoặc tưởng mạng giả, hoặc tưởng sĩ phu, hoặc tưởng Bổ đặc già la, hoặc tưởng ý sanh, hoặc tưởng nho đồng, hoặc tưởng tác giả, hoặc tưởng thọ giả. Ta đều không có tưởng, cũng chẳng phải không có tưởng. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì lúc đó nếu Ta có tưởng ngã tức là có tưởng giận. Nếu Ta có tưởng hữu tình, tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ đặc già la, tưởng ý sanh, tưởng nho đồng, tưởng tác giả, tưởng thọ giả, tức là có tưởng giận. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì Ta nhớ trong quá khứ năm trăm năm, từng làm tiên nhơn, hiệu là Nhẫn Nhục. Bấy giờ, Ta hoàn toàn không có tưởng ngã, không có tưởng hữu tình, không có tưởng mạng giả, không có tưởng sĩ phu, không có tưởng Bổ đặc già la, không có tưởng ý sanh, không có tưởng nho đồng, không có tưởng tác giả, không có tưởng thọ giả. Ta đều không có tưởng, cũng chẳng phải không có tưởng”.

 

1. Ngài Huyền Trang và Ngài Nghĩa Tịnh dịch từ “sàn đề”của tiếng Phạn là an nhẫn. Nhẫn là khả nhẫn, kham nhẫn có nghĩa là nhất tâm chánh thụ. An là an trụ có nghĩa là tâm không động. Một khi tâm động thì không còn nhẫn. Tâm chẳng động chẳng lay tức an trụ.

Nhưng có một số tác giả lại dùng từ nhẫn nhục. Nhục là hủy nhục, nghĩa là bị ức hiếp nhục mạ mà có thể bỏ qua được. Đó là thái độ của bậc trượng phu. “Ăn miếng trả miếng” thì ai cũng như ai. Trái lại bị lăng nhục mà biết tha thứ thì thật hiếm có. Còn hiếm có hơn nữa là tự mình không cho đó là nhục, mà cho đó là một thái độ “cần thiết” để tránh những đụng chạm rạn nứt hay tan vỡ trong cuộc sống đảo điên này. Đây không phải chỉ nói tới cái cao thượng thuộc về luân lý hay đạo đức của cuộc đời thường mà nói lên cái cao cả của bậc siêu xuất: “Ai đánh ta má trái thì chìa má phải”. Đó là điều khó làm!

Bát Nhã còn đi xa hơn thế nữa. Bát Nhã coi an nhẫn là cái đương nhiên của giác tâm, nó nằm trong tự tánh. Vì tự tánh là không tịch vốn không sân hận, không chống đối, không oán hận.

Nhưng Bát Nhã lại ly tất cả tướng. Nếu coi an nhẫn là một trong sáu độ rốt ráo bậc nhất để đạt cảnh giới giác ngộ thì vô hình chung an nhẫn được đề cao. Như vậy, là còn chấp trước. Một khi có chấp trước thì không còn tương ưng với Bát Nhã nữa. Bát Nhã sẽ dỡ nón ra đi.

An nhẫn chỉ trở thành rốt ráo, viên mãn khi tâm ngã đều không, chính cái không đó cũng không được thủ trước. Nên Phật bảo “không thấy mình an nhẫn Ba la mật như thế mới gọi là an nhẫn Ba la mật”.

 

2. Phật có kể lại cho chúng hội biết “về quá khứ, Ta là vị tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục đến 500 đời. Bị vua Ca Lợi cắt xẻo thân thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận vì ta không còn chấp ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, sĩ phu, nho đồng v.v…”

Trong Kinh Đại Niết Bàn và Luận Tỳ Bà Sa có câu chuyện đại khái như sau: Khi Phật còn tu Bồ Tát đạo, có một vị vua ở thành Phú Đan Na, tên là Ca Lợi, một hôm cao hứng dẫn các cung phi mỹ nữ đi “cắm trại” ngoài thành. Sau khi ăn uống xong, vua mệt mỏi ngủ thiếp. Các cung nữ rủ nhau đi hái hoa, đi lần đến chỗ Bồ Tát đang ngồi. Vì muốn cho cho các cung nữ dứt lòng tham dục nên Bồ Tát thuyết pháp cho họ. Khi vua tỉnh giấc không thấy bọn cung nữ ở đâu nên đi tìm. Vua Ca Lợi thấy tiên nhân đang trò chuyện với các cung nữ của mình, liền bảo:

- Ngươi đem huyễn thuật cám dỗ cung nữ ta phải không?

Tiên nhân trả lời:

- Tôi tịnh giới đã lâu, không còn tâm ô nhiễm.

Vua hỏi:

- Ngươi đắc quả La hán chưa?

Trả lời:

- Chẳng đắc!

Hỏi:

- Ngươi đắc quả Bất hoàn chưa?

Trả lời.

- Chẳng đắc!

Vua nói:

- Nay ngươi còn thiếu niên, đã chưa đắc quả chắc còn ham dục nên mới dòm ngó cung nữ ta?

Trả lời:

- Tôi tuy chưa đoạn hết tham dục, nhưng tâm không tham.

Hỏi:

- Người tiên luyện khí ăn trái cây thấy sắc còn ham, huống chi tuổi còn cường thịnh như ngươi.

Trả lời:

- Thấy sắc mà ham không phải ăn trái cây hay luyện khí mà chính do hộ niệm vô thường, bất tịnh.

Vua trách:

- Người khinh thường người khác, chê dèm người khác, sao được coi là tịnh giới!

Trả lời:

- Có đố kỵ mới gọi là chê dèm, không đố kỵ không phải là chê dèm.

Vua hỏi:

- Sao gọi là giới?

Trả lời:

- Nhẫn là giới.

Vua liền rút gươm cắt tay chân, xẻo tai mũi vị tiên nhân, rồi hỏi:

- Nhẫn chăng?

Trả lời:

- Nếu đại vương cắt xẻ tấm thân này ra muôn mảnh, thì cũng như hạt bụi nhỏ, tôi rốt ráo có thể nhẫn, chẳng nổi một niệm sân.

Bấy giờ, bầy tôi can gián vua chưa nguôi giận. Lúc đó tứ Thiên vương, làm mưa kim cang sa, vua sợ hãi, quì gối xuống tạ tội. Tiên nhân liền nguyện: Nếu tôi không có niệm sân, thì khiến thân bình phục như cũ. Vừa nguyện xong, thì thân của vị tiên nhân được lành lặn như cũ. Rồi tiên nhân nói: Ngày nào Ta thành đạo quả sẽ độ đại vương trước hết. Và khi Phật thành đạo Ngài độ Kiều Trần Như, tức tiền thân của vua Ca Lợi.

 Vị Tiên nhân bị chặt chân tay, xẻo mũi mà không oán hận vì Ngài không thấy có ngã, không thấy mình bị nhục, bị hành hạ. Nếu còn thấy mình bị nhục, bị hành hạ tức chưa được nhẫn nhục rốt ráo.

Nhẫn nhục như Hàn Tín lòn trôn giữa chợ hay Câu Tiễn nếm phân của Phù Sa để chờ ngày phục hận thì không phải là nhẫn nhục Ba la mật.

 

---o0o---

 

Bồ Tát phát Bồ đề tâm phải xa lìa tất cả vọng chấp.

 

“Thiện Hiện! Đại Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên xa lìa tất cả tưởng, chẳng trụ nơi sắc mà sanh tâm, chẳng trụ phi sắc mà sanh tâm; chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm; chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm. Hoàn toàn vô trụ mà sanh tâm. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì chỗ trụ chẳng phải là chỗ trụ. Do đó, Như Lai nói các Bồ Tát nên vô trụ mà hành bố thí. Chẳng nên trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hành bố thí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì các hữu tình mà làm nghĩa lợi, nên phải xả bỏ bố thí như thế. Vì sao?

Thiện hiện! Vì các tưởng hữu tình tức là chẳng phải tưởng. Tất cả hữu tình, Như lai nói chẳng phải hữu tình”.

 

Kinh nói đi nói lại không ngoài không ngoài ly tướng. Có phân biệt tướng nên mới có chấp tướng. Một khi có chấp tức có động niệm thì làm sao an trụ tâm. Kinh nói “tín tâm thanh tịnh sẽ sanh thật tướng”. Thật tướng chỗ gọi vô tướng là tên khác của giác tâm. Khi ly được một phần tướng thì chứng một phần giác tâm, ly tất cả tướng tức trở về cái bản nhiên tịch lặng. Như vậy, có thể thấy từ phàm phu đến cứu cánh giác, công phu tu tập không ngoài ly tướng. Nếu tâm còn trụ chấp nơi lục trần tức còn phân biệt chấp trước, nên Phật nói “nếu tâm có trụ tức chẳng phải trụ”, phải trụ ở chỗ vô trụ mới thật an trụ chân tâm.

Ngài Xuyên Thiền sư mới có bài tụng:

 

Kiến sắc phi can sắc

Văn thinh bất thị thinh

Sắc thinh vô ngại xứ

Thấu đáo Pháp vương thành.

 

Dịch:

 

Thấy sắc không mê sắc

Nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng

Sắc tiếng đều không ngại

Mới đến Pháp vương thành.

 

Nếu Bồ Tát khi làm lợi ích cho chúng sanh mà tâm còn chấp tướng nghĩa là còn thấy mình bố thí, người thọ thí và vật bố thí, tức còn chấp ngã (mình, người) chấp pháp (vật bố thí) thì chỉ được phước hữu lậu, không phải là Bố thí Ba la mật. Bởi thế, Phật dạy Bồ Tát làm lợi ích chúng sanh không nên chấp tướng ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, nho đồng, tác giả, thọ giả… thì được phước vô lậu không thể tính đếm. Bố thí như vậy mới được gọi là bố thí Ba la mật.

Bố thí là hành vi xả kỷ lợi tha, nên không trụ chấp bất cứ thứ gì. Có trụ có chấp thì rơi vào cảnh giới tối tăm như người từ ngoài sáng đi vào nơi tối tăm thì còn thấy được gì? Nếu không trụ chấp, kinh nói “không trụ tất cả pháp là trụ trong Bát Nhã” mà trụ Bát Nhã là khai mở trí tuệ giống như người có mắt lại được ánh sáng mặt trời chiếu soi nên thấy rõ mọi vật.

Vì vậy, Phật bảo: “Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn đây mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì Như Lai dùng Phật trí biết rõ người này, Như Lai dùng Phật nhãn thấy rõ người này, Như lai độ người này. Tất cả hữu tình như thế sẽ được vô lượng phước đức.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử thiện nam, hoặc thiện nữ nào, vào phần đầu của ngày, đem thân thể mình nhiều như số cát sông Hằng mà bố thí; vào phần giữa của ngày, lại đem thân thể mình nhiều như số cát sông Hằng mà bố thí; vào phần cuối của ngày cũng đem thân thể mình nhiều như số cát sông Hằng mà bố thí. Bố thí như thế trải qua vô số trăm ngàn kiếp, nếu có hữu tình nào nghe pháp môn như thế mà không phỉ báng, thì do nhân duyên đây sẽ được số phước nhiều hơn trước vô lượng, vô số; huống chi đối với pháp môn đây mà thọ trì, đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì người này được Như Lai dùng Phật trí biết rõ, được Như Lai độ người này. Tất cả hữu tình như thế thành tựu vô lượng phước đức, đều sẽ thành tựu vô biên phước đức chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường”.

Vì vậy, Phật bảo: “Thiện Hiện! Pháp môn như thế chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường. Phải nên mong cầu, quả dị thục không thể nghĩ bàn”.

 

Trong Kinh Niết Bàn có kể câu chuyện, khi Phật còn trong thời kỳ tu Bồ Tát hạnh, là một tiên nhân tha thiết cầu Kinh Đại thừa. Trời Đế Thích muốn thử thách nên hiện làm quỷ La sát, đói khát muốn ăn thịt người, mới đứng trước động tiên nhân đọc hai câu kệ: Chư hành vô thường, thị danh diệt pháp tức tất cả pháp thuộc tạo tác đều vô thường, sinh diệt. Vị tiên nhân nghe hai câu kệ hết sức vui mừng, liền lần ra cửa động để xem ai nói, thì thấy một con quỷ rất ghê sợ. Nhưng vì muốn nghe pháp Phật, nên vị tiên nhân đánh bạo hỏi:

- Xin lỗi! Có phải ông là người vừa nói hai câu kệ không?

Quỷ La sát trả lời:

- Phải.

Vị tiên nhân hỏi tiếp:

- Vậy, xin ông đọc tiếp cho tôi nghe được không?

Quỷ La sát trả lời:

- Tôi đang đói không thể nói được, muốn tôi nói phải cho ăn no mới nói được.

Tiên nhân hỏi:

- Thức ăn của ông là gì?

Đáp:

- Tôi chỉ dùng thịt sống máu tươi.

Vị tiên nhân mới nghĩ: Nếu ta hy sinh thân mạng thì làm sao nghe được Kinh, nên đề nghị với quỷ La sát:

- Thôi bây giời tôi leo lên cây cao, ông ghi câu kệ trên tảng đá gần đó, tôi ở trên đọc được kệ xong, liền gieo mình xuống để ông ăn. Ông có chịu không?

Quỷ La sát nhận lời. Vị tiên nhân leo lên cây và quỷ La sát viết tiếp phần kệ còn thiếu: Sinh diệt diệc dĩ, tịch diệt vi lạc, nghĩa là sinh diệt hết rồi, thì tịch diệt là vui. Ngay đó vị tiên nhân từ trên cao gieo mình xuống, quỷ La sát hiện nguyên hình trời Đế Thích đỡ Ngài và tán thán:

- Công đức tu hành của Ngài chắc chắn sẽ trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác. Xin Ngài đừng quên tôi khi đạt đạo.

Đó là câu chuyện cầu đạo mà không tiếc thân mạng của Phật trong khi còn tu Bồ Tát đạo. Trong ĐBN này, phẩm “Thường Đề Bồ Tát”, quyển 398, Hội thứ I có một vị Bồ Tát có tên là Thường Đề hay còn gọi là “Bồ Tát Thường khóc” chẻ xương bán tủy để nghe Bát Nhã. Đó là những vị cầu pháp không tiếc thân mạng của mình. Tài thí chỉ giải quyết được những nhu cầu vật chất hiện tại như cơm ăn, áo mặc… nhiều lắm là được phước đức hữu lậu; còn pháp thí thì được công đức vô lậu không thể nghĩ bàn. Nên Phật nói: “Những người như thế có thể gánh vác đạo quả Vô thượng Bồ đề của Như Lai”.

 

---o0o---

 

Người thọ trì Kinh này công đức nhiều hơn

Phật Thích ca cúng dường vô số chư Phật.

 

“Thiện Hiện! Ta nhớ thuở quá khứ xa xưa, trong vô số kiếp, trước thời đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Ta từng gặp tám mươi bốn ức trăm ngàn chư Phật, Ta đều vâng thờ. Đã vâng thờ rồi đều không trái phạm.

Thiện Hiện! Sau đời đương lai, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, nếu hữu tình nào đối với Kinh điển đây, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì này Thiện Hiện, số phước đời trước của Ta so với số phước đây thì trăm phần không bằng được, như vậy cho đến ngàn phần, hoặc trăm ngàn phần, hoặc ức trăm ngàn phần, hoặc hơn ức trăm ngàn phần, hoặc số phần, hoặc kế phần, hoặc toán phần, hoặc dụ phần, hoặc cực số phần cũng chẳng bằng được.

Thiện Hiện! Nếu Ta nói đầy đủ, chính ngay khi ấy, số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này được, cho đến số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này thọ trì, thì các hữu tình nghe được bèn mê ngất, tâm nghi điên cuồng.

Cho nên, Thiện Hiện! Như Lai tuyên thuyết pháp môn như thế chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính lường. Hãy nên mong cầu, quả đạt được chẳng thể nghĩ bàn”.

 

Từ trước Phật dùng thí dụ nào là bố thí bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên, nào bố thí cả thân mạng sớm trưa chiều tối trong vô số kiếp… tới đây Phật lấy chính bản thân của mình làm thí dụ: Ở quá khứ xa xưa, trong vô số kiếp, trước khi được Phật Nhiên Đăng thọ ký, Phật đã từng gặp tám mươi bốn ức trăm ngàn chư Phật, đều vâng thờ. Nói như vậy, có nghĩa là Phật đã làm công quả biết bao nhiêu đời kiếp, thờ phụng cúng dường không sót một đức Phật nào. Nhưng công đức ấy cũng không bằng “hữu tình nào đối với Kinh điển đây, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì số phước đời trước của Phật so với số phước đây như vậy trăm ngàn phần, hoặc trăm vạn ức phần hoặc số phần hoặc kế phần hoặc toán phần hoặc dụ phần hoặc cực số phần cũng chẳng bằng được”. Vì sao?

Vì chúng sanh này được giác ngộ, đắc Chánh giác, đắc Nhất thiết trí trí, lại giáo hóa chúng sanh khác cũng giác ngộ được đạo quả như mình. Rồi chúng sanh đó lại giáo hóa các chúng sanh khác nữa cũng được như vậy, cứ thế nhân lên theo cấp số nhân, thì phước đức làm sao kể hết. Vì Kinh này được coi là mẹ của chư Phật và chư Bồ Tát. Kinh này cũng nhiếp thọ tất cả Phật pháp hay nói khác tất cả pháp thế gian và xuất thế gian đều lưu xuất từ kinh này. Nên thọ trì, đọc tụng vì người tuyên nói thì công đức không thể cân lường, tính đếm nổi! Vì vậy, Phật lúc nào cũng nhắc nhở “nên mong cầu, vì quả đạt được không thể nghĩ bàn”.

Kinh Kim Cương Năng Đoạn là một quyển kinh ngắn mà Phật tán tụng việc thọ trì được phước đức tổng cộng cả thảy là 14 lần. Nhưng Kinh Kim Cương chỉ là một quyển trong số 600 quyển của Đại Bát Nhã. Vậy, phải biết Kinh Đại Bát Nhã tán tụng việc thọ trì Kinh này rộng lớn biết bao?

Phẩm “So Lường Công Đức”,  Q.126, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo Thiên Đế Thích:

“Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... chẳng lìa tâm của Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, rồi dùng vô lượng tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy, ta nói, có được vô lượng vô biên công đức thù thắng trong hiện tại và vị lai”.

Để đáp lời Phật, Thiên Đế Thích cũng trong phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 129, Hội thứ I, ĐBN, tán thán:

“Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại thù thắng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô lượng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng viên mãn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô biên; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô đối; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô tận; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô giới hạn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng không gì bằng; Bát nhã Ba la mật như thế, thành tựu công đức thù thắng khó nghĩ bàn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng chẳng thể nói hết”.

Bao nhiêu lời tán tụng Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại, vô lượng, vô biên, vô đối, vô tận, vô giới hạn, không gì bằng, khó nghĩ bàn, chẳng thể kể xiết… là quá đủ, nên các đoạn kế tiếp không cần lặp lại nữa!

 

---o0o---

 

Đây là lần thứ hai, Thiện Hiện hỏi Phật hai câu hỏi quan trọng.

 

“Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những người phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa nên an trụ như thế nào? Nên tu hành như thế nào? Nhiếp phục tâm như thế nào?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Những ai phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa, phải nên phát tâm như vầy: Ta đều làm cho tất cả hữu tình vào Vô dư y Niết bàn. Mặc dù độ tất cả hữu tình đều được diệt độ, song không thấy có hữu tình nào được diệt độ. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì nếu các đại Bồ Tát còn tưởng hữu tình, thì không gọi là đại Bồ Tát. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát chẳng nên nói rằng chuyển tưởng hữu tình; như vậy, chuyển tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ đặc già la, tưởng ý sanh, tưởng thiếu niên, tưởng tác giả, tưởng thọ giả, phải biết cũng vậy. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có một chút pháp nào gọi là người hướng tới Bồ Tát thừa.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi xưa, ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có chút pháp nào mà Như Lai chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, thì khi xưa ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Như Lai không có chút pháp nào gọi là chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

 

Đây là lần thứ hai cụ thọ Thiện Hiện hỏi Phật: Người phát tâm hướng đến Đại thừa nên phát tâm an trụ như thế nào và làm sao nhiếp phục tâm? Hàng phục và an trụ là vấn đề lớn đối với người phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát đạo. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì coi như không tu hành, không hàng phục hay an trụ chơn tâm.

Nếu tự tâm còn thấy thật có chúng sanh cần diệt độ, thấy Niết Bàn là chỗ phải vào, tức tâm vẫn còn khởi niệm, mỗi khi niệm khởi thì vọng sanh như vậy thì làm sao năng đoạn được vọng mà nói đến tu hành. Nên đoạn kinh trước cũng như đoạn này Phật nói “mặc dù độ tất cả hữu tình đều được diệt độ, song không thấy có hữu tình nào được diệt độ”.  Điều đó có nghĩa là phải thật sự diệt tận năng sở ngã sở, năng chấp ngã chấp thì mới có hy vọng tu hành Bát Nhã.

Nếu Bồ Tát còn nghĩ tưởng mình cần phát Bồ đề tâm, cần tu Bồ Tát đạo, cần diệt độ hữu tình… thì năng sở còn nguyên thì làm sao nhiếp phục tâm, làm sao tu hành mà nói là an trụ hay không an trụ. Ngài Hoàng Bá bảo: “Biết rõ tất cả chúng sanh vốn là Bồ đề, không lẽ Bồ đề lại được Bồ đề. Nay ông nghe nói phát Bồ đề tâm, bèn cho là có cái tâm học làm Phật. Nếu chỉ nghĩ làm Phật, dù ông tu ba A tăng kỳ kiếp cũng chỉ là Phật báo thân, hóa thân, cùng Phật chân tánh bản nguyên của ông có gì dính dáng”. Vì vậy, nên Phật bảo “thật không có pháp gì gọi là phát Bồ đề tâm”, chỉ theo thế tục nói như vậy thôi. Thật là câu nói quá thậm thâm!

Như vậy, phải biết là không có pháp Bồ đề tâm, Bồ đề ngay nơi tự tâm, không cần tìm nơi nào khác. Quay về quán chiếu tự tâm, con đường trở về là phản tỉnh, là ánh sáng, là quang minh chiếu diệu. Nên khi Phật hỏi cụ thọ:

- “Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi xưa, ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có chút pháp nào mà Như Lai chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?” Cụ thọ Thiện Hiện bèn trả lời “Như Lai không có chút pháp nào gọi là chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Tại sao?

Vì tu cũng từ tâm, chứng cũng tự chứng, đặng đạo Bồ đề cũng tự thầm nhận. Không phải phát tâm cầu Phật, rải năm cành hoa cúng dường, lót y, trải tóc che bùn… cho Phật Nhiên Đăng đi qua mà được thọ ký. Đó chỉ là hình thức bên ngoài. Khi đúng thời tiết, quả tự chín thì gọi là đắc pháp. Nhưng đắc cũng chẳng đắc gì cả, thầm ngộ thì gọi là đắc. Vô minh là mê, chuyển thành giác thì gọi là ngộ. Mê ngộ chỉ là sự chuyển đổi nơi tự tâm, chỉ có mình hay mình biết. Vì vậy, Thiện Hiện thầm ngộ chỗ này, nên thưa Phật: “Như chỗ con hiểu ý Phật nói Như lai không có đắc pháp Bồ đề với Phật Nhiên Đăng”.

Phật Nhiên Đăng không có quả Bồ đề trao cho Thế tôn. Thế tôn tự tu tự chứng, công tròn quả mãn thì đặng Vô Thượng Bồ đề. Nói tu thành Phật là thành cái gì? Còn trong Như Lai tạng tại triền thì gọi là thái tử Tất Đạt Đa, nếu giải thoát khỏi triền phược tức Như Lai tạng xuất triền thì gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó chính là trở về cái sẵn có của tự tâm. Vì vậy, Ngài Hoàng Bá mới nói: “Giả sử có người tinh tấn tu hành trải qua ba A tăng kỳ kiếp, lần lượt qua các địa cùng với người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái “sẵn có” trên ông Phật của chính mình, kỳ thật không có thêm được một cái gì khác. Xem ra công dụng nhiều kiếp đều là việc làm trong mộng”. Lại thêm một câu nói thậm thâm nữa!

 

Phần “Na Già Thật Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN: Khi Bồ Tát Na Già Thất Lợi nói với Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi là muốn chứng Vô Thượng Bồ đề. Mạn Thù Thất Lợi bảo:

- “Pháp Vô thượng Bồ đề chẳng thể chứng. Ngài muốn chứng pháp ấy tức là hành hý luận. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ đề lìa tướng, tịch diệt. Vậy Ngài muốn trở thành người giữ lấy sự hý luận sao! Ví như có người nói như vầy: “Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ đề, chứng huyễn Vô Thượng Bồ đề”. Lời nói như thế quá ư hý luận. Vì các huyễn sĩ còn bất khả đắc, huống nữa là khiến cho chứng được huyễn đại Bồ đề!

Huyễn đối với pháp huyễn chẳng hợp chẳng tan, chẳng lấy chẳng bỏ, tự tánh đều Không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả pháp chẳng thể phân biệt, đều như huyễn mộng. Nay Ngài muốn chứng Vô thượng Bồ đề, há chẳng phải thành người phân biệt huyễn pháp! Nhưng tất cả pháp đều chẳng thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với pháp có tạo tác và có diệt hoại. Không có pháp nào đối với pháp nào mà có hòa hiệp, có chia lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều Không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen, không chê, không cao, không thấp, không tổn, không ích, chẳng thể tưởng tượng, chẳng thể hý luận, bản tánh hư tịch, rốt ráo đều Không, như huyễn như mộng, vô đối, vô tỉ, sao có thể khởi tâm phân biệt nó được”.

  

1. Trong Bích Nham Lục phần nói về “Tinh Thần Thiền Tông” có kể câu chuyện: Đời Đường có thiền sư Đạo Lâm cư ngụ trên nhánh cây cổ tùng, làm bạn cùng chim chóc trong ngọn núi Tần Vọng ở phía Đông Nam huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang. Người đương thời gọi Ngài là Hòa thượng Ô Sào, vì chỗ Ngài ở giống như ổ quạ. Ngày kia đệ tử của sư tên Hội Thông đến cáo từ để đi nơi khác. Sư hỏi:

- Thông định về đâu?

 Thông thưa:

- Con vì tầm cầu Phật pháp mà xuất gia bái sư làm Thầy. Nhưng từ trước đến giờ Thầy chưa từng thuyết pháp cho con nghe, nên nay con định đi nơi khác để học Phật pháp.

Đạo Lâm nói:

- Tưởng gì gì chớ Phật pháp thì nơi đây ta cũng có chút đỉnh.

Hội Thông vội hỏi:

- Thế Phật pháp của Hòa thượng là thế nào?

Thiền sư bèn bứt nơi áo của mình một sợi lông vải thổi nhẹ về phía Hội Thông. Hội Thông tỉnh ngộ ngay không còn ý định lặn lội đi nơi khác cầu pháp nữa. Vậy, chỗ nào là Phật pháp và làm sao Hội Thông tỉnh? Phật pháp tràn đầy trong vũ trụ, cũng tràn đầy từ tâm. Nếu tâm không nọ kia, không còn điên đảo thì muôn pháp bất động như như. Đó chính là chơn như pháp giới. Cái sờ sờ trước mắt, cần gì phải tìm cầu.

 

2. Nên, có Thiền sư trụ trì chùa Thê Hiền ở Lư Sơn từng nói với Tăng đồ: “Chỉ cần ra khỏi cổng Tăng đường, nhìn thấy ngọn Ngũ Lão phong, là chuyện tham học một đời coi như đã đủ”. Tại sao? Vì ngọn Ngũ Lão Phong trong câu này là biểu trưng cho sự hiện tiền. Vậy, nhìn thấy Ngũ Lão Phong tức coi trọng sự hiện tiền vậy!

Đó là “cái ấy”, cái sẵn có trước mắt, tìm đâu xa.

 

3. Lại có người hỏi Ngài Hoàng Bá:

- Ngay chính khi ngộ, Phật ở chỗ nào?

Sư đáp:

- Hỏi từ đâu đến? Biết từ đâu khởi? Nói nín động tĩnh, tất cả thanh sắc đều là Phật sự, chỗ nào lại tìm Phật? Không thể trên đầu lại thêm đầu, trên mỏ lại thêm mỏ. Chỉ chớ sanh kiến chấp khác, thì núi là núi, nước là nước, Tăng là Tăng, tục là tục, núi sông, quả đất, mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, thảy không ngoài tâm ông. Ba ngàn thế giới là tự thể của ông, chỗ nào có nhiều thứ? Ngoài tâm không pháp, khắp thấy núi xanh, hư không, thế giới rõ ràng mà không có bằng mảy tơ sợi tóc cho ông sanh hiểu biết. Nên nói “Tất cả thanh sắc là mắt tuệ của Phật”.

Như Lai là bản thể như như của các pháp, vì Như Lai lìa tất cả hư tướng của hết thảy pháp sai biệt, nên chứng được chân tánh của tất cả pháp nhất như (chơn như thật tánh). Tâm Phật chẳng dung chứa tướng sai biệt của tất cả các pháp nên mới gọi là Như. Tâm Phật cũng chẳng nắm giữ tướng chung tướng riêng khác. Pháp tánh vốn bình đẳng không tịch, vì chứng biết cái bản lai không tịch ấy nên gọi là Phật Như Lai.

Mê muội bình đẳng (không biết bình đẳng là gì) bèn chấp thủ sai biệt thì tâm theo pháp chuyển, ngay chánh pháp còn chướng ngại huống chi phi pháp. Ở trong sai biệt mà nhận ra bình đẳng, thì tâm đã chuyển, chuyển từ mê muội triền phược sang giải thoát, tức hiểu rõ các pháp đều là chân như thật tướng. Cổ đức bảo “đưa đón khách khứa, gánh nước bửa củi, đi đứng nằm ngồi, trong sáu thời ở trên chư pháp đem nghĩa này ra thực hành tức là cái đó”. “Cái đó” tức chân như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bình đẳng tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… Hiểu biết như vậy thì nói huyền thuyết diệu làm gì. Sáu thời “cứ đói ăn mệt ngủ”. Đó là đời sống sinh hoạt không nỗ lực, vô công dụng hạnh, vô đạo hành hay nói khác là sinh hoạt không trước ý, cứ “đói ăn, mệt ngủ”.

Phải biết thiên hạ vốn vô sự, người ngu tự làm rối mình. Kinh Lăng nghiêm bảo: “Tự tâm lại trách tự tâm, chân tâm biến thành huyễn” là thế. Còn nghĩ nọ kia thì còn vọng, vọng sanh thì trần ai nổi sóng. Đó chính là tự mình làm rối mình. Thiền sư Duy Tín nói lúc chưa ngộ thì thấy núi là núi, nước là nước. Đến khi được thiện tri thức chỉ chỗ vào, thì thấy núi không phải là núi, nước không phải là nước. Sau 30 năm Duy Tín được chỗ an ổn, mới thấy sông núi vẫn là sông núi cũ(1). Chư pháp từ xưa vẫn như vậy, nay vẫn như vậy, không lúc nào chẳng như. Vì vậy, Phật nói: “Như là bản thể như như của các pháp”.

Hiểu đạo rồi thì gạt bỏ được tất cả kiến chấp tình chấp, không giữ không bỏ, thì mặc tình thấy biết! Trong “Tín Tâm Minh”, Tổ Tăng Xán nói:

 

Viên đồng thái hư

Vô khiếm vô dư

Lương do thủ xả

Sở dĩ bất như

 

Dịch:

 

Tròn đầy tợ thái hư

Không thiếu cũng không dư

Bởi mãi lo giữ bỏ

Nên chẳng được như như.

 

Chúng sanh chấp Như Lai đặng quả Bồ đề, vì chúng sanh chưa hiểu hai chữ Như Lai. Như Lai là bản thể như như của các pháp, đã là như như, nên không có đặng pháp nào cả. Chỉ vì tỏ rõ cứu cánh giác ngộ, không biết gọi là gì, nên tạm gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác vậy thôi. Nên Phật nói tiếp: “Như Lai đặng quả Bồ đề không thực không hư”. Không thực vì là giả thi thiết mà có. Nhưng quả đó do nhiều đời nhiều kiếp tu hành, tích tụ công đức nên tự chứng ngộ. Cái chứng ngộ là cái có thật, do mình tự chứng tự biết, nên nói là chẳng hư.

Thích nghĩa cho đoạn kinh này:

(1). Nguyên văn câu nói của Thiền sư Duy Tín là: “Sãi tôi 30 năm trước khi chưa học Thiền, thấy núi là núi, thấy nước là nước. Sau nhân theo bậc thiện tri thức chỉ cho chỗ vào thì thấy núi chẳng phải núi, nước chẳng phải nước. Rồi nay thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh, y nhiên thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.

 

---o0o---

 

Tại sao Phật nói tất cả pháp là Phật pháp?

 

“Thiện Hiện! Những pháp mà hiện tiền Như Lai đã chứng, hoặc đã nói, hoặc đã nghĩ, ở trong ấy chẳng thật, chẳng hư. Cho nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp.

Thiện Hiện! Tất cả pháp, tất cả pháp ấy Như Lai nói chẳng phải tất cả pháp. Cho nên Như Lai nói là tất cả pháp”.

 

Tại sao Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: Những pháp hiện tiền mà Như Lai đã chứng hoặc đã nói hoặc đã nghĩ, ở trong ấy chẳng thật chẳng hư? Bởi vì tất cả pháp đều do duyên sanh, không có tự tánh, nên nói là không thật có, chỉ là giả danh, nên Phật bảo là chẳng thật. Tuy biết như vậy, nhưng không nhiếp thọ tu hành thì không thể thành tựu chúng sanh, thanh tịnh quốc độ, được giác ngộ, chứng Nhất thiết trí trí. Vì vậy, nên Phật bảo là chẳng hư.

Vì nhờ các pháp ấy mà chúng sanh thoát khỏi phiền não, được Niết bàn yên vui rốt ráo, nên Phật bảo tất cả pháp ấy là pháp Phật. Nhưng khi nói như vậy, Phật nghĩ chúng sanh sẽ mong cầu nắm bắt cất giữ. Phật liền “phủi” ngay: “Tất cả pháp, tất cả pháp ấy Như Lai nói chẳng phải tất cả pháp”. Vì sao? Vì Phật không muốn chúng sanh lấy sở đắc tu hành dù đó là pháp tối cao mang lại nhiều công đức nhất cũng đưa đến trói buộc bằng cách này hay cách khác, tâm sẽ không còn tư do trong tư tưởng hay hành động nữa. Tu là tu như hư không, tu vô sở hữu, bất khả đắc thì chóng thành Phật đạo mang lại lợi ích cho toàn thể chúng sanh.

 

 

---o0o---

 

Đoạn chấp cái thân lớn.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ví như người nam có thân hình cao lớn.

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai nói người nam có thân hình to lớn, tức là chẳng phải thân, cho nên gọi là thân hình to lớn”.

 

Trước đây Phật đã phá cái chấp lớn nhỏ của thế giới và vi trần, bây giờ Phật phá cái chấp thân hình to lớn. Dù hình tướng có lớn như núi Tu Di thì cũng do đất nước gió lửa tạo nên. Cái gì do duyên sanh thì có thành có hoại… Tu Bồ đề hiểu ý Phật nói, liền trả lời: Người có thân hình to lớn tức chẳng phải thân lớn mà qua cái thân lớn thấy được pháp thân vô tướng đầy đủ công đức, tùy duyên biến hiện khắp cả chỗ để hóa độ chúng sanh, thì mới nói là thân lớn. Còn có niệm lớn nhỏ là còn phân biệt thì làm sao nhập Bát Nhã Trí. Đó là phá cái chấp về nhục thân để thấy cái pháp thân.

 

---o0o---

 

Không có pháp nào gọi là Bồ Tát:

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy. Nếu các Bồ Tát nói lời như vầy: “Ta phải diệt độ cho vô lượng hữu tình”, thì không gọi là Bồ Tát. Vì sao? Thiện Hiện! Vì có chút pháp nào gọi là Bồ Tát không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế đức Tôn! Không có. Không có chút pháp nào gọi là Bồ Tát”.

 

1. Bồ Tát thấy mình đã độ chúng sanh, thấy chúng sanh cần được độ, tức còn chấp ngã pháp là còn bệnh. Nên đoạn Kinh này nói rõ ràng: Nếu Bồ Tát chấp mình độ chúng sanh thì không phải là Bồ Tát vì còn thấy năng độ sở độ tức còn chấp ngã chấp pháp. Có thủ có chấp nên vẫn thấy khác biệt giữa mình người… thì không phải là chơn Bồ Tát.

 

Có vị Tăng hỏi quốc sư Huệ Trung:

- Làm sao được thành Phật?

Ngài Huệ Trung đáp:

- Phật và chúng sanh đồng dẹp hết thì được giải thoát.

Bặt niệm phàm Thánh thì được giải thoát. Lục Tổ lại nói: “Chẳng ngộ thì Phật là chúng sanh, còn khi ngộ thì chúng sanh là Phật”.

Chúng sanh, Phật, Bồ Tát cũng chỉ là những danh tự diễn tả sự chuyển đổi trạng thái của cái tâm này. Chúng sanh cũng có tâm, nhưng là tâm mê. Bồ Tát cũng có tâm, tâm giác mà giác từng phần. Phật cũng có tâm, tâm giác, tâm giác trọn vẹn nên gọi là Phật.

Bồ Tát sau khi tu Lục độ vạn hạnh hoàn tất, lập đại nguyên cứu độ chúng sanh, ngày nào còn một chúng sanh chưa được diệt độ thì ngày đó Bồ Tát chưa vào Niết Bàn. Nhưng Bồ Tát hóa độ chúng sanh như thế nào? Không phải bằng phép mầu mà Bồ Tát có thể đưa tất cả chúng sanh vào Niết bàn. Bồ Tát cũng giống như tất cả các chúng sanh khác, chỉ khác với chúng sanh khác là giác ngộ, nên nói là hữu tình giác ngộ. Rồi từ cái giác ngộ đó, Bồ Tát lại giáo hóa hữu, cứu hữu tình ra khỏi phiền não các hệ lụy thế gian, nên nói là được giải thoát. Giải thoát là tịch diệt, tịch diệt nên gọi là vào Niết bàn.

Nhưng nếu Bồ Tát còn thấy mình độ chúng sanh, thì Bồ Tát còn chấp mình là người độ, chúng sanh là người được độ, và Niết bàn là pháp chân thật để giải thoát. Như vậy, Bồ Tát còn thấy mình (ngã), người (nhơn), pháp…, nên Kinh nói vì còn chấp tâm thủ tướng, nên “không phải là Bồ Tát”.

 

2. Không có pháp gọi là Bồ Tát?

Phẩm “Tam Giả”, MHBNBLMĐ Kinh thuật lại cuộc trao đổi giữa Thế Tôn và Tu Bồ đề luận về Bồ Tát như sau:

- “Này Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng, không chủng, thức chủng có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Như như tướng của ngũ uẩn nhẫn đến như như tướng của thập nhị nhơn duyên có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Rời ngoài như như tướng ấy có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Ông thấy nghĩa gì mà cho rằng tất cả những pháp kể trên và ly những pháp ấy không phải là Bồ Tát như vậy?

- Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là Bồ Tát. Sắc còn bất khả đắc huống là sắc hay rời sắc là Bồ Tát, huống là như như tướng của sắc hay rời như như tướng của sắc là Bồ Tát. Nhẫn đến thập nhị nhơn duyên hay rời thập nhị nhơn duyên là Bồ Tát, huống là như như tướng hay rời như như tướng của thập nhị nhơn duyên là Bồ Tát.

Lành thay, lành thay! Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Vì đại Bồ Tát và chúng sanh bất khả đắc nên Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Cần phải học như vậy”.

Bồ Tát còn bất khả đắc thì pháp Bồ Tát cũng bất khả đắc. Danh xưng bất khả đắc, pháp tạo ra danh xưng cũng bất khả đắc. Gốc đã bất khả đắc thì cành ngọn cũng bất khả đắc nốt!

Tóm lại, tứ đại, ngũ uẩn, lục căn không phải là Bồ Tát, tất cả pháp cũng không phải Bồ Tát. Vì tất cả pháp đều không, nên Bồ Tát cũng không.

 

---o0o---

 

Hữu tình chẳng phải là hữu tình.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Hữu tình, hữu tình ấy Như Lai nói chẳng phải hữu tình, nên gọi là hữu tình. Cho nên Như Lai nói tất cả pháp không có hữu tình, không có mạng giả, không có sĩ phu, không có Bổ đặc già la…”

 

Hữu tình là do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) và ngũ uẩn duyên hợp mà thành. Những loài có sanh là do ngũ uẩn hiện ra sanh tướng, vốn không có thực thể. Một khi tứ đại tan rã, ngũ uẩn bám vào đâu? Nên nói hữu tình không thực hữu tình. Kinh ĐBN, Phật nói “sắc là hình tướng, thọ là lãnh nạp, tưởng là ức niệm, hành là trôi lăn, thức là phân biệt…” Tất cả đều do vọng tâm sanh ra. Vọng tâm không thật, thì ngũ uẩn cũng không thật. Vì vậy, khi Phật hỏi Tu Bồ đề: Ngũ uẩn có phải là Bồ Tát Không? Tu Bồ đề đáp: Không!

Tứ đại là huyễn, ngũ uẩn cũng là huyễn. Vậy cái gì do tứ đại và ngũ uẩn hợp lại sao gọi là thật được. Nhưng duyên hợp thì tướng sanh. Kinh nói tướng sanh là do “duyên hợp giả có”. Có mà không có tự tánh, không có tự thể nên gọi là giả, vì không có tự thể nên Kinh nói “đương thể tức không”. Thân tướng vô thường, hợp rồi tan, thành rồi hoại… nên nói “hết thảy tướng tức phi tướng”.

Kinh Kim Cương là ly tướng, khiển chấp, không ngoài mục đích là phá cái vỏ bên ngoài như phá cái kém để con ngài hóa bướm mà bay cao. Nhất thiết chúng sanh tắc phi chúng sanh cốt là phá ngã phá tướng. Vì vô ngã là Niết bàn và ly tướng thì gọi là chư Phật.

 

Phần “Đại Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 593, khi nói về trí tối cao của Phật đạo, Phật mật ý nói rằng:

 “…Tất cả hữu tình đều không phải hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là điên đảo chấp trước hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là biến kế sở chấp hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là hư dối sở duyên hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là bại hoại tự hành hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là vô minh duyên hành hữu tình.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Nếu pháp của tất cả hữu tình, chẳng có các loài hữu tình tạo tác pháp kia, thì gọi là vô minh duyên hành hữu tình.

Pháp nào không có? Nghĩa là chấp ta, chấp của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm giữ, bám víu, pháp đó chẳng có. Nếu có pháp đó thì tất cả hữu tình đều chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp kia là nắm giữ, bám víu, nên cho là thật có, không gọi hư dối. Không có pháp đó mà các hữu tình vọng chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm giữ, bám víu đều không thật có, đều là hư dối, nên nói thế này: Tất cả hữu tình không thật hữu tình, tất cả hữu tình đều là vô minh duyên hành hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không phải hữu tình là có chút thật pháp có thể chấp là ta, hoặc chấp là của ta, hoặc là nắm giữ hai chấp ấy, bám víu đều không thật pháp. Nên nói tất cả hữu tình là không thật hữu tình; nên biết không hữu tình ấy là khái niệm chẳng thật. Nói chẳng thật ấy phải biết đó là khái niệm không phải hữu tình, như trong tưởng không thật hữu tình, tất cả hữu tình vọng chấp là thật; nên nói tất cả hữu tình không thật hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói không thật ấy là đối với trong này không thật, không khởi. Vì tất cả pháp đều là không chơn thật, cũng không phát khởi. Hữu tình trong này do hư dối chấp trước mà tự ràng buộc. Nên có thể nói tất cả hữu tình đều là hư dối, duyên theo hữu tình, họ đối với việc làm của mình không thể hiểu rõ, nên nói là không thật hữu tình. Tức là trong nghĩa này phải giác ngộ viên mãn cùng khắp. Nếu họ đối với các hành có giác ngộ viên mãn cùng khắp, thì biết người ấy gọi là Bồ Tát”.

Nếu hiểu rõ các pháp, thông đạt các pháp như vậy thì gọi là Bồ Tát, là Phật. Nên trong đoạn Kinh Kim Cương Năng Đoạn này Phật bảo: “Hữu tình chẳng phải là hữu tình”. Cái thấy biết các pháp, thông đạt các pháp như vậy chỉ có Bồ Tát, chư Phật, mới có thể nói hữu tình không phải là hữu tình. Còn chúng ta chấp ngã-ngã sở khởi hành phân biệt, nên thấy hữu tình là thật hữu tình, nên không thể siêu hóa nổi.

Nói tóm lại, tứ đại, ngũ uẩn, lục căn, ngã không phải là hữu tình, tất cả pháp cũng không phải hữu tình. Vì tất cả pháp đều không, nên hữu tình cũng không.

 

---o0o--- 

 

Phá cái chấp thành tựu “công đức trang nghiêm cõi Phật”.

 

Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát nói lời như vầy: “Ta phải thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật”, thì cũng nói như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì công đức trang nghiêm cõi Phật, công đức trang nghiêm cõi Phật ấy Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm. Cho nên Như Lai gọi là công đức trang nghiêm cõi Phật”.

 

Bồ Tát làm Phật sự có chấp: “Ta phải thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật” không? Nhưng thế nào là trang nghiêm cõi Phật? Phẩm “Đạo Sĩ”, quyển 476, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch, Phật bảo: Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm cho đến thân rốt sau, thường tự thanh tịnh ba thô trọng nơi thân ngữ ý, cũng thanh tịnh ba thứ thô trọng cho người, nên năng nghiêm tịnh cõi Phật. Trong Chương I “Quốc Độ Phật”, Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Phật bảo trưởng giả Bảo Tích rằng: “Cho nên, Bảo Tích, nếu Bồ Tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”. Điều này có nghĩa muốn thành tựu trang nghiêm cõi Phật thì trước tiên phải thanh tịnh tự tâm.

Một cá nhân thanh tịnh, thì gia đình được thanh tịnh. Gia đình thanh tịnh thì xóm làng thanh tịnh, xóm làng thanh tịnh thì quận tỉnh được thanh tịnh, quận tỉnh thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh. Tổng thể chỉ hoàn thiện khi cá thể biết hòa đồng cá biệt tánh về vật chất cũng như tinh thần vào tổng thể đó. Do sự hòa đồng vì quyền lợi chung, nó vượt lên cái riêng tư của mình để đạt ích lợi chung. Nên muốn thành tựu Phật quốc thì phải thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh không gì hơn là thanh tịnh tam nghiệp của chính mình trước.

Nên, Kinh Viên Giác nói: “Do tâm thanh tịnh nên sáu thức thanh tịnh, do sáu thức thanh tịnh nên sáu căn thanh tịnh, do sáu căn thanh tịnh nên sáu trần thanh tịnh, do sáu trần thanh tịnh nên bốn đại, 12 xứ, 18 giới và 25 loài đều thanh tịnh” tức cõi nước được thanh tịnh. Vì vậy, Tịnh Độ tông có câu “tâm bình thế giới bình, tâm tịnh thế giới tịnh”.

Bồ Tát làm những việc khó làm, muốn biến đổi thế giới đầy uế trọc thành cõi Tịnh độ, Bồ Tát phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát đạo, thanh lọc tự tâm trước khi dẫn dắt chúng sanh đến chỗ an lạc. Đó là ý nghĩa Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật. Nhưng Bồ Tát còn chấp mình (Ta làm=năng), trang nghiêm cõi Phật (tịnh quốc độ=sở) thì Bồ Tát còn chấp thủ năng sở.

Trang nghiêm Phật độ mà không thấy mình trang nghiêm. Đó chính là hành đạo mà chẳng thấy hành, gọi là vô đạo hành, vô công dụng hạnh, nên mới được gọi công đức vô lậu, vô tận, vô biên không gì bằng.

 

---o0o---

 

Đối với pháp vô ngã mà hiểu biết sâu xa thì được gọi là Bồ Tát.

 

“Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát đối với pháp vô ngã mà tin hiểu sâu xa thì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác gọi là Bồ Tát”.

 

Ngã, như là cái áo khoác gói trọn một cá thể. Vì là cái áo khoác nên có kích thước màu sắc khác nhau; vì là cá thể nên thành phần cấu tạo nên cá thể về vật chất và tinh thần cũng khác nhau: Khác nhau giữa cá thể với cá thể, và cũng khác nhau giữa cá thể với tập thể. Về vật chất tức vóc dáng, đẹp xấu, mạnh yếu… Về tinh thần (ý chí và dục vọng) tạo thành một thứ văn hóa hay nhân sinh quan khác nhau do huân tập bởi hoàn cảnh hay lịch sử. Đó là nói theo Tục đế.

Cổi cái áo khoác bên ngoài thì dễ, phá cái thể bên trong mới khó. Cái nằm bên trong là ý chí và dục vọng là nhân tố chính tạo thành cái ngã thì rất khó thay đổi vô cùng. Ý chí và dục vọng lúc nào cũng dung dưỡng ngã và ngã sở. Dung có nghĩa bao che, dưỡng có nghĩa nuôi cho nó lớn lên. Vì được nuôi nấng, nuông chiều, bao che… nên ích kỷ, cống cao, khinh mạn và đôi khi lấn áp những cái gì không phải nó hay không thuộc về nó. Đó chính là mầm móng của những rạn nứt, đổ vỡ trong cộng đồng xã hội.

Xã hội chỉ được yên vui khi cá thể tự hòa đồng trong tập thể và chính tập thể cũng phải biết chia sẻ với từng cá thể. Tổ Tăng Xán bảo: Một tức là tất cả, tất cả tức là một (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất). Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một nhiếp Tất cả, và Tất cả thu về Một. Một là tất cả và Tất cả là Một. Một trùm Tất cả và Tất cả ở trong Một. Mọi vật đều như thế, mọi hiện hữu đều như thế”. Bồ Tát là người làm đẹp thế gian này, nên Bồ Tát phải quên mình (phá ngã) mới có thể hy sinh cho tất cả chúng sanh khác. Đó là lý do tại sao Phật bảo nếu Bồ Tát tin hiểu vô ngã một cách sâu sắc thì Như Lai mới gọi là Bồ Tát.

Phá ngã là bước đầu thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, không như bậc Tiểu thừa, tu mau để chứng thật tế, liền nhập Niết bàn, quên đi những thống khổ của biết bao sanh linh khác.

 

---o0o---

 

Phật có đủ năm loại mắt.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có nhục nhãn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có nhục nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Lai có thiên nhãn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có thiên nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có tuệ nhãn không?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có tuệ nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có pháp nhãn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có pháp nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có Phật nhãn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có Phật nhãn”.

 

Đoạn Kinh này không phải chỉ xếp loại suông năm loại mắt khác nhau giữa chúng sanh và Phật hay giữa phàm và Thánh mà Kinh muốn nói đến cái thấy và cái biết sâu cạn gọi là “đạo nhãn” của chúng sanh trong thập giới như thế nào về nhân sanh và vũ trụ, mặc dù Phật không đề cập đến các chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh hay A tu la có cái nhìn như thế nào, nhưng chúng ta cũng thừa biết bốn loại chúng sanh này, nhãn quang đầy đen tối.

 Địa ngục thì khói lửa ngập trời, rên la thảm thiết. Cái thấy của chúng sanh này không ngoài hình phạt và máu lửa. Ngạ quỷ thì bụng to cổ nhỏ, chúng sanh này vì tham muốn vơ vét, ăn nuốt cho đầy hầu bao, nhưng cổ quá nhỏ, nên cái thấy của họ chỉ là thèm khát vật chất. Súc sanh vì Dục mà bị đọa đầy. Cái thấy của chúng sanh này chỉ là ăn uống và tham dục: Cha lấy con, anh lấy em, gian dâm vô độ nên cái thấy của chúng sanh này chỉ là lửa dục che mờ tâm trí. Cái thấy A tu la chỉ là cái thấy thiên lệch đảo điên: Thương thì thương thật nhiều mà ghét cũng lắm, vì binh vực cho cái thương ghét thiên lệch nên sanh giận hờn, đấu tranh, chém giết, máu lửa.

Vì mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nên nhìn đôi mắt người ta có thể đoán biết người đó nghĩ gì, muốn gì. Nhục nhãn là con mắt của phàm phu. Thánh phàm gì cũng có con mắt thịt, nhưng qua con mắt thịt đó lại có cái nhìn khác nhau, có nhãn quang khác nhau. Con mắt là tiền trần, dùng để thấy, tiếp theo cái thấy ý thức liền nhảy vào can dự. Khi ý thức tham dự thì có phân biệt, và theo sau phân biệt là cảm thọ. Có cảm thọ phân biệt, nên sanh ra chấp nhất. Từ chấp nhất nên khởi ra hành động. Hành động thì có tốt xấu, được mất có không mà chìm trong sanh tử. Nên Phật bảo “thấy mà phân biệt là có phiền não”. Đó là cái thấy nhục cảm của chúng hữu tình.

Thiên nhãn là mắt của chư thiên, vì phân biệt với nhục nhãn nên mới có thiên nhãn. Nhục nhãn nhìn xa nhất là chân trời. Nhưng Thiên nhãn có thể nhìn xa đến vạn trượng, có khi thấy cả một hay nhiều thế giới, có khi thấy cả trung thiên thế giới, vì không bị sắc chất làm ngăn ngại. Kinh thường nói những vị có thiên nhãn là những vị tu đắc thập thiện hay đắc thiền định nên thác sanh vào hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu (thập nhị ngũ hữu), nên mới có cái thấy xa như vậy.

Tuệ nhãn hay huệ nhãn là con mắt của hàng nhị thừa (Thanh văn hay Duyên giác) nhờ tu Tứ đế và thập nhị nhơn duyên, có con mắt trí, còn gọi là thật trí hay chân trí… vì có thể sanh khởi hậu đắc trí.

Pháp nhãn là con mắt của Bồ Tát nhờ tu lục độ vạn hạnh mà chứng hậu đắc trí, còn gọi là quyền trí hay biến trí… Với trí này không những Bồ Tát chứng lý chân không, thông suốt hết thảy Phật pháp mà còn thông hết tất cả pháp thế gian, nhân quả, tâm niệm sai biệt của chúng sanh để tùy duyên hóa độ.

Phật nhãn có thể thấy cả hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới, thấy tất cả chư Phật ở mười phương, thấy tâm hành sai khác của các loại chúng sanh, thấy từ mấy tầng địa ngục cho đến cõi vô sắc giới của chư thiên.

Cổ đức có bài tụng:

 

Thiên nhãn thông chẳng ngại

Nhục nhãn ngại chẳng thông

Pháp nhãn hay quán tục (tục đế)

Huệ nhãn thấy rõ không (chơn đế)

Phật nhãn như ngàn nhật (mặt trời).

 

Mắt phàm phu thấy có ngại mà chẳng thông. Mắt nhị thừa (Thanh văn và Duyên giác) tuy thấy thông nhưng có ngại. Bồ Tát được ngũ thông có đủ ba thứ mắt nhưng không thể trong một lúc thấy được ba cảnh (nhơn, thiên và A la hán). Riêng mắt Phật thì trong mỗi sát na đồng thời thấy được tất cả cảnh giới.

Chúng sanh vẫn có đủ năm thứ mắt đó. Nhưng vì mê vọng chấp trước, cho nên bị che lấp đi. Khi mê vọng hết thì cũng đồng như chư Phật nào có khác. Thấy mà lập thêm “cái biết” (phân biệt) tức là gốc của vô minh, vì vậy nên nói “người ngộ thì trong ngoài viên thoát, kẻ mê thì tâm cảnh dính khằng”. Đó là lý do tại sao Phật đề cập đến ngũ nhãn ở đây.

Cái thấy của chư Phật là như như, gọi là đồng thể nhất quán: Đồng thể đại từ, đồng thể đại bi… tất cả đều bình đẳng, nên cái thấy đó thanh tịnh hơn bao giờ hết!

 

---o0o---

 

Phật thấy biết hết tâm niệm của các chúng sanh

trong hằng sa thế giới.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Cát trong sông Hằng, Như Lai nói là cát chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy. Như Lai nói là cát.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Giả sử trong sông Hằng có bao nhiêu số cát, thì có số sông Hằng bằng với số cát như thế; cho đến trong vô số sông Hằng này có bao nhiêu số cát thì có bấy nhiêu thế giới. Các thế giới này chắc là nhiều lắm phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch đức Thiện Thệ! Đúng vậy. Các thế giới này rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Cho đến trong các thế giới ấy có vô số hữu tình, tâm loạn động của mỗi mỗi hữu tình ấy Ta đều biết hết. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tâm loạn động, tâm loạn động ấy, Như Lai nói chẳng phải loạn động. Cho nên Như Lai gọi là tâm loạn động. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì tâm quá khứ bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc”.

 

Cát sông Hằng nhiều vô lượng vô biên không thể tính đếm được. Đức Thế Tôn hỏi rằng: Như có những sông Hằng, bằng số cát của một sông Hằng, rồi lại có những cõi Phật nhiều bằng số lượng cát của các sông Hằng ấy, như thế có nhiều chăng? Thế Tôn lại bảo: Chẳng những các cõi nước Phật rất nhiều ngần ấy, Như Lai cũng đều thấy hết, biết hết, mà cả đến bao nhiêu tâm của chúng sanh ở trong ngần ấy cõi nước Phật, khó mà tính hết được, nhưng Như Lai cũng đều biết rõ hết.

Nhưng vừa nói tới “tâm”, sợ chúng sanh vọng chấp “có tâm nào khác nữa ngoài cái tâm này” mà không nhập được Kim Cương Bát Nhã, nên Phật liền phá “Như Lai nói “tâm” không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là tâm. Không nói đến vọng tâm, không nói đến chân tâm, không phân biệt đối đãi thì ngay đó Bát Nhã hiện tiền. Còn chỗ nào để bám, chỗ để trụ mà dính mắc. Nên Phật giải thích: Vì tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không dừng trụ, nên ba thời tâm đều bất khả đắc.

 

1. Đây là giai thoại thời danh “ba thời tâm đều bất khả đắc” thuộc tắc thứ tư trong Bích Nham Lục như sau: Qui Sơn vốn là một Giảng sư về Kim Cương tại Tứ Xuyên. Theo lời dạy trong Kinh thì trong trí tuệ đạt được sau khi chứng được Kim Cương Dụ Định (Vajropamasamàghi) hành giả học uy nghi Phật trong một ngàn kiếp, tu tập Phật hạnh trong một ngàn kiếp nữa, sau đó mới thành Phật. Thế mà bọn ma ở phương Nam lại nói “thấy tánh thành Phật”. Đức Sơn lấy làm công phẫn, gánh bộ Kim Cương Sớ Sao về phương Nam để dẹp tan bọn ma này. Thấy thầy ta công phẫn như thế thì hiểu thầy ta là một tay mãnh liệt như thế nào.

Lúc đến Phong Châu, Đức Sơn gặp một bà lão bán bánh rán bên lề đường, mới đặt gánh sớ sao xuống, định mua vài món ăn điểm tâm. Bà lão hỏi: “Thầy mang theo cái gì vậy?” Đức Sơn nói: Kim Cương Kinh Sớ Sao”. Bà lão nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu thầy trả lời được, xin biếu bánh cho thầy điểm tâm, còn nếu không trả lời được thì xin đến nơi khác mà mua”. Đức Sơn nói: “Cứ hỏi đi”. Bà lão nói: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, chẳng hay hòa thượng muốn điểm cái tâm nào đây?” Đức Sơn không nói năng gì được. Câu hỏi bất ngờ từ miệng của một mụ nhà quê tầm thường mà không trả lời nổi, thì làm sao thi thố với các Thiền sư trí tuệ. Cái tài đa văn quảng kiến của Đức Sơn “cũng chỉ là vay mượn”: Kim Cương cũng do Phật dạy, sớ sao cũng do Thầy Tổ soạn ra, chớ không phải của chính mình nghĩ. Nếu bỏ Kinh, bỏ sớ thì mờ mịt như bao nhiêu kẻ khác. Đức Sơn bỏ ý định thi thố, mới hỏi thăm đường đến Long Đàm tham khán.

Tội nghiệp cho Đức Sơn bị bà lão hỏi “ông điểm tâm nào?”, lại nghĩ là có một cái tâm nào đó trong quá khứ, vị lai, hiện tại ngoài cái tâm này, nên bị gạt, mà ngớ ra. Quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, còn hiện tại thì trôi chảy không ngừng. Mình vừa nói hiện tại thì nó thành quá khứ rồi!

Ngài Xuyên Thiền sư có bài kệ diễn tả ý nghĩa này như sau:

 

Hai mắt trơ trơ chỉ ngó chăm,

Tìm mãi ba đời chẳng thấy tâm

Tuyết nguyệt phong ba thường đối diện

Kiếm rơi hà tất khắc ghe tầm!

 

Câu chuyên kể một khách vui Xuân dạo thuyền trên sông để ngoạn cảnh, lơ đễnh như thế nào không biết, làm rơi kiếm xuống sông. Khách liền lấy dao khắc vào bẹ thuyền để đánh dấu chỗ kiếm rơi, chờ tàu đậu lại sẽ lặn xuống tìm. Đến khi thuyền đậu, lặn xuống tìm hoài mà chẳng thấy. Anh ta thắc mắc: Cây kiếm vừa rơi xuống tôi khắc lên bẹ thuyền làm dấu mà sao tìm hoài chẳng thấy? Người trí thấy vậy mới bảo anh ta: Anh dại quá, kiếm rơi thì phải lặn xuống tìm ngay tại chỗ đó, chớ đợi đến bây giờ, thuyền trôi làm sao tìm được?

Đó là không gian, đó là thời gian, mình phải ngộ nhập cái “sát na vĩnh hằng” trong cái xuôi ngược của cuộc sống. Đừng móng khởi tìm cầu ở đâu đâu. Vì tâm quá khứ đã diệt, tâm hiện tại không dừng, tâm vị lai chưa đến. Trong cảnh phong ba tuyết nguyệt đều biểu lộ cái chân thường, cần gì phải lặn hụp tìm tòi đâu xa. Nếu không trực nhận nổi thì chẳng khác như khách chơi xuân khắc dấu trên bẹ thuyền để tìm kiếm thì chẳng khác nào mò kim đáy biển.

 

2. Đoạn trước Phật phá cái tâm duyên theo sáu trần, đoạn này Phật phá cái tâm duyên “theo thời”. Cái tâm sống theo thời là tâm sanh diệt hư giả, luôn luôn nghĩ tưởng, so sánh, tiếc nuối: Sống trong hiện tại lại than khổ, nên hối tiếc quá khứ xa xưa rồi mong mỏi một tương lai nào đó. Đứng núi này trông núi nọ như 2 chàng Lưu Nguyễn nhập thiên thai.

Chắc không ai quên được câu chuyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu không biết ngất ngơ như thế nào mà lại lạc được vào bồng lai tiên cảnh, suốt ngày rượu thịt, đờn ca xướng hát, cung nữ hầu hạ, muốn gì được nấy. Nhưng ở lâu rồi sanh chán, muốn quay về quê nhà. Thế rồi 2 chàng từ giã cảnh tiên quay lại đường trần, tìm về quê cũ. Khi về đến nơi thì gia đình phân tán, kẻ sống người chết, lại phải làm ăn khổ nhọc. Nhớ đến cảnh non bồng khi xưa, 2 chàng lại muốn quay lại. Nhưng dịp may không đến hai lần. Thỏa nguyện hay nuối tiếc là cái bệnh ngàn đời của chúng sanh. Vì vậy, Phật biết hết “cái tâm loạn động của mỗi mỗi hữu tình” như số cát trong vô lượng vô số cát của các sông Hằng hợp lại.

 

3. Tiếc nuối quá khứ, rồi chán chường hiện tại, lại mơ ước tương lai, thành ra điên đảo hoài không yên. Sống trong cái tâm cuồng loạn như vậy làm sao yên vui cho được. Cho nên có một Thiền sư đi đâu cũng cười nói ồn ào, làm cho các Thiền khách cùng liêu không chịu nổi, nên mới bạch với hòa thượng. Hòa thượng kêu người lên quở:

- Sao ông cười nói ồn ào làm phiền huynh đệ!

Người ấy trả lời:

- Bạch hòa thượng! Cuộc đời là mộng mà con muốn sống với mộng vui, chớ không muốn sống với mộng khổ. Vì vây, con cười hoài.(1)

Thật dễ thương quá!

Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:

(1). Trích dẫn trong Kinh Kim cang Giảng giải của HT. Thích Thanh Từ.

 

---o0o--- 

 

Vô pháp khả đắc.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, thì không có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy. Ở trong một chút pháp, không có không đắc, nên gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp này bình đẳng. Ở trong đó, hoàn toàn bình đẳng, nên gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì không có tánh ngã, không có tánh hữu tình, không có tánh mạng giả, không có tánh sĩ phu, không có tánh Bổ đặc già la…, bình đẳng như vậy, cho nên gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tất cả pháp thiện, không có gì mà chẳng hiện chứng; tất cả pháp thiện, không có gì mà chẳng khéo biết. Thiện Hiện! Pháp thiện, pháp thiện ấy, Như Lai nói tất cả là chẳng phải pháp. Cho nên Như Lai gọi là pháp thiện”.

 

Phẩm “Thiện Hữu”, quyển 552, Hội thứ IV, TBBN. Thiện Hiện bạch:

“Bạch Thế Tôn! Con không thấy pháp nào có thể được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, cũng không thấy pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật có thể chứng, thời chứng, nơi chứng và do đây chứng, hoặc pháp sở chứng đều không thấy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở đắc; ngay trong tất cả pháp vô sở đắc thì người chứng, pháp chứng, thời chứng, nơi chứng và do đây chứng đều bất khả đắc”.

Kinh nói rõ là không có pháp để thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không thấy pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thể chứng, vì không có năng chứng, sở chứng, pháp chứng, thời chứng, xứ chứng. Tất cả pháp đều bất khả đắc. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng chỉ là giả danh, do người khác gán (gắn) cho mình, thọ ký cũng là do người khác thọ ký cho mình. Nhưng quả vị đó lấy ở đâu ra? Đối với Bát Nhã năng sở đều không, tu đến một lúc nào đó đúng thời tiết cây trổ hoa đơm quả, thì gọi là chứng. Chứng chẳng qua thì tự thầm ngộ, chỉ có mình biết.

Phần “Na Già Thật Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN. Bồ Tát Na Già Thất Lợi nói với Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi là muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, Mạn Thù Thất Lợi bảo:

“Pháp Vô thượng Bồ đề chẳng thể chứng. Ngài muốn chứng pháp ấy tức là hành hý luận. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ đề lìa tướng, tịch diệt. Vậy Ngài muốn trở thành người nắm giữ lấy hý luận hay sao? Ví như có người nói như vầy: “Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ đề, chứng huyễn Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Lời nói như thế quá ư hý luận. Vì các huyễn sĩ còn bất khả đắc, huống nữa là khiến cho chứng được huyễn đại Bồ đề!

Huyễn đối với pháp huyễn chẳng hợp chẳng tan, chẳng lấy chẳng bỏ, tự tánh đều Không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả pháp chẳng thể phân biệt, đều như huyễn mộng. Nay Ngài muốn chứng Vô thượng Bồ đề, há chẳng phải thành người phân biệt huyễn pháp! Nhưng tất cả pháp đều chẳng thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với pháp có tạo tác và có diệt hoại. Không có pháp nào đối với pháp nào mà có hòa hiệp, có chia lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen, không chê, không cao, không thấp, không tổn, không ích, chẳng thể tưởng tượng, chẳng thể hý luận, bản tánh hư tịch, đều rốt ráo không, như huyễn như mộng, vô đối, vô tỉ, sao có thể khởi tâm phân biệt nó được”.

Tất cả pháp đều chẳng thể lấy cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với pháp có tạo tác, có diệt hoại. Tất cả pháp cũng chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen, không chê, không cao, không thấp... nên nói là bình đẳng như như. Người có cái thấy biết như vậy gọi là Như Lai. Như Lai là lìa tướng tức không còn phân biệt không chấp. Nên thuyết tới đây Phật bảo Thiện Hiện: “Pháp thiện, pháp thiện ấy, Như Lai nói tất cả là chẳng phải pháp”. Phật không muốn chúng sanh dựa vào lời Phật phân biệt chấp đắm, pháp thiện hay phi thiện, nên lại phủi ngay!

Tu mà năng sở chưa tiêu, còn thủ tâm chấp tướng thì quả nhỏ như Tu đa hoàn còn khó được hiến được Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề.

 

---o0o--- 

 

Phật phá cái chấp “Ta có độ thoát hữu tình”

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Lẽ nào Như Lai khởi nghĩ như vầy: Ta phải độ thoát các hữu tình? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có chút hữu tình nào được Như Lai độ.

Này Thiện Hiện! Nếu có hữu tình nào được Như Lai độ, thì Như Lai có chấp ngã, có chấp hữu tình, có chấp mạng giả, có chấp sĩ phu, có chấp Bổ đặc già la... Thiện Hiện! Những sự chấp ngã ấy, Như Lai nói là chẳng phải chấp, nên gọi là chấp ngã…, chỉ những kẻ phàm phu ngu si mới cố chấp. Thiện Hiện! Kẻ phàm phu ngu si ấy, Như Lai nói là chẳng phải sanh, nên gọi là phàm phu ngu si”.

 

Nếu còn quán Ta là Phật, là hữu tình giác ngộ và chúng sanh là mê, cần phải độ là còn phân biệt. Còn phân biệt phàm Thánh là còn phân chia. Như vậy, tâm ngã chưa thông thì làm sao chứng tánh mà gọi là Phật. Nên, Phật bảo Thiện Hiện không nên quán như thế.

Phật chúng sanh vốn không hai, tự tánh chúng sanh xưa nay vốn là Phật, đầy đủ Phật tánh. Chỉ cái danh, cái dụng khác nhau nên có hai tên. Nên thành Phật không phải là đổi thể! Nếu giác rồi thì chúng sanh là Phật, cõi này là cõi Phật.

Con người muôn đời sống theo tình thức của thế giới phân hai, nên dễ bị trói buộc bởi hình sắc danh tướng. Khi Phật nói tới phàm phu liền nắm lấy tướng phàm phu, nghe nói chúng sanh liền chấp chúng sanh, nghe nói Phật là chấp có Phật. Vì phân biệt nên chấp, chấp Phật là đấng tối thượng, còn mình là kẻ tội lỗi thấp hèn. Vì vậy, nên thấy có Phật cứu độ mình.

Nhưng chẳng ai cứu độ ai hết, Phật làm ra mười hai bậc thang giáo lý, cứ theo đó tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo. Chỉ có mình không ai ngoài mình vươn lên trong ánh sáng giác ngộ. Vì vậy, Phật nói là Phật không có độ chúng sanh. Nếu chấp Phật “Ta có độ sanh” tức Phật vẫn còn chấp thì sao được gọi là Như Lai?

 

---o0o---

 

Có thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật vừa nói, thì không thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Hay thay, hay thay! Đúng vậy, đúng như lời ông nói, không thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ.

Thiện Hiện! Nếu quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ, thì Chuyển luân Thánh vương tức là Như Lai? Cho nên, chẳng nên quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ. Như vậy, nên quán Như Lai bằng các tướng chẳng phải tướng.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:


Ai dùng sắc quán Ta,
Dùng âm thanh cầu Ta,
Kẻ ấy hành tà đạo,
Chẳng thể thấy được Ta.
Nên quán pháp tánh Phật,
Tức Pháp thân Đạo sư.
Pháp tánh chẳng bị biết,
Nên kia chẳng hiểu được.

 

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các tướng đầy đủ để hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng do các tướng đầy đủ mà hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

 

Kinh ở đoạn trước Phật hỏi cụ thọ: “Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng? Cụ thọ Thiện Hiện trả lời: Chẳng thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai”. Phật lại bảo cụ thọ Thiện Hiện: “Các tướng đầy đủ đều là hư dối, cho đến chẳng phải tướng đầy đủ đều chẳng phải hư dối. Như vậy, nên quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng”.

Tới đây Phật lặp lại câu hỏi này nhưng lấy ví dụ: “Nếu quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ, thì Chuyển luân Thánh vương tức là Như Lai? Cho nên, chẳng nên quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ. Như vậy, nên quán Như Lai bằng các tướng chẳng phải tướng”.

 

Nếu quán Như Lai bằng hình dáng bề ngoài có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp thì Chuyển Luân Thánh vương cũng có thể xem như Như Lai? Vì Chuyển luân Thánh vương cũng có hình dáng đầy đủ như Như Lai. Điều này không có lý, vì Chuyển luân Thánh vương nhiều lắm là chỉ do tu thập thiện, do tu bố thí được chút ít phước huệ mà được làm vua trời. Muốn trở thành Phật, Như Lai thì phải tu tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian, phải trải qua 52 giai vị khác nhau, tích lũy không biết bao nhiêu thiện căn công đức, biết bao thời gian công sức mới được đạo quả Vô Thượng. Nếu chỉ nhìn hình tướng bên ngoài mà so sánh, phân biệt thì lầm chấp thôi.

Vì vậy, bao nhiêu lời Phật nói đều là ly tướng dù thấy nghe hay nghĩ tưởng. Thấy nghe nghĩ tưởng là cái cần thiết cho cuộc sống, đâu có gì đáng trách. Đáng trách là liền sau cái thấy nghe nghĩ tưởng sanh ra phân biệt. Do phân biệt so đo chấp đắm, nên có lấy có bỏ. Vậy, đầu mối chính là thức. Thức là cái chia chẻ, phân hóa, nên mới lạc đạo, mất tông. Tổ Tăng Xán trong “Tín Tâm Minh” nói:

 

Yếu cấp tương ưng

Duy ngôn bất nhị

Bất nhị giai đồng

Vô bất bao dung

Thập phương trí giả

Giai nhập thư tông

 

Dịch:

 

Cần nhất phải tương ưng

Cùng lẽ đạo bất nhị

Bất nhị thì hòa đồng

Không gì chẳng bao dong

Mười phương hàng trí giả

Đều chung nhập một tông.

 

Vì vậy, Phật tha thiết nói: Dùng hình tướng (tranh, tượng…), dùng âm thanh (chuông mõ, nguyện cầu…) tụng niệm để được thành Phật, thành Bồ Tát, thoát khổ, được giải thoát… những người đó hành tà đạo, không thể nào thấy Bồ đề:

 

Ai dùng sắc quán Ta,
Dùng âm thanh cầu Ta,
Kẻ ấy hành tà đạo,
Chẳng thể thấy Như Lai.

 

Thầy Tổ bày ra việc “tụng Kinh gõ mõ”, làm phương tiện nhiếp tâm trong giai đoạn khởi tu. Nó cũng chỉ là hình tướng, đến khi công phu thuần thuật thì chuông cũng bỏ mà mõ cũng lìa. Tu là phát xuất từ tâm. Tức tâm tức Phật, ngoài tâm không Phật. Thấy tâm tức kiến tánh thì thành Phật.

Tổ cũng dạy rằng: “Kiến sắc phi can sắc, văn thinh bất thị thinh” - thấy sắc kệ sắc, tức đừng theo sắc, có tiếng cũng mặc tiếng, có nghe cũng làm ngơ. “Ngộ thinh ngộ sắc như thạch tượng tài hoa. Kiến lợi kiến danh như mãn duy trước tiết”- gặp sắc đẹp hay tiếng hay như hoa trồng trên đá. Thấy lợi danh như bụi rớt vào tròng(mắt). Đạt tới tình độ đó thì “dâm phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng” tức coi thanh lâu tửu điếm chẳng khác như đạo tràng thanh tịnh.

Vì vậy, ở đây Phật dạy đừng chấp vào trần cảnh, phải vượt qua và vượt trên sắc tướng, âm thanh thì mới nhập được pháp thân. Còn dính mắc sắc trần, khởi vọng niệm phân biệt thì tâm còn lang thang. Tổ Tăng Xán lại bảo:

 

Mạc trục hữu duyên

Vật trụ không nhẫn

Nhứt chủng bình hoài,

Dẫu nhiên tự tận.

 

Dịch:

 

Ngoài chớ đuổi duyên trần,

trong đừng ghì không nhẫn

Cứ một mực bình tâm

thì tự nhiên dứt tận.

 

---o0o---

 

Phật phá chấp “không đoạn không diệt”

 

“Lại nữa, Thiện Hiện! Những người phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa, có kiến lập chút pháp nào hoặc hoại hoặc đoạn không? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như vầy: Những người phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa quyết chẳng kiến lập chút pháp nào, hoặc hoại hoặc đoạn”.

 

Kinh này từ đầu tới cuối là “năng đoạn”, năng đoạn cái gì? Năng đoạn chấp trước: Chấp tướng, chấp tâm, chấp ngã, chấp pháp, chấp phi pháp, chấp Như Lai đắc Vô Thượng Bồ đề, chấp Như Lai có thuyết pháp, chấp thân lớn như núi Tu Di, chấp lớn như thế giới, chấp nhỏ như vi trần… Biết chấp như vậy không đúng, thì phải làm sao? Thì phải đoạn chấp: Phá chấp tướng mà tu bố thí, phá chấp Bồ Tát có độ sanh, phá chấp Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật, phá chấp phước đức nhiều, phá chấp thấy sắc thân và tướng tốt là thấy Như Lai, phá chấp thật có chúng sanh, phá chấp Phật có độ chúng sanh… Tới đây Phật phá luôn cái chấp về đoạn diệt.

Chấp CÓ (chấp thường), chấp KHÔNG (chấp đoạn) cũng đều là cuồng loạn không thể chứng quả Bồ đề. Bởi thế, Phật nói “người phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa quyết chẳng kiến lập chút pháp nào hoặc hoại hoặc đoạn”. Vì vậy, cho nên trong đoạn này Phật ngăn cụ thọ Thiện Hiện “chẳng nên quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ nên được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác, cũng chẳng khởi niệm cho rằng người được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác mà nói pháp đoạn diệt”.

Do đó, Nhị Tổ nói kệ: “Cứ một mực bình tâm, thì tự nhiên dứt tận”. Dứt tận không có nghĩa là đoạn diệt, không còn gì. Như trường hợp của Nhị Tổ Huệ Khả, sau một thời gian an tâm mới thưa với Sơ Tổ Bồ đề Đạt Ma:

- Bây giờ con dứt hết các duyên.

Sơ Tổ gạn lại:

- Có rơi vào đoạn diệt không?

Tổ Huệ Khả thưa:

- Chẳng rơi vào đoạn diệt.

Sơ tổ bảo:

- Làm sao biết không rơi vào đoạn diệt?

Ngài nói:

- Rõ ràng thường biết, nói không thể đến!

Sơ Tổ bảo:

- Đây chính là tâm thể của chư Phật đã truyền, ông trọn chớ hồ nghi!

Sơ Tổ dùng câu nói “đây chính là tâm thể của chư Phật” để ấn chứng cho Ngài Huệ Khả. Dứt hết hay dứt tận ngoại duyên có nghĩa không phải là không còn gì hết mà vào lúc ấy tâm thể rỗng không vắng lặng, cũng chính là lúc ấy linh chi mở ra. Điều đó thể tin được lắm!

Pháp nào vẫn y như pháp nào từ xưa đã vậy, nay vẫn vậy, làm sao diệt được. Diệt cái tâm sanh diệt đoạn thường, chứ làm sao diệt nổi pháp!

Phẩm “Tu Bồ Đề”, quyển 497, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch: Tu Bồ đề nói với Phú Lâu Na về “Các pháp phi thường phi hoại”, như sau: “Hoặc pháp thiện pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký pháp vô ký, hoặc pháp hữu tội pháp vô tội, hoặc pháp hữu lậu pháp vô lậu, hoặc pháp hữu nhiễm pháp vô nhiễm, hoặc pháp thế gian pháp xuất thế gian, hoặc pháp tạp nhiễm pháp thanh tịnh, hoặc pháp sanh tử pháp Niết Bàn, hoặc pháp hữu vi pháp vô vi, tất cả như thế đều phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh là vậy. Phú Lâu Na! Do nhân duyên đây, tôi tác thuyết này: Các pháp cũng vậy, rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh”.

Tất cả pháp đều không có tự tánh, không có tự tánh tức là không. Nếu là pháp không thì không phải là thật vật. Nếu không phải là thật vật thì không có định tướng, đã không có định tướng thì làm sao có đoạn có diệt, mà nói châp hay không chấp.

 

---o0o---

 

Người ngộ “tất cả pháp vô ngã, vô sanh”

phước đức nhiều hơn người bố thí bảy báu.

 

“Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đem bảy báu đầy khắp thế giới như số cát sông Hằng v.v… dâng cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nếu có Bồ Tát nào đối với các pháp vô ngã, vô sanh mà được kham nhẫn, thì do nhân duyên đây nên Bồ Tát này được lượng phước nhiều hơn người trước.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ Tát chẳng nên nhiếp thọ số phước đức.

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát chẳng nên nhiếp thọ số phước đức?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nhiếp thọ mà chẳng nhiếp thọ, cho nên gọi là nhiếp thọ”.

 

1. Bao nhiêu Kinh sách của Phật đều “phá ngã”. Ngã là cái rốn vũ trụ, ngã chi phối tất cả mối tương quan, tương xung, tương khắc giữa con người. Ngã là đầu mối của mọi phân chia ngăn cách, bao nhiêu đau thương, tan vỡ. Nên có bài kệ:

 

Trời không cao, núi không cao,

Cái ngã mới thật là cao.

Sông không sâu, biển không sâu,

Cái ngã mới thật là sâu.

 

Có anh có tôi là có đúng có sai, có hay có dở, có tốt có xấu… Vì vậy, trong một quyển sách viết về Phật pháp của HT Thích Thượng Siêu có tựa “Vô Ngã Là Niết Bàn”, thuật lại câu chuyện: “Có một linh hồn tu luyện nhiều kiếp, đến gõ cửa Thiên đàng của Thượng đế. Thượng đế hỏi:

- Ai đó?

Linh hồn đáp:

- Tôi.

Thượng đế hỏi tiếp:

- Tôi là ai?

Đáp:

- Tôi là tôi.

Thượng đế bảo:

- Ở đây không có đủ chỗ cho ngươi và ta cùng ở, ngươi hãy đi nơi khác!

Linh hồn ấy lui về trần gian tu hành thêm một ngàn năm nữa, xong lên gõ cửa Thiên đàng một lần nữa. Thượng đế hỏi:

- Ai đó?

Đáp:

- Tôi.

- Tôi là ai?

Linh hồn đáp;

 - Tôi là Ngài.

Khi ấy Thiên đế mới mở cửa cho vào.

Thí dụ trên cho thấy một ngàn năm trước, tôi là tôi - còn chấp ngã nên không vào Thiên đàng được. Một ngàn năm sau, tôi là Ngài, không còn chấp ngã mới vào được.

Để bình luận cho câu chuyện này, HT Thích Thượng Siêu viết rằng: “Niết bàn là một cái gì tuyệt đối không dung chứa ngã. Niết bàn không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng nên khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn cũng rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc, nên ta cũng không thể mang thêm một hành lý mà hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cả ý niệm về tôi, về ta cũng không thể mang theo được. Cái tôi càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết rằng: Hễ hữu ngã là luân hồi, mà VÔ NGÃ LÀ NIẾT BÀN”.

Bố thí bảy báu chứa đầy tam thiên đại thiên thì phước đức không kể xiết. Nhưng phá ngã thì được Niết bàn, tức giải thoát mọi ràng buộc thế gian thì dĩ nhiên phải hơn phước đức bố thí bảy báu. Ngài Phó Đại sĩ được coi là hiện thân của Bồ Tát Di Lặc, có bài tụng:

 

Thí báu như số cát,

Chỉ thành hữu lậu nhân

Đâu bằng quán vô ngã,

Suốt vọng mới là chân.

Muốn chứng vô sanh nhẫn,

Cốt nhờ lìa tham sân.

Người rõ pháp vô ngã,

Thong dong khỏi sáu trần.

 

Đó là nói về vô ngã, còn thế nào gọi là vô sanh? Theo thuyết của nhà Phật không có vật nào tự sanh, cũng không có vật nào tự diệt, vì mọi vật không có tự thể, nên không sanh không diệt. Do duyên hợp giả có, nên gọi là sanh. Duyên tan thì gọi là diệt. Nhưng thế tục thì không dễ gì chấp nhận thuyết này, vì con mắt trần “thấy” xưa không có, bây giờ mới có, như trước không có lúa, bây giờ gieo hạt, hạt nẩy mầm lớn lên thành lúa. Người ta nói là lúa mới sanh. Lúa đơm hoa nở hạt, người ta gặt, chỉ còn trơ gốc, trâu bò ăn không còn nữa thì nói lúa diệt. Cái gì xuất hiện gọi là sanh, cái gì biến mất gọi là diệt.

Ngài Phạm Chí Thanh Mục chú thích cuốn Trung Luận của Bồ Tát Long Thọ nói về “bất sinh bất diệt” của cây lúa như sau: Vạn vật không có sanh, vì sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian chính mắt thấy lúc ban sơ lúa chẳng sanh, vì sao? Vì lìa lúa trong kiếp ban sơ thời lúa hiện nay không thể có được. Nếu lìa lúa trong kiếp ban sơ mà có lúa hiện nay mới gọi là có sanh ra, song kỳ thật không có như vậy. Thế nên chẳng sanh. Tại sao chẳng diệt? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian chính mắt thấy trong lúc ban sơ lúa chẳng diệt, nếu diệt thời nay không thể có lúa, song kỳ thật có lúa. Thế nên chẳng diệt.

Thuyết luân hồi cho biết sanh diệt, diệt sanh không ngừng, bất tận gọi là bất sanh bất diệt (bất là không, là vô: Bất sanh bất diệt là không sanh không diệt hay vô sanh vô diệt). Vậy có gì gọi là sanh, có gì gọi là diệt, chỉ như người thay áo, đổi họ, thay tên: Nước bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh đọng lại thành nước, nước rơi xuống thành mưa. Mưa đổ xuống sông hồ biển cả. Rồi nước trong sông hồ biển cả lại bốc hơi biến thành mây v.v… cứ thế luân lưu bất tận. Vậy, chỗ nào sanh ra mây, chỗ nào sanh ra nước, chỗ nào sanh ra sông ngòi biển cả. Mây vẫn bay, mưa vẫn rơi, nước ở sông hồ biển cả không bao giờ cạn? Vậy, chỗ nào gọi là diệt. Đây không phải là lời ngụy biện!

Thuyết nhân duyên hòa hợp trong phẩm “Đàm Vô Kiệt”, quyển 30, Ma Ha Bát Ba La Mật Đa(đồng với Hội thứ II, ĐBN), La Thập dịch thì như thế nào? “Phật bảo:

- “Này thiện nam tử! Thân chư Phật cũng vậy, từ bổn nghiệp nhân duyên quả báo mà sanh. Lúc sanh chẳng từ mười 10 đến, lúc diệt cũng chẳng đi đến 10 phương. Chỉ duyên hợp thì có, duyên rời thì tan.

Này thiện nam tử! Ví như đờn không hầu, lúc phát ra tiếng không từ đâu đến, lúc tiếng diệt không chỗ đi. Vì các duyên hòa hợp nên có tiếng. Có thùng, có cổ, có da, có dây, có trụ, có cần, có người lấy tay khảy, các duyên ấy hòa hợp mà có âm thanh ấy. Âm thanh ấy cũng chẳng từ thùng đờn nhẫn đến chẳng từ tay người phát ra. Các duyên hòa hợp bèn có âm thanh. Lúc các duyên ấy rời tan, âm thanh cũng không có chỗ đi.

Này thiện nam tử! Thân chư Phật cũng như vậy, từ vô lượng công đức nhân duyên sanh, chẳng từ một nhơn, một duyên, một công đức sanh, cũng chẳng không nhơn duyên mà có. Vì các duyên hòa hợp nên có. Thân chư Phật chẳng riêng từ một sự mà thành. Đến không từ đâu, đi không đến đâu.

Này thiện nam tử! Phải biết chư Phật, tướng đến, tướng đi như vậy.

Này thiện nam tử! Cũng phải biết tất cả pháp không có tướng đến, đi. Nếu ông biết chư Phật và các pháp không có tướng đến, đi, sanh, diệt thì tất là được Vô Thượng Bồ Đề”.

Không gì tự sanh, sanh là do nhiều nhân duyên hợp lại, nên nói là vô sanh. Kinh MHBNBLMĐ nói: “Nếu ông biết chư Phật và các pháp không có tướng đến, đi, sanh, diệt thì tất là được Vô Thượng Bồ Đề”. Được Vô Thượng Bồ đề thì phước đức không thể tính đếm nổi.

Thuyết luân hồi và nhân duyên hòa hợp dùng để giải thích cái vô sanh vô diệt của vạn hữu là như vậy: Nước bắt đầu từ đâu mà có? Từ hơi nước chăng? Từ mây chăng? Từ mưa chăng? Từ sông hồ biển cả chăng? Không có cái gì độc lập, tự chủ; cũng không có cái khởi đầu và cũng không có cái chấm dứt? Nên trong Thiền ngữ định nghĩa vô sanh như sau: “Vô sanh tức vô thủy, vô thủy tức vô sanh, như con gà với trứng gà đều chẳng có sự bắt đầu, tức là hiển bày nghĩa vô sanh”(1).

 

2. Tu phải tu cả hai phần phước lẫn huệ. Phước huệ phải cân như hai bánh xe, nếu có phước mà không có huệ như xe chỉ có một bánh thì làm sao chạy được. Tu phước như người bố thí bảy báu đầy cả Tam thiên đại thiên, thì phước đức làm sao kể xiết. Nhưng tu phước mà thiếu Bát Nhã soi sáng, nếu mong cầu tham trước thì cũng là một chướng ngại của tâm. Không nhiếp thọ phước đức trong khi hành thiện, tức làm như vô sự, thì tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì sanh thật tướng. Như vậy, không cần nhiếp thọ cũng tự nhậm nhiếp thọ. Ngài Phó Đại sĩ có bài tụng:

 

Vô sanh tức vô diệt

Vô ngã phục vô nhơn

Vĩnh trừ phiền não chướng

Tường từ hậu hữu thân

Cảnh vong tâm diệc diệt

Vô phục khởi tham sân

Vô bi không hữu trí

Hốt nhiên đột nhậm chơn.

 

Dịch:

 

Không sanh cũng không diệt

Không ngã cũng không nhơn

Dứt trừ phiền não chướng

Không còn có hậu thân

Tâm cảnh đều vắng lặng

Do đâu khởi tham sân

Không bi cũng không trí

Tự nhậm nhập chơn như.

 

Sanh diệt, đoạn thường, ngã pháp đều không, tất cả tập khí phiền não đều đoạn trừ. Phật nói: “Bằng cái thấy biết như vậy, tâm người giải thoát khỏi dục lậu. Giải thoát, người biết người được giải thoát. Người biết cuộc tái sanh này đã giải trừ xong, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không còn thọ thân nào khác”(2).

Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:

(1). Ngữ vựng Thiền học.

(2). Kinh Tu Bà Subha Sutta.

 

---o0o---

 

Phật phá cái chấp “Như Lai có đi, đứng, nằm ngồi”.

(Uy nghi tịch tĩnh)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu ai nói rằng: Như Lai hoặc đi, hoặc đến, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm thì người này chẳng hiểu nghĩa Ta nói. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Như Lai tức là chơn như chân thật, hoàn toàn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

 

Như Lai không từ đâu đến, cũng không đi đâu, nên gọi là Như Lai. “Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”. Câu này chẳng phải bảo rốt ráo không có lai khứ, mà có ý bảo lai cũng không có chỗ lai, khứ cũng không có chỗ khứ. Nên gọi là Như Lai. Vì đến và đi là động, mà động là do tướng. Như Lai mà động thì sao gọi là Như Lai?

Đoạn trước định nghĩa Như Lai nghĩa là như của các pháp “Như Lai giả, chư pháp như nghĩa”. Như Lai hiểu cái thể chân thật của tất cả pháp, nó là như như, nó là như tướng, bởi vì nó như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, chẳng dao động, đổi dời, bất sanh bất diệt. Người thấy biết như vậy gọi là Như Lai. Nếu cho 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp là Như Lai, tức sắc thân bằng xương bằng thịt có đi đứng nằm ngồi, do tứ đại hợp thành, thì khi tứ đại tan rã Như Lai ở chỗ nào? Đã là di động, đổi dời thì không còn như nữa.

Thế nên, hiểu rõ Như Lai chỉ pháp thân thanh tịnh, pháp thân tịnh thì không đến không đi, không ngồi không nằm. Nếu nói Như Lai có đi đứng nằm ngồi là không hiểu nghĩa Phật nói. Nên Phật bảo “Như Lai tức là chơn như chân thật, hoàn toàn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác”.

Hy vọng đoạn Kinh ngắn trong phẩm “Đàm Vô Kiệt”, quyển thứ 30, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, do La Thập dịch sau đây làm sáng nghĩa “Như Lai không từ đâu đến, cũng không về đâu”:

“Lúc ấy Đàm Vô Kiệt Bồ Tát (Pháp Dũng Bồ Tát) bảo Tát Đà Ba Luân Bồ Tát (Thường Đề Bồ Tát): “Này thiện nam tử! Chư Phật không từ đâu đến, đi cũng không đến đâu. Tại sao vậy?

Chư pháp như, tướng chẳng động. Chư pháp như tức là chư Phật.

Pháp vô sanh không đến, không đi. Pháp vô sanh tức là chư Phật.

Pháp vô diệt không đến, không đi. Pháp vô diệt tức là chư Phật.

Pháp thật tế không đến, không đi. Pháp thật tế là chư Phật.

Pháp Không không đến, không đi. Pháp Không là chư Phật.

Pháp vô nhiễm không đến, không đi. Pháp vô nhiễm là chư Phật.

Pháp tịch diệt không đến, không đi. Pháp tịch diệt là chư Phật.

Tánh hư không không đến, không đi. Tánh hư không là chư Phật.

Này thiện nam tử! Rời các pháp ấy không có Phật.

Chư Phật như, các pháp như, một như không sai khác.

Này thiện nam tử! Như ấy thường một, không có hai, không có ba, ra ngoài các pháp số, vì là vô sở hữu. Ví như tháng cuối xuân, giữa ban ngày lúc nắng nóng, có người thấy ánh nắng dợn động bèn đuổi theo mong tìm được nước. Ý ông nghĩ sao? Nước ấy từ ao nào, núi nào, suối nào chảy đến, nay đi về đâu, hoặc là chảy về biển Đông, biển Tây, biển Nam, biển Bắc ư?

Tát Đà Ba Luân thưa:

- Thưa Đại sư! Trong ánh nắng còn không có nước, làm sao có được chỗ nước đến, nước đi!

Này thiện nam tử! Kẻ ngu vô trí bị khát bức ngặt, thấy nắng dợn bèn tưởng là nước.

Này thiện nam tử! Nếu có người phân biệt chư Phật có đến có đi, phải biết các người ấy đều là ngu phu.Tại sao vậy?

Này thiện nam tử! Chư Phật, chẳng thể lấy sắc thân thấy được. Chư Phật, pháp thân không đến, không đi, cũng không chỗ đến, chỗ đi.

Này thiện nam tử! Thí như nhà ảo thuật, thuật ra các thứ như voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Ảo sự ấy từ chỗ nào đến, đi đến đâu?

- Thưa Đại sư! Ảo sự không thật làm sao có chỗ đến, chỗ đi.

Này thiện nam tử! Người mà phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như chiêm bao thấy voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Cảnh vật được thấy trong chiêm bao có chỗ đến chỗ đi chăng?

- Thưa Đại sư! Cảnh vật được thấy trong chiêm bao đều là hư vọng, làm sao lại có đến, có đi.

Này thiện nam tử! Nếu người mà phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Đức Phật nói các pháp như chiêm bao. Nếu có chúng sanh nào chẳng biết pháp nghĩa ấy, cho danh tự sắc thân là Phật, người ấy phân biệt chư Phật có đến, có đi.

Vì chẳng biết tướng thật tế của các pháp, nên đều là hạng ngu phu vô trí.

Các người ấy mãi mãi qua lại năm đường, xa rời Bát nhã Ba la mật, xa rời Phật pháp.

Này thiện nam tử! Đức Phật nói các pháp như ảo, như mộng. Nếu có chúng sanh nào biết đúng thật, thì người ấy chẳng phân biệt các pháp, hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc diệt.

Nếu chẳng phân biệt các pháp hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc diệt thì có thể biết được thật tướng của các pháp mà đức Phật đã nói. Người ấy hành Bát nhã Ba la mật gần Vô Thượng Bồ Đề, gọi là chân đệ tử, chẳng hư vọng ăn của tín thí. Người ấy đáng nhận cúng dường, là phước điền thế gian”.

Phẩm “Bồ Tát Pháp Dũng”, quyển 399, Hội thứ I, ĐBN cũng có đoạn kinh tương đương như vậy. Bồ Tát Pháp Dũng nói: “Thiện nam tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thể lấy sắc thân mà thấy. Vì lẽ Như Lai ấy tức là pháp thân. Thiện nam tử! Pháp thân Như Lai tức là chơn như pháp giới các pháp, chơn như pháp giới đã chẳng thể nói có đến có đi, pháp thân Như Lai cũng lại như thế, không đến không đi”.

Hai đoạn kinh này nói rõ thế nào là “Như Lai có đi, đứng, nằm ngồi”. Nếu không hiểu thì bị Phật mắng là ngu phu di sanh. Vì sao? Vì pháp thân Như Lai tức là chơn như pháp giới các pháp, chơn như pháp giới đã chẳng thể nói có đến có đi, pháp thân Như Lai cũng lại như thế, không đến không đi.

 

---o0o---

 

Lý nhất hợp tướng.

 

“Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào, đem sắc tượng của vô số thế giới bằng lượng cực vi trần v.v… của đại địa khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm thành mực như lượng cực vi.

Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lượng cực vi này chắc là nhiều lắm phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Lượng cực vi này rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì nếu lượng cực vi là thật có thì Phật chẳng nên nói là lượng cực vi. Vì sao? Vì Như Lai nói lượng cực vi tức là chẳng phải lượng, nên gọi là lượng cực vi. Như Lai nói thế giới ba ngàn đại thiên tức chẳng phải thế giới, nên gọi là thế giới ba ngàn đại thiên. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì nếu thế giới là thật có tức là một hợp chấp (tướng). Như lai nói một hợp chấp tức là chẳng phải chấp, nên gọi một hợp chấp.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Một hợp chấp đây chẳng thể nói, chẳng thể hý luận. Nhưng tất cả phàm phu ngu si kia cố chấp pháp này”.

 

Đoạn Kinh sau đây do Ngài La Thập dịch từ Phạn sang Hán, và HT. Thích Trí Tịnh dịch từ Hán sang Việt, rõ ràng dễ hiểu hơn:

(Tu Bồ đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ tam thiên đại thiên thế giới toái vi vi trần, ư ý vân hà? Thị vi trần chúng ninh vi đa phủ?). Dịch:

- Tu Bồ đề! Nếu có thiện nam tín nữ, đem cõi tam thiên đại thiên thế giới nghiền nát thành vi trần, ý ông nghĩ sao? Số vi trần đó có nhiều không?

(Thậm đa Thế Tôn! Hà dĩ cố? Nhược thị vi trần chúng thật hữu giả, Phật tắc bất thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ giả hà? Phật thuyết vi trần chúng tắc thi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng. Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tắc phi thế giới, thị danh thế giới. Hà dĩ cố? Nhược thế giới thực hữu tắc thị nhất hợp tướng. Như Lai thuyết nhất hợp tướng tắc phi nhất hợp tướng, thị danh nhất hợp tướng). Dịch:

- Bạch Thế Tôn thật nhiều! Tại sao? Nếu vô số vi trần là thật có thì Phật chẳng nói là vi trần. Tại sao? Vì Phật nói vô số vi trần, tức phi vi trần, thị danh vi trần. Bạch Thế Tôn! Như Lai nói Tam thiên đại thiên thế giới, tức phi thế giới, thị danh thế giới. Tại sao? Nếu thế giới thật có, tức là nhất hợp tướng. Như Lai nói nhất hợp tướng, tức phi nhất hợp tướng, thị danh nhất hợp tướng.

(Tu Bồ đề! Nhất hợp tướng giả, tắc thị bất khả thuyết, đãn phàm phu chi nhân, tham trước kỳ sự). Dịch:

- Tu Bồ đề! Nhất hợp tướng tức chẳng thể nói, nhưng phàm phu không biết rồi sanh ra tham ái.

 

Nghiền nát thế giới thì có vi trần. Hợp nhiều vi trần lại thì có thế giới. Ai cũng biết điều đó! Nhưng các vật dù lớn như thế giới hay nhỏ như vi trần cũng không có tự thể, chúng có là do nhân duyên đối đãi mà thành: Đập nhỏ thế giới thì thành vi trần, hợp nhiều vi trần thì thành thế giới. Nhân cái này có mà cái kia có hay ngược lại. Nếu tách rời ra thì chẳng thành thứ gì, vì các vật không có tự thể, đương thể tức không, nên nói chẳng thật có. Nếu chẳng thật thì chẳng thể nói giống, chẳng thể nói khác (bất đồng bất dị), cũng không thể nói một nói nhiều (phi nhất phi nhị). Tất cả đều không hết, trong pháp không (tổng tướng), pháp nhỏ, pháp to, pháp ít, pháp nhiều (biệt tướng) cũng đều không hết.

Phật hỏi Tu Bồ đề: Như đem tam thiên đại thiên nghiền nát thành vi trần, những vi trần như vậy có nhiều không? Tu Bồ đề trả lời: “Rất nhiều! Nhưng nếu số vi trần thật có thì Phật chẳng nói là vi trần. Vì sao? Vì Phật nói vô số vi trần, tức phi vi trần, thị danh vi trần”. Như vậy cũng chẳng có gì lạ? Vì theo Bát Nhã nếu một vật không có tự tánh, đương thể tức là không. Nên mới nói trên danh xưng thì có, nhưng thực thể thì không. Suy rộng ra, tam thiên đại thiên thế giới cũng lại như thế. Thế giới cũng không, không có gì, nên nói chẳng phải thế giới, ấy giả gọi là thế giới. Tại sao?

Nếu thế giới là thật có (dĩ nhiên mọi người đều cho là thật có) tức là một hợp chất thuần nhất nguyên vẹn, có tự thể thì Phật gọi là nhất hợp tướng(1). Nhưng đáng tiếc thế giới lại do nhiều vi trần hợp lại mà có. Cái gì do hợp lại mà thành (duyên hợp) thì sao gọi là thuần nhất nguyên vẹn được. Vậy, cái gì do duyên hợp mà có, đó là giả có nên chẳng phải thật, chỉ là giả danh. Thế giới là giả thì hợp tướng của thế giới cũng giả. Gốc đã giả thì cành nhánh làm sao thật được?

Nhất hợp tướng cũng không thể nói được. Không thể nói được có nghĩa là không thể nói là một, cũng không thể nói khác, cũng không thể nói hợp hay chẳng hợp, không như pháp thân hiện khắp chỗ, viên dung vô ngại, không thể nói là một, là nhiều, là hợp hay chẳng hợp. Trung luận nói rằng “chẳng một chẳng khác là vượt trên tất cả”. Còn thấy tướng là thật thì liền thấy có lớn có nhỏ, có nhiều có ít, có tốt có xấu… Đó là nhị nguyên đối đãi của cuộc đời thường. Ngày nào còn sống trong nhị nguyên đối đãi của cuộc đời thường thì không tránh khỏi những hệ lụy của nó. Chỉ khi nào vượt qua vượt trên những mâu thuẫn, đối đãi của tương đối tính thì con người sẽ đạt đến giới xứ tuyệt đối của Tánh Không.

Thế giới, vi trần... cũng chỉ là những danh tự giả tướng. Kinh ĐBN nói: “Phật cũng là danh tự giả tướng, Bồ Tát cũng chỉ là danh tự giả tướng, Bát nhã Ba la mật cũng là danh tự giả tướng, vì tất cả danh tự giả tướng đều vô sanh.

Danh tự chưa từng sanh khởi thật sự, chúng như hư không, không hề có dấu vết đến đi và do đó vượt ngoài hình sắc danh tướng. Nói khác, hư không (akasa) tức Tánh Không. Pháp của Phật tùy thuận hết thảy các pháp, lìa hết thảy chướng ngại, mà hết thảy các pháp vốn bất khả đắc. Cũng như hư không, lìa hết thảy các chướng ngại. Các pháp như hư không nên lìa hết thảy các ngôn thuyết. Các pháp là bình đẳng nên vượt ngoài mọi pháp phân hai (bất nhị). Các pháp vô sanh nên vượt ngoài pháp hiện khởi. Các pháp vốn vô diệt nên ngoài pháp diệt tận. Các pháp vốn vô tướng nên vượt ngoài thủ tướng. Các pháp vốn vô xứ nên hết thảy xứ đều bất khả đắc”.

Đoạn kinh ngắn này có thể giải thích tất cả gút mắt kể trên!

Thích nghĩa cho đoạn kinh này:

(1). Một hợp chấp (Kinh Kim Cương Năng đoạn do HT Thích Trí Nghiêm dịch): Trong khoa học ngày nay không thấy có danh từ nào tương đương với một hợp tướng. Nếu nói là một hợp chất, thí dụ khí CO2 (carbon dioxide) là một hợp chất gồm hai nguyên tố khác nhau hợp thành (1 nguyên tố carbon + 2 nguyên tố oxy) thì có người hiểu, nhưng nói là một hợp chất, chớ không phải là một hợp tướng. Một hợp tướng (Kinh Kim Cương do HT Thích Trí Tịnh dịch) cũng vậy, trong khoa học không có danh từ tướng.

Ngữ Vựng Danh Từ Thiền Học định nghĩa nhất hợp tướng là: “Thế giới do nhiều vi trần hợp thành, gọi là nhất hợp tướng. Thân người do nhiều tế bào hợp thành cũng gọi là nhất hợp tướng. Tất cả vật chất đều do nhiều nguyên tử hợp thành cũng như vậy”.

Tự điển Phật học đáng tin cậy là Phật Quang Tự điển, định nghĩa như sau: “Phạm: Piịđa-gràha. Một hợp tướng. Chỉ cho 1 sự vật do nhiều nhân duyên kết hợp mà thành. Nói theo quan điểm của Phật giáo thì tất cả mọi hiện tượng trong thế gian đều là 1 hợp tướng. Kinh Kim Cương Bát nhã Ba la mật (Đại 8, 752 trung) nói: Nếu thế giới có thực, thì đó là Nhất hợp tướng; Như lai nói Nhất hợp tướng chẳng phải Nhất hợp tướng, đó gọi là Nhất hợp tướng”.

Nói nhiều, dẫn chứng nhiều chỉ làm rối thêm. Cứ quan niệm một cách giản dị còn thấy tướng là thật thì liền thấy có lớn có nhỏ, có nhiều có ít, có tốt có xấu… Thế giới, vi trần... cũng chỉ là những danh tự giả tướng. Chỉ cần nhớ: Ly tướng tức Phật là tốt! TB

 

---o0o--- 

 

Phật phá cái chấp về “ngã kiến”.

 

“Vì sao? Thiện Hiện! Vì nếu nói như vầy: Như Lai tuyên thuyết ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ đặc già la kiến, ý sanh kiến, thiếu niên (nho đồng) kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, thì ý ông nghĩ sao, lời nói như thế là đúng chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng đúng. Bạch Thiện Thệ! Chẳng đúng. Nói như thế chẳng phải là lời đúng đắn. Vì sao? Vì Như Lai nói ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ đặc già la kiến, ý sanh kiến, thiếu niên kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến tức là chẳng phải kiến, nên gọi là ngã kiến… cho đến thọ giả kiến”.

 

Kinh MHBNBLMĐ, phẩm “Đoạn Chư Kiến”, quyển thứ 04, tập 01, Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: “Ngã kiến, thọ kiến, mạng kiến, chúng sanh kiến, sanh kiến, dưỡng dục kiến, chúng số kiến, nhơn kiến, tác kiến, sử tác kiến, khởi kiến, sử khởi kiến, thọ kiến, sử thọ kiến, tri giả kiến, kiến giả kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, ấm kiến, nhập kiến, giới kiến, đế kiến, nhơn duyên kiến, niệm xứ kiến, nhẫn đến bất cộng pháp kiến, Phật đạo kiến, thành tựu chúng sanh kiến, tịnh Phật quốc độ kiến, Phật kiến, chuyển pháp luân kiến.

Vì dứt trừ những kiến chấp trên đây mà vì mọi người thuyết pháp nên Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: “Duyên cớ gì mà sắc kiến là vọng kiến(1)? Duyên cớ gì thọ, tưởng, hành, thức kiến nhẫn đến chuyển pháp luân kiến là vọng kiến?”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, vì không phương tiện nên Bồ Tát ở nơi sắc sanh kiến chấp, ở nơi thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chuyển pháp luân sanh kiến chấp, vì pháp dụng hữu sở đắc vậy.

Nơi đây đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật dùng sức phương tiện mà vì họ thuyết pháp để dứt trừ những vọng kiến, vì pháp dụng vô sở đắc vậy”.

Tiến trình của vọng bắt đầu từ cái thấy, thấy là cửa ngõ đầu tiên thâu lượm các dữ kiện từ bên ngoài, rồi kế đến thức mới nhảy vào phân tích, so sánh, chọn lựa: Cái gì hợp với nó thì nó giữ, cái gì nghịch với nó thì nó loại trừ. Cái mà thức giữ lại gọi là kiến thức, một thứ văn hóa riêng mà Phật đạo gọi là thân kiến mà thế tục gọi chung dưới một danh từ thật mỹ miều là văn hóa hay nhân sinh quan. Vì là nhân sinh quan nên nó có cá tính riêng, độc lập với nhân sinh quan thuộc cá nhân khác. Đây không phải là một diễn dịch hay là một hệ luận mà đây là một tương duyên giữa căn trần, thức, giới (như trong Phân Tâm Học). Vì vậy, đoạn Kinh trên nói rõ vì không có phương tiện Bát Nhã, nên ở nơi sắc thọ tưởng hành thức sanh kiến chấp. Kiến chấp này là vọng kiến, là sở đắc, cái mà mình có được do thâu lượm hay vay mượn từ bên ngoài…

Vì vậy, mà Kinh MHBNBLMĐ cũng như ĐBN lúc nào cũng khuyên là “nên đoạn chư kiến”. Muốn như vậy thì đừng sanh tâm phân biệt trụ chấp nơi nào.

Chư kiến đó chỉ do cóp nhặt, vay mượn từ bên ngoài mà danh từ chuyên môn gọi là hữu sư trí, cái trí phát sanh ra kiến do thâu lượm qua bao nhiêu đời từ trước khi cha mẹ sanh. Chỉ cái kiến phát sanh từ cần tu khổ nhọc ở giờ phúc chứng ngộ, gọi là tri kiến (tri kiến Phật nói trong Kinh Pháp Hoa) hay Bát Nhã Trí. Đó là vô sư trí, là hậu đắc trí nó không do ai chỉ dạy, nó xuất sanh từ huệ giác của chính mình.

 

Trong nhà Thiền có câu chuyện tạm đặt tên là “nhờ vả, vay mượn”, như sau:

Ngưỡng Sơn Huệ Tịch theo Bá Trượng học Thiền. Sư có cái lưỡi lém lỉnh và cái tài lượm lặt, thậm chí Tổ hỏi một Sư trả lời mười. Bá Trượng nói: “Ta nghĩ, sau này sẽ có người khác độ ông”. Về sau, Ngưỡng Sơn đến với Qui Sơn Linh Hựu. Qui Sơn hỏi: “Ta nghe nói trong lúc theo hầu Bá Trượng, Bá Trượng hỏi một ông đáp mười, có phải vậy không?” Ngưỡng Sơn đáp: “Không dám!” Qui Sơn hỏi: “Đối với thâm nghĩa của Phật pháp, ông đã đến đâu?” Ngưỡng Sơn sắp mở miệng thì Qui Sơn hét lên. Ba lần hỏi, ba lần hé mồm, ba lần đều bị hét. Cuối cùng Ngưỡng Sơn đành khuất phục, cúi đầu rơi nước mắt nói: “Thầy Bá Trượng tiên đoán tôi sẽ được ích lợi với người khác, ngày nay người đó chính thị là đây”.

Sau ba năm chuyên cần theo học, một hôm, Qui Sơn thấy Sư đang ngồi dưới gốc cây, Ngài đến gần lấy gậy thút vào lưng, Ngưỡng Sơn quay lại. Qui Sơn nói: “Này Tịch, giờ ông có thể nói một lời hay không?” Ngưỡng Sơn đáp: “Không, không lời nào nữa, tôi không muốn nhờ vả vay mượn ai hết”. Qui Sơn bảo: “Này Tịch, ông hiểu rồi đó!”(2)

Mượn lời của người dù là của Phật, của Tổ cũng đều là kiến văn giác tri, không phải của mình. Rời thầy, rời Tổ, lìa Kinh sách… thì mờ mịt, ích lợi gì!

 

Cái thấy nghe hiểu biết bằng thức là cái thấy nghe hiểu biết phân hai, nên lúc nào cũng thiên lệch, nghiêng ngả. Thân kiến, biên kiến, kiến thủ… thay vì nó giúp mình, nó lại che mờ cái huệ giác của chính mình.

Nói chung, dưới bất cứ hình thức nào dù là Phật đạo kiến, Phật kiến, chuyển pháp luân kiến… cũng đều là “bệnh”. Nên Phật nói “dứt trừ những kiến chấp này mà vì mọi người thuyết pháp nên Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”. Vì đại Bồ Tát là hữu tình giác ngộ. Dứt bỏ văn tự ngôn thuyết, trực nhận bản tâm, không qua trung gian của kiến thức, tri thức. Có kiến là có chấp, nên cho là chướng. Đó là sở tri chướng, nên nói là bệnh. Nó cũng là một thứ phiền não, đi ngược với giải thoát và giác ngộ. Còn đối với Bồ Tát khi giảng thuyết Bát Nhã đưa ra ý kiến của mình thì sao?

Theo Bát nhã Ba la mật khi Bồ Tát giảng thuyết, không phi các Ngài phát biểu một quan điểm (nói nôm na là có ý kiến) nào đó của riêng mình, mà đó là do tác dụng của Bát Nhã. Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã mở đầu bằng nghi vấn về tư cách của Tu Bồ Đề khi các Ngài giảng thuyết về Bát Nhã. Tu Bồ Đề xác định rằng không phải tự Ngài có khả năng giảng thuyết về ý nghĩa sâu xa của Bát Nhã, nhưng chính diệu dụng của Bát Nhã là như thế: “Người nói là không, người nghe cũng không, tất cả đều không. Giả tỉ có pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi cũng gọi đó là không

Ngôn thuyết biện giải có tính cách bác học đòi hỏi tri thức phân tích, có phần trừu tượng ý niệm… hơn là trực giác thực chứng thông qua kinh nghiệm tâm linh của từng cá thể. Không ai cần lý luận hay biện giải để sống. Sống là “đói ăn mệt ngủ”, đó là đời sống vô công dụng hạnh, vô đạo hành, vô kiến, vô niệm, vô sở y…

Kinh Lăng Nghiêm nói:

 

“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn.

    Tri kiến vô kiến tự tức Niết bàn”.

 

Dịch:

 

“Trên thấy biết mà lập thấy biết tức gốc Vô minh.

Thấy biết mà không thấy biết tức là Niết bàn”.

 

Có người hỏi Ngài Hoàng Bá:

- Nay chính khi ngộ, Phật ở chỗ nào?

Sư đáp:

- Hỏi từ đâu đến? Biết từ đâu khởi? Nói nín động tịnh, tất cả đều là Phật sự, chỗ nào để tìm Phật? Không thể trên đầu lại thêm đầu, trên mỏ lại thêm mỏ. Chỉ chớ sinh kiến chấp, thì núi là núi, nước là nước, mặt trời mặt trăng, sao… thảy đều không ngoài tâm ông. Ba ngàn thế giới là tự thể của ông, chỗ nào có nhiều thứ? Ngoài tâm không có pháp, khắp thấy núi xanh, hư không, thế giới rõ ràng mà không bằng mảy lông sợi tóc cho ông hiểu biết. Nên nói: “Tất cả thanh sắc là mắt tuệ của Phật”.

Nhà Thiền gọi: “Chạm mắt là Bồ đề”. Tâm đã bặt niệm thì thấy cái gì cũng là ánh sáng, cái gì cũng trong suốt, rỗng không. Thiền sư Thiền Lão nói:

 

“Trúc biết hoa vàng đâu cảnh khác,

Trăng trong mây bạc lộ toàn chân”.

 

Không sanh kiến chấp thì núi là núi, sông là sông…Tâm bặt niệm thì trăng trong mây bạc hiện toàn chân. Đó chính là đoạn chư kiến! Cổ đức thường nói: “Cuồng tâm chẳng (chịu) nghỉ, nghỉ tức Bồ đề!”

 

1. Kinh Viên Giác nói: “Này thiện nam! Cái tâm hư vọng phân biệt (gọi là thức sanh kiến chấp) này, nếu không có trần cảnh thì không có gì để phân biệt cả. Lại nữa khi bốn duyên (tứ đại hòa hợp thành thân) rã rời rồi, thì thân giả tạm này cũng không còn. Lúc bấy giờ, cái vọng niệm phân biệt tích tụ trong thân thường duyên theo bóng dáng sáu trần đó, cũng bị phân tán. Rốt cuộc rồi không còn thấy cái gì mà gọi là tâm cả”.

Tâm ở đây có thể nói là sự hiểu biết theo vọng thức. Tâm nếu phan duyên thì ngã kiến cũng tùy duyên mà nổi dậy. Nếu tâm chẳng sanh thì ngã kiến không từ đâu mà ra, chỗ bảo là “biết huyễn liền ly, ly huyễn tức giác!”(3)

Vậy, ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến, sanh kiến, dưỡng dục kiến, chúng số kiến, nhơn kiến, tác kiến, sử tác kiến, khởi kiến, sử khởi kiến, thọ kiến, sử thọ kiến, tri giả kiến, kiến giả kiến… cũng là duyên hợp giả có, nên cũng gọi là huyễn. Đã biết huyễn tức là lìa, lìa huyễn tức giác vậy.

 

2. Nhưng lìa huyễn không có nghĩa là đoạn diệt. Có ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến v.v… tức có phân biệt, chấp trước. Phân biệt chấp trước này cũng phát xuất từ thức thứ sáu và thức thứ bảy (Mạt na thức) mà ra. Thức chẳng phải vật gì khác, tức là chân tánh vì cớ bất giác theo nhiễm duyên hiện khởi nhiễm tướng, chỗ gọi là sanh diệt và bất sanh diệt hòa hợp là vậy.

Chơn tánh là chơn như, bổn lai là một, viên mãn một nói theo đệ nhất nghĩa đế. Một khi duyên theo nhiễm trần thì cái một đó bị phân hóa làm hai. Từ đó mới có chơn giả, mê ngộ, phàm Thánh v.v… đối đãi nhau nói theo Tục đế. Trên con đường trở về quê cũ, người ta cố xa lìa nhị nguyên đối đãi, cái phân hai đó. Nhưng con đường trở về không phải dễ dàng gì. Một khi đã bị chia chẻ phân hóa tức có mất mát, thì không tránh khỏi mất nhiều thời gian và nghị lực dũng mãnh mới khôi phục được cái nguyên trạng của thuở ban đầu.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Căn và trần đồng thể (tâm), triền phược và giải thoát không hai (mê thì triền phược, ngộ thì giải thoát). Các thức hư vọng như hoa đóm giữa hư không.

(…)Vì có trần cảnh, nên ở nơi căn mới khởi ra phân biệt. Vì có năng phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt là cảnh. Căn (kiến) và cảnh (tướng) đối đãi nhau vọng hiện, chớ không có thật (vô tánh). Cũng như hình cây lau gác vào nhau (giống như hình người hay vật hay nói khác là tạo ảo ảnh).

Thế nên, khi thấy, nghe, hiểu, biết mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là vô minh triền phược. Còn khi thấy nghe, hiểu biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn. Ở trong chơn tâm thanh tịnh, không có dung chứa gì hết”.

Phật kết luận: “Chính sáu căn làm cho các ông sanh tử luân hồi và cũng chính sáu căn làm cho các ông an vui giải thoát”. Tại vì sao? Vì căn là môi giới của trần cảnh với thức. Mê thì sống bằng thức phân biệt chấp trước, nên phải chịu sanh tử luân hồi. Ngộ thì thức biến thành trí nên gọi là an vui giải thoát. Khi mê thì sống trên tám thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt na thức và A lại gia thức. Ý thức là thức thứ sáu hay phân biệt, thức thứ bảy là Mạt na thức hay chấp ngã. Khi ngộ thì thức biến thành trí: Năm thức đầu biến thành Thành sở tác trí, thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí, thức thứ bảy thì thành Bình đẳng tánh trí và thức thứ tám biến thành Đại viên cảnh trí.

Dù cho thân tâm là huyễn, dù cho các tướng ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến, sanh kiến, dưỡng dục kiến… không thật, cũng không đoạn diệt. Bởi vì, chính báo thân này biến thành pháp thân, và chính cái thấy do thức này lại cũng biến thành trí. Vậy, chẳng lìa các tướng ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến v.v… mà cũng không đoạn diệt chúng. Nên Thế Tôn nói ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến v.v… phi ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến v.v… thị danh ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến v.v…Tức phi... thị danh... là ở chỗ đó.

“(…) trong tất cả thời không khởi vọng niệm (tức tri kiến bất sanh) thì đối với vọng tâm cũng chẳng cần diệt trừ. Trụ trong cái vọng tưởng mà không thêm cái liễu tri, nơi không có liễu tri chẳng cần biện chân thật”.

Vì vậy, Kinh Viên Giác khuyên: Bồ Tát, chúng sanh không khởi vọng niệm phân biệt thì đối với vọng tâm cũng chẳng cần dứt diệt, vì không khởi thì không cần dứt, không cần diệt, tự nó lặng. Trụ cái vọng tưởng mà không thêm cái liễu tri, vì thấy cảnh giả dối mà không dấy niệm phân biệt giả dối, tức buông hết tất cả vọng tưởng. Nơi cái liễu tri chẳng biện chân thật, vì không dấy niệm phân biệt giả dối, thì luận cái chân thật làm gì?

 

3. Trong tất cả thời không khởi vọng niệm thì tri kiến không sanh. Tri kiến bất sanh thì, căn, trần, thức vắng lặng. Tới đó không phải là hết, trở thành gỗ đá mà tới chỗ đó thì chơn như, Phật tánh hiện tiền. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu bỏ cái sanh diệt, giữ cái chơn thường, cái sáng suốt chơn thường hiện tiền, các thứ tâm niệm căn, trần, thức đồng thời tiêu mất. Tướng của vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, cả hai đều xa lìa, thì pháp nhãn của ông liền sáng suốt, làm sao không thành bậc Vô Thượng Tri giác”.

Kinh nói tiếp: “Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có diệt, sinh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chơn, ấy gọi là hai danh tự chuyển y Vô Thượng Bồ đề và Niết bàn của Như Lai”. Thiền sư Hàm thị Giãi giải thích như sau: Bất giác vọng động thì có niệm khởi. Niệm khởi tức là tướng sanh, đương khi sanh liền diệt, diệt rồi lại sanh, do đó mà không hiểu biết, niệm niệm tiếp nối gọi là vọng, rõ vọng tức là chơn, lại không có hai thể. Nên Ngài Tào Khê (Lục Tổ) nói: “Trước niệm chẳng sanh là tâm, sau niệm chẳng diệt gọi là Phật”, nghĩa là rõ biết thì không theo niệm trước tiếp tục, đương niệm rõ ràng chẳng trở lại mê. Đây gọi là chuyển. Chuyển vọng giác làm Bồ đề, chuyển sanh diệt làm Niết bàn, vốn đồng một thể, do mê và giác mà có tên khác. Ngài Tào Khê lại nói: “Chỉ chuyển cái danh không có thực tánh vậy”. “Y” là Như Lai tạng, y nơi bất giác mà có vọng động, y nơi vọng động mà có sanh diệt. Nay giác ngộ rõ biết không có vọng, thì không có chỗ nào nương, tạng tánh tự nó là vậy, nên chẳng có gì gọi là chuyển (chuyển là chuyển cái tướng chứ chẳng phải chuyển cái thể).

Kinh Lăng Nghiêm lại nói: “Tuy Phật đã chỉ rõ ra vẫn không biết trở về. Nguyên nhân cái mê là như vậy, là nhân mê tự có. Biết mê không nhân, thì vọng không có chỗ tựa, sanh còn không có, làm gì có cái để diệt”. Tự có, tự mê, tự biết. Tự biết tự trở về, giong ruổi đâu có nhân nào khác. Trở về cũng chẳng phải nhờ ai. Biết mê không giong ruổi, hết giong ruổi gọi là trở về. Xưa sanh mà không sanh, nay diệt cũng không diệt. Tới đây là bặt tri kiến, chỉ tự mình chứng biết mà thôi.

Kinh Viên Giác nói: “Biết huyễn tức là lìa, chẳng khởi phương tiện. Lìa huyễn tức giác cũng không có thứ lớp”.

 

Kết luận:

(cho đoạn chiết giải này)

 

Tâm mê cũng tự mình, mà ngộ cũng không ngoài mình. Chỉ mình tự “rối” mình mà thôi. Cổ đức nói: “Cuồng tâm không (chịu) nghỉ, nghỉ tức Bồ đề”, phải có cái tâm “bất biến giữa dòng đời vạn biến”, đó là chỗ cần hạ thủ. Kinh Kim Cương có ghi: “Bất thủ ư tướng, như như bất động”. Tất cả tư tưởng đó đều qui kết chỗ tri kiến bất sanh, cũng là chỗ vô thức, vô niệm, vô tâm. Chủ yếu của tu hành là làm sao cho tâm được thanh tịnh. Đạo Phật được gọi là Thanh-Tịnh-Đạo là vậy. Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán có câu: “Nhất tâm bất sanh, vạn pháp vô cửu”. Một tâm chẳng sanh thời muôn pháp không có lỗi. Tâm không nọ kia, không phân biệt thì vạn pháp bình an, tất cả đều thanh tịnh. Tới chỗ này, nói tức thuốc độc biến thành đề hồ, mà nín thì đề hồ biến thành thuốc độc. Thiền sư Đức Sơn bảo: “Nói cũng ăn 30 gậy, nín cũng ăn 30 gậy”. Chỗ mầu nhiệm không vói tới nổi, lý sự làm gì cho thêm mệt!

 

Chừng như thực thực hư hư

Chừng như gió lặng chừng như trăng ngừng.

Nghìn xưa trăng chỉ một vầng,

Nghìn sau trăng gió cũng ngần ấy thôi.

                                    (Khuyết danh)

 

Chỉ cần một đoạn kinh ngắn này mà chịu nghiền ngẫm đọc tụng thì cũng đủ an thân lập mệnh rồi, chẳng cần bôn ba hành cước vạn dậm, chẳng cần ai ấn tâm?

Thích nghĩa cho đoạn kinh này:

(1). Vọng kiến (Phạm là vitatha): Chấp mê một cách phi lý như vọng kiến, vọng thức, vọng tâm, vọng niệm, vọng chấp, vọng tình v.v…

(2). Về sau đệ tử nối pháp của Thiền sư Qui sơn Linh Hựu chính là Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, khai sáng Thiền viện, xiển dương tông phong Qui sơn Linh Hựu mà phát triển thành tông Qui Ngưỡng; Ngưỡng Sơn nhân đó mà nổi danh trong giới Thiền.

(3). Tâm phan duyên là tâm sanh diệt, tâm mê. Tâm chẳng sanh là chân tâm, tâm giác.

 

---o0o---

 

Phật phá “chấp pháp”.

 

“Phật bảo:

- Thiện Hiện! Những người phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa, đối với tất cả pháp nên biết như thế, nên thấy như thế, nên tin hiểu như thế, chẳng trụ tưởng pháp như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tưởng pháp, tưởng pháp ấy, Như Lai nói là chẳng phải tưởng, cho nên Như Lai gọi là tưởng pháp”.

 

Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa do Ngài La Thập dịch, ghi: “Tu Bồ đề! Phát A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề tâm giả, ư nhất thiết pháp ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng. Tu Bồ đề! Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng”. Dịch:

“Này Tu Bồ đề! Người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng giác, đối với tất cả pháp phải biết như thế, phải thấy như thế, phải tin hiểu như thế, không nên sanh pháp tướng. Này Tu Bồ đề, nói là pháp tướng đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp tướng, ấy gọi là pháp tướng”.

 

Độ mà không độ, khứ lai mà vô khứ lai, nhất hợp tướng bất khả thuyết, ngã kiến mà vô ngã kiến, cho đến tâm như hư không v.v… tất cả là bất sanh. Không độ tức là độ, vô lai khứ mà lai khứ, vô nhất hợp mà nhất hợp, vô ngã kiến mà có kiến… Đó chính là chỗ bảo ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải. Ở đây Phật sợ chúng sanh chấp về pháp tướng, nên Phật bảo: Như Lai nói pháp tướng chẳng phải là pháp tướng, chỉ giả danh là pháp tướng, tạm gọi là pháp tướng (sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng).

Bao nhiêu lời nói đó để ta hiểu ngay đây một lúc buông sạch hết: Có cũng buông mà không cũng buông, được niệm mất niệm đều thành Phật đạo, phải trái chân vọng đều về nguồn. Kinh Viên Giác nói: “Sanh tử và Niết bàn cũng như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn là Phật từ xưa”.

 

Tới đây là hết lý luận, nên Thiền sư Quán Đạt nhắc lại lời của Ngài Thạch Đầu như sau: Chấp SỰ nguyên là mê mà khế LÝ chẳng phải ngộ”. Còn LÝ còn SỰ là còn phân chia chưa phải ngộ. Khi dẫn như vậy, Ngài Cốc Ẩn mới hỏi:

- Ông cho đó là lời nói thuốc hay lời nói bệnh?

Quán Đạt đáp:

- Lời nói thuốc.

Đó là kẹt ở một bên rồi! Cho nên Cốc Ẩn mới quở:

- Ông lấy bệnh làm thuốc đâu thể được.

Dù nói thuốc hay nói bệnh đều kẹt ở hai đầu, nên sư nói:

- Sự như phong thư niêm kín, lý như mũi tên nhọn đầu. Chỗ mầu nhiệm đâu có thêm bớt, thật chưa rõ y chỉ này?

Phong thư niêm kín (bí mật) làm sao mà biết được trong đó nói gì. Mũi tên nhọn đầu trúng thì toi mạng (nghĩa là tấn thối đều chết hết). Ngài Cốc Ẩn bảo:

- Chỗ mầu nhiệm đến như thế đó cũng chỉ là lý sự thôi!

Dù nói hay nói giỏi cách mấy cũng không rời lý sự, còn y chỉ của Tổ sư là chỗ trí biết không thể đến được, huống hồ lý sự mà biết cùng tột hay sao? Nên chỗ này đức Thế Tôn nói: “LÝ chướng, ngăn ngại cái thấy biết đúng; còn SỰ chướng, tiếp nối các sanh tử”.

Chấp sự là chấp theo tướng, tức dẫn mình đi trong sanh tử; còn nói lý này lý nọ là ngăn ngại cái thấy biết đúng, tức chưa quên được lý sự, vì lý sự cũng không rời môi!

Khi nghe tới đó, sư Quán Đạt như chợt tỉnh, bèn thưa:

- Như vậy, làm sao thọ dụng?

Ngài Cốc Ẩn bảo:

- Lời nói chẳng rời khuôn sáo cũ.

Xưa nói như thế nào thì bây giờ lặp lại như cũ. Sư than:

- Vừa dính môi lưỡi, liền rơi vào đối đãi, trọn cửa chết!

Tức vừa mở miệng là rơi vào cửa chết, nói ra là kẹt bên nọ bên kia. Vậy chỉ có nước là ngậm miệng! Phải ngậm miệng như Ngài Duy Ma Cật ở thành Tỳ xá ly mà các Thiền sư sau này xưng tụng là “Cái im lặng sấm sét!” (默如雷; mặc như lôi).

 

Ta có thể lấy phẩm “Tán Hoa”, trong quyển 554, ĐBN, làm kết luận cho đoạn Kinh này: Phật bảo Khánh Hỷ:

“Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không tác dụng. Người thủ, sự thủ đều như hư không, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều giống như người huyễn, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v... chẳng chắc thật vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy, luôn chứng như vậy thì chính là hành Bát nhã Ba la mật, cũng không chấp trước tướng các pháp này.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát khi học như vậy thì chính là học Bát nhã Ba la mật”.

Kinh tự nói lên cái diệu dụng của nó, không cần giải thích nữa!

 

---o0o---

 

Ứng hóa chẳng phải chân.

 

“Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát dùng bảy báu đầy khắp vô lượng, vô số thế giới, dâng cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đối với Kinh Bát nhã Ba la mật này, cho đến bốn câu kệ, mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo, như lý tác ý và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, do nhân duyên đây nên được số phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Thế nào gọi là vì người khác mà tuyên thuyết chỉ bày? Chẳng vì người tuyên thuyết chỉ bày, thì gọi là vì người tuyên thuyết chỉ bày”.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ rằng:

 

Nhất thiết hữu vi pháp,

Như mộng, huyễn, bào, ảnh,

Như lộ diệt như điện,

Ưng tác như thị quán.

 

Sơ giải:

 

Đoạn kinh này chia  làm hai phần:

 

- Phần đầu: So lường công đức giữa Bồ Tát dùng bảy báu để bố thí với người trì tụng Bát Nhã dù chỉ thọ trì đọc tụng bốn câu kệ; và

- Phần sau: Nói về các pháp hữu vi như mộng huyễn, bọt, bóng, như sương cũng như điện v.v...

Tuy kinh chia hai phần rõ rệt, nhưng chúng tôi lược giải cùng một lúc cho cả hai vấn đề.

 

1. Phần đầu: “Ứng hóa chẳng phải chân” nói về thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói Kinh này, dù chỉ bốn câu kệ phước đức hơn người dùng bảy báu bằng thế giới trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp bố thí. Chúng ta đã có quá nhiều dịp nghe thuyết về các loại bố thí được phước đức như vậy rồi, nên không cần lặp lại nữa.

 

2. Điểm đáng chú ý là phần sau: Thế nào là vì người diễn nói? Diễn nói ở đây là chẳng thủ nơi tướng, tâm như như bất động.

Học và hành Bát Nhã là để hiểu biết Bát Nhã, rồi quán chiếu và sống với Bát Nhã tức tự mình thọ trì, đọc tụng… Đó là con đường, là phương tiện đưa đến trí tuệ Phật, trí tuệ Bát Nhã. Và một khi đã ngộ nhập Bát Nhã rồi thì phát nguyện cứu độ chúng sanh. Phương tiện cứu độ chính là vì người giảng nói để chúng sanh được ngộ nhập Bát Nhã như mình. Đó là giải hành tương ứng. Giảng Kinh là giải môn, tu hành là hành môn. Thỏa mãn được hai điều kiện này thì lo gì không đạt lý, không thấy đạo. Nhưng muốn thực hiện những điều kiện đó không phải dễ, hành giả Bát Nhã phải thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói nhưng không được thủ tướng, không phân biệt tướng. Đó là điều kiện tiên quyết cũng là chung cùng, vì một khi có chấp thủ, có phân biệt… thì tự mình che lấp tâm trí, rồi sẽ rơi vào tham ái, sanh vọng tâm vọng ngữ làm sao thâm nhập được Bát Nhã nói chi đến việc hướng dẫn người khác.

Còn Phật giảng pháp là từ tâm chứng dù có phân biệt đi nữa cũng lìa tướng, nhưng không rời chánh niệm, không dính mắc nên không bị tướng che, đâu đâu cũng thấy lý đạo, thông hóa pháp giới, nên mới hiểu “tất cả pháp đều là pháp Phật”. Nếu có người nói pháp lìa tướng, vô phân biệt, vô trước, tâm như như bất động thì thầm hợp tâm Phật. Dĩ nhiên, sự giảng nói đó mang nhiều lợi ích, công đức không thể so lường.

 

1- Nhưng làm sao giảng thuyết cho người hiểu:“Bất thủ ư tướng, như như bất động?”

Trước hết phải nói đến người thuyết bất thủ ư tướng có nghĩa là chẳng thủ trước. Nếu có thủ tức có nắm bắt buông bỏ thì tâm còn phân biệt, tâm phân biệt là do chấp đắm (thủ tâm, chấp tướng) thì làm sao chứng tánh. Bản tánh là chỗ an nhiên tịch lặng, bất sanh bất diệt, vô động nên gọi là như như.

Chữ bất thủ có nghĩa là vô thức, vô trụ, vô trước, vô niệm, vô tâm. Kinh này từ đầu tới cuối đều nói lên y chỉ này: Độ mà không thấy độ, bố thí mà không chấp tướng, chứng đắc mà không thấy mình có chứng đắc, trang nghiêm không năng sở, đoạn thường chẳng nhiễm, đừng sanh vọng chấp bất cứ nơi nào, hành coi như vô sự, thuyết pháp 49 năm mà cho mình không nói một chữ… Còn thủ bất cứ dưới hình thức nào dù đẹp hay xấu, mê hay ngộ, thiện hay ác…, một khi có thủ giữ, cất dấu tức còn chấp là còn dính mắc phiền não. Như vậy, gọi là động niệm. Vô thủ thì vô chấp, vô chấp tâm mới được như như. Như như là không sanh không diệt, không khứ không lai, nên nói vô sở tùng lai vô sở khứ. 

Kinh Viên Giác nói: “Bao nhiêu thứ thủ xả đều là luân hồi”. Luân hồi là sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, tiếp nối như một vòng tròn không kẻ hở. Nếu có thủ tức có xả, liền có đối đãi. Có đối đãi chấp trước là có sanh diệt. Hết sanh rồi diệt, hết diệt rồi sanh, cứ thế tiếp nối nên gọi là luân hồi như đã nói trên. Nếu bất thủ, lìa chấp tức hết sanh diệt thì liền thấy cái bất sanh diệt hiện tiền, nên nói bất thủ ư tướng như như bất động. Như như bất động tức chơn như thật tướng. Vì chơn như thật tướng chỉ thể tính bất động, thường hằng, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Tri kiến được Chơn như tức là Giác ngộ, vượt ra ngoài thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể giữa khách và chủ. Chơn như đồng nghĩa với tự Tánh Thanh Tịnh Tâm, Phật Tính, Pháp Thân, Như Lai Tạng, Thực Tướng, Pháp Giới, Pháp Tánh… Nếu chứng được chơn như, nhập được pháp giới thì kể như một đời tu hành đều xong hết.

 

2- Tới đây Phật nói bài kệ:

 

Tất cả pháp hữu vi,

Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

Như sương cũng như điện,

Nên khởi quán như thế.

 

Tất cả pháp hữu vi đều có hình tướng, thấy được, sờ mó được như nhà cửa, xe cộ, kể cả sơn hà đại địa… Cái gì do con người làm ra, Phật bảo đều là hư dối không thật giống như mộng huyễn, bọt bóng, như sương, như điện… có đó rồi mất đó. Nếu quán như vậy thì không còn chấp thủ, tâm mới được thanh tịnh. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Trong thế gian, những vật gì làm ra, đều phải hoại diệt”. Tất cả pháp thế gian không thoát khỏi định luật vô thường: Sinh, trụ, dị, diệt. Biết như vậy thì đừng tham ái mà khổ lụy thân tâm.

Đừng chấp các pháp hữu vi là thật, bền vững tồn tại với thời gian, chúng chỉ là bèo bọt nổi trôi như sương như điện chớp… Đây là diệu quán, phải quán sâu, tương tục mới dứt khổ mà được vui!

 

3- Không có pháp hữu vi thì làm sao có pháp vô vi?

Hữu vi pháp chẳng phải chỉ là thế gian pháp thôi, mà tất cả Phật pháp cũng là hữu vi pháp, nên nói là nhất thiết. Kinh Viên Giác nói: “Các thế giới của chư Phật nhiều như cát sông Hằng, đều ở trong tánh Viên giác này. Cũng như hoa đốm trong hư không, mặc tình lăng xăng khởi lên và lăng xăng diệt mất. Nó không phải “tức” tánh Viên giác mà cũng không phải “ly” tánh Viên giác, không phải triền phược và giải thoát, bởi thế nên biết sanh tử và Niết bàn như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn thành Phật từ lâu”.

“Phải biết sanh tử và Niết bàn đều như giấc mộng hôm qua, cho nên không có sanh diệt cũng không khứ lai. Ở quả vị sở chứng, không có “được” hay “mất”, “thủ” hay “xả”. Ở nơi kẻ năng chứng cũng không có “tác”(tạo tác) hay “chỉ”(đình chỉ), “Nhậm”(sanh) hay “diệt”. Trong Viên giác (chân như) tất cả pháp bình đẳng, không có hoại diệt. Rốt ráo không có người chứng và quả sở chứng”.

 

Đã là giấc mộng hôm qua thì sanh tử, Niết bàn đâu có sanh có diệt, đâu có đến có đi. Nó chỉ là giấc mộng không hơn không kém! Hiểu như vậy thì sanh tử, Niết bàn có nghĩa lý gì. Chỗ chứng ấy (chơn như) cũng không được không mất, không thủ không xả, không tác không chỉ, không nhậm không diệt, không năng sở, không có người chứng và quả vị để chứng. Bởi thể nhập chơn như rồi thì sống trong đệ nhất nghĩa thì không còn phân biệt, không còn năng sở nên gọi là bình đẳng chẳng hoại.

Có được là có mất, có thủ là có xả, có năng là có sở… liền có đối đãi. Có đối đãi nên hiện tướng (tướng tức pháp hữu vi), liền có sanh diệt, nên đều là mộng, là huyễn… Thế muốn chứng vô vi thì phải bắt đầu từ hữu vi mà hạ thủ. Hữu vi là hư vọng, nhưng phải nhận biết hư vọng mà lìa. Lìa vọng tức chân. Vì vậy, Tổ dạy: “Hữu vi tuy ngụy, xã chi tắt Phật đạo năng thành” (các pháp hữu vi tuy biết là vọng nhưng nếu bỏ không tu thì không thành Phật đạo). Cách tu cũng như lọc nước: Bỏ phèn vào nước đục, quấy lên, xong để cặn cáu lắng xuống, gạn lấy nước sạch ở trên, đổ nước dơ đi thì được nước sạch. Nước dơ có cặn ví như hữu vi pháp, nước trong tinh khiết như vô vi pháp. Nhưng còn nói đục nói trong, nói nhiễm tịnh, nói hữu vi vô vi… là còn nằm trong nhị nguyên đối đãi. Đục trong, nhiễm tịnh đều bỏ thì mới được như như bất động. Phải vượt qua đối đãi. Đó là chỗ rốt ráo nhất mà Phật thuyết sau cùng để kết luận cho kinh này.

Cư sĩ Giang vị Nông nói: “Cho nên, chỗ khai Kinh này nói “thực vô chúng sanh đắc diệt độ” phải từ độ hết chúng sanh mà ra; “ở pháp chẳng trụ” phải từ hành ư bố thí mà ra. Các đoạn sau, chỉ thú cũng đều như thế: Độ chúng sanh, hành ư bố thí là hành hữu vi pháp, tức hành hữu mà chẳng trụ hữu, quán cái không mà chẳng trụ không. Tuy trọn ngày hành Lục độ vạn hạnh, trọn ngày giảng Kinh thuyết pháp mà thực trọn ngày Niết bàn. Đây có thể biết bất thủ pháp phải từ bất thủ phi pháp mà làm, tức phi phải từ thị danh mà làm, chẳng chấp trước phải từ chỗ chẳng đoạn diệt mà làm ra, vô thực phải từ vô hư mà làm ra, không Thánh không phàm tức từ trong có Thánh có phàm mà thấy, bất nhất bất dị phải từ trong nhất dị mà thấy, bất lai bất khứ phải từ trong lai khứ mà thấy. Đó gọi là chư pháp nhất như, thị pháp bình đẳng, cho đến bất sanh bất diệt mà thị hiện sanh diệt. Đây gọi là chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết bàn, tôn chỉ vô trụ ở đây cứu cánh viên mãn vậy. Điểm then chốt là phải quán chiếu duyên sanh như huyễn như mộng, để hiểu rõ nó là không, cho nên chẳng trụ.

Người học phương tiện cần yếu là phải quán như thế. Quán như thế tức chẳng bỏ hữu vi, chẳng ngại vô vi, tự nhiên nhi nhiên già chiếu đồng thời, vừa hay vừa hợp với như như bất động, viên giác tánh hải”. Đó là chỗ thậm thâm cần hạ thủ!

Đã biết các tướng là hư vọng, là huyễn, là mộng, là bọt bóng… thì tâm không còn giong ruổi, tầm cầu… tới đó là thanh tịnh. Tâm là chánh báo đã thanh tịnh thì trần cảnh là y báo cũng thanh tịnh, nên Kinh Viên giác nói:

“Vì một thế giới thanh tịnh, nên nhiều thế giới cũng thanh tịnh. Vì nhiều thế giới thanh tịnh nên 10 phương hư không (nói về không gian) trùm khắp ba đời (nói về thời gian) tất cả đều thanh tịnh, bình đẳng không động”.

Hư không đã bình đẳng không động, vì bốn đại(thân)bình đẳng không động, nên rõ biết Tánh viên giác(tâm )bình đẳng không động”.

(…)”Vì tánh Viên giác(Chân tâm)thanh tịnh không động, viên mãn trùm khắp tất cả, không có bờ bến, nên biết sáu căn, sáu trần, bốn đại cho đến các pháp môn Đà là ni cũng thanh tịnh và viên mãn khắp giáp cả pháp giới”.

“Vì tánh Viên giác kia mầu nhiệm viên mãn không hoại, nên bản thể của căn, bản thể của trần, không có một pháp nào hoại diệt lộn lạo, cho đến các pháp môn Đà la ni, cũng không có hoại diệt và lộn lạo…”

 

Hiện tượng từ bản thể sanh mà hiện tượng bình đẳng không động, cố nhiên bản thể cũng bình đẳng không động. Đó chính là như như bất động của Bát Nhã. Đã như như thì không nói thật giả, mê ngộ… tức lìa nhị nguyên đối đãi. Đó là lý sự vô ngại và sự sự vô ngại pháp giới của Hoa Nghiêm. Kinh Pháp Hoa chép “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (pháp nào pháp nào an trụ địa vị pháp đó, thế gian tướng là thường trụ tướng). Kinh Lăng Nghiêm nói “Tứ đại châu biến, không có hoại diệt và tạp loạn lẫn  nhau”. Cổ nhân lại nói “Trần trần là báu, chỗ chỗ gặp nó”, vạn hữu đâu đâu đều là báu, pháp nào pháp nào cũng đều hiển lộ vô trụ chơn như, vật nào vật nào cũng là Bát Nhã thật tướng.

 

4- Để hiểu rõ vạn hữu như huyễn như mộng mà Phật nêu trong câu kệ ghi trên, chúng tôi trích dẫn bài kệ sau đây của Mãn Giác Thiền sư nói lên ý nghĩa đó:

 

“Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ cây hoa lá Xuân qua rụng rời

Sá chi suy thịnh cuộc đời

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành”.

 

Thân này cũng như thân của những người thân yêu nhất…cũng là hữu vi pháp, hư ngụy vô thường, như bóng câu qua cửa sổ, như điện chớp, có rồi không. Như lúc còn trẻ giống như mùa Xuân cỏ cây tươi tốt, lúc già thì úa tàn như lá Thu. Hiện tượng vô thường xảy ra bất lúc nào, bất cứ ở đâu, chẳng có gì bền vững với thời gian. Biết như vậy nên dù thịnh dù suy cũng không có gì sợ hãi. Nó cũng giống như hạt sương sớm đọng trên đầu ngọn cỏ, có tụ có tán, thấy đó rồi mất đó.

Thấy rõ như vậy, biết rõ như vậy, thì bất cứ trong trạng huống nào kể cả trước cái chết cũng không có gì phải run sợ. Đó mới thấu rõ nghĩa của “chẳng thủ nơi tướng, như như bất động”. Đấy gọi là thể nhập. Thấy như vậy, biết như vậy và sống như vậy mới được như như. Phải luôn luôn quán như thế!

Nếu quán được như thế thì Kinh ĐBN, phần “Mạn Thù Thất Lợi”, thuộc quyển 574 nói là sẽ được trí Vô đẳng đẳng hay trí Vô đối đối. Tới đây, Phật hỏi Mạn Thù Thất lợi:

- “Diệu trí như vậy không thể động ư?

Mạn Thù Thất Lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Diệu trí như vậy không thể động. Như thợ vàng đốt luyện thỏi vàng cho được tinh ròng, đúng lượng rồi thì không động đến nữa. Trí này cũng vậy, tu tập thành thục, không tạo tác, không chứng đắc, không sanh ra, không kết thúc, không khởi lên, không chìm, vững yên chẳng động”.

 

Pháp  như bất động là cái tướng bên ngoài, còn tâm bất động là diệu trí bên trong. Thể nhập trong ngoài như thế thì gọi là Như Lai không khác. Cảnh như do tâm như. Trong như ngoài như nên nói là như như bất động. Tâm như như bất động thì thấy đâu đâu cũng đều bình đẳng hết, nên cũng nói là thanh tịnh. Vì vậy, giáo lý không, như như, bình đẳng, thanh tịnh này được gọi chung là “Bát Nhã Lý Thú” phần. Bởi vì nó là thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn, trí ấn, trí tạng của chư Như Lai mà chúng ta sẽ trì tụng ở Hội thứ X kế tiếp.

 

---o0o---

 

Phần truyền bá lưu thông.

 

“Khi đức Bạc già phạm Thế Tôn thuyết Kinh này rồi, Tôn giả Thiện Hiện và các Bí sô, Bí sô ni, cận sự nam, cận sự nữ và các thế gian trời, người, A tua la, Kiện đạt phược… đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành”.

 

Khi Phật nói Kinh “Kim Cương Năng Đoạn” xong, Trưởng lão Thiện Hiện, các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam tín nữ và các thế gian trời người, A tu la, Kiện đạt phược… đều tín thọ, hoan hỷ vâng làm!

 

---o0o---

 

 

Đến đây chấm dứt phần chín,

(Hội thứ IX).

 

Chưa có quyển kinh nào trong 600 quyển thuộc ĐBN được chiết giải cẩn thận như quyển 577, tức kinh “Kim Cương Năng Đoạn” trong Hội thứ IX này. Chúng tôi luận giải trên 150 trang giấy. Nếu toàn bộ ĐBN luận giải cũng như vậy, thì thiên Tổng luận này kéo dài đến 90.000 trang, có lẽ không ai có cam đảm đọc tụng hết.

Luận giải như vậy, là quá dài! Chúng tôi nghĩ chỉ cần nắm được đầu mối là có thể phăn ra tất cả, không cần phải giải thích rùm rà phức tạp. Kinh viết ngắn, ý lại sâu nên phải giải thích nhiều. Trong các Hội khác chúng tôi chỉ luận giải đại cương, Quý vị phải tư duy quán chiếu để tự xây dựng trí tuệ cho chính mình. Đó là chủ đích của Kinh cũng như của tác giả.

Kinh này có lối diễn tả kỳ đặc: “Như Lai nói các tướng đầy đủ, tức chẳng phải các tướng đầy đủ”, lối thuyết pháp này có vẻ “không bình thường”: “Công đức trang nghiêm cõi Phật ấy, Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm, cho nên Như Lai nói là công đức trang nghiêm”. “Như Lai nói chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cho nên Như Lai gọi là Bát nhã Ba la mật” v.v... và v.v...

Đây không phải là lối nói “phủ định vô địch” của Tâm Kinh mà các nhà chú giải thường ca tụng. Đây cũng không phải là lối nói “nghịch đảo táo bạo” để dựng dậy cái tâm ngái ngủ ngàn đời của người học đạo. Đây là lối nói: “Nói đó rồi phủi đó, phủi hết, phủi sạch, xả bỏ tất cả, không để tâm nắm bắt cất giữ bất cứ thứ gì”. Đoạn hay khiển là còn động niệm mặc dù là cần thiết trong việc tu hành, nhưng nói phủi hay xả có nghĩa là buông bỏ hay phóng xả không để bất cứ thứ gì vướng bận dù chỉ là một hạt bụi còn lưu lại nơi tâm. Vì vậy, nên nói Kinh này có lối diễn tả kỳ đặc!

Tới đây, chúng ta có thể ngâm bài kệ “Xuất Trần” của Tuệ Trung Thượng Sĩ:

 

Đã từng ham muốn phải long đong

Ném quách mà ra khỏi bụi hồng

Buông thõng bờ kia lên Phật Tổ

Một lần phủi giũ một lần xong.

 

Nên, cư sĩ Giang vị Nông nói: “Biết rõ rồi thì có không đều bỏ, không nắm không bắt thì mới thấy chư pháp nhất như, thị pháp bình đẳng, cho đến bất sanh bất diệt mà thị hiện sanh diệt. Đây gọi là chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết bàn, tôn chỉ vô trụ ở đây cứu cánh viên mãn vậy. Điểm then chốt là phải quán chiếu duyên sanh như huyễn như mộng, để hiểu rõ nó là không, cho nên chẳng trụ”.

Tất cả chư pháp nhất như, thị pháp bình đẳng; các pháp không thật, giả có đương thể tức không, như huyễn như mộng, đều do duyên sanh… Biết như vậy rồi, ngày ngày quán chiếu thực hành thì có thể đoạn trừ chấp trước nên có thể tháo gỡ tất cả hệ lụy thế gian!

 

Bây giờ, chúng ta đọc tụng tiếp Hội thứ X. Phật thuyết Hội này tại vương cung của trời Tha hóa tự tại, tên là “Nhất thiết pháp thậm thâm vi diệu Bát Nhã lý thú thanh tịnh” cho các Bồ Tát. Chính nhờ pháp môn này mà chư Phật hiện đẳng giác và Phật đoan quyết rằng chúng sanh nào thọ trì pháp môn mầu nhiệm này, sẽ dứt trừ được tất cả “phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng, dù cho chứa nhóm nhiều cũng chẳng thể nhiễm; tuy đã tạo các ác nghiệp cực trọng nhưng cũng dễ tiêu trừ, chẳng đọa ác thú”.

Đó là phần “Bát Nhã Lý Thú” của pháp hội thứ X tiếp theo. Mong rằng pháp hội này thật sự mang lại nhiều lý thú cho độc giả như Kinh giới thiệu! Tuy nhiên, muốn xóa bỏ tất cả phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng cực kỳ nghiêm trọng trong đời và không bị đọa vào ác thú trong nhiều kiếp thì phải thọ trì cẩn thận pháp hội này. Tất cả các giáo pháp ở đây rất cô động, khó hiểu nhất so với các pháp hội khác.

 

Đến đây chấm dứt Hội thứ IX, ĐBN.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567