HTThích Thanh Từ
TẬP 3
PhủLâm An
Sư họ Bành, quê ở trấn Kim Lưu My Sơn. Năm 13 tuổi, Sư theotăng Tông Biện viện Dược Sư xuất gia. Sau đó đến Thànhđô học kinh luận. Sư lại trở về Nga My tại chùa Vân Nham,là nơi Thiền sư Trưng trụ trì. Thiền sư Trưng là cháu đờithứ tư của Thiền sư Huệ Nam Hoàng Long, tri kiến khá cao.Sư mới vào cửa gặp Trưng thọ trai xong đi dạo hành langchùa. Vừa gặp, Sư liền để túi vải xuống hỏi: - Văn-thùlà thầy bảy đức Phật, chưa biết người nào là thầy Văn-thù?
Trưng đáp: - Cát vàng bờ khe Mã Lang về.
Khi ấy có Thiết Phất Khởi làm Thủ tọa, Sư cũng đến thâncận. Khởi thường nhắc nhở Sư, trải qua hai năm mà khôngsở đắc. Một hôm, Sư tĩnh tọa có một vị Tăng đi mộtmình tự nói: - Mượn tứ đại để che đậy, duyên sáu trầnmà sanh tâm, chợt gặp sáu trần liền dứt, gọi cái gì làtâm? Sư nghe bỗng dưng có tỉnh. Sư đứng dậy trình vớiThủ tọa, Thủ tọa nhận đó, đến phương trượng trìnhvới Trưng, Trưng cũng nhận đó. Ngày sau liền từ giã đi,đồng học giữ lại. Sư không chịu nói: - Thầy tôi cho làđược, mà tôi trọn chưa hài lòng.
*
Bấy giờ Viên Ngộ từ Vân Cư trở về Thục trụ ở ChiêuGiác, Sư liền đến đó. Mỗi khi hỏi thoại ý chỉ rất caovót, Viên Ngộ thầm nhận. Một hôm Viên Ngộ phổ thuyếtnhắc Bàng Cư sĩ hỏi Mã Tổ: - Chẳng cùng muôn pháp làm bạnlà người gì? Mã Tổ bảo: - Đợi ông hớp một ngụm cạnnước Tây Giang liền nói với ông.
Sư nghe nói bỗng nhiên đại ngộ, ngã tại trong chúng, chúngcho là trúng gió cùng dìu dậy. Sư nói: - Tôi mộng hay thức?
Đến tối Viên Ngộ tiểu tham, Sư ra hỏi: - Sạch trọi trơnrỗng không một vật, thân trần nghèo tột không một tiền,cửa nát nhà tan xin Thầy cứu giúp?
Viên Ngộ đáp: - Bảy trân tám bảo một lúc lấy.
Sư thưa: - Làm sao cướp chẳng vào nhà cẩn thận?
Viên Ngộ đáp: - Cơ chẳng rời vị rơi trong biển độc.
Sư theo tiếng liền hét. Viên Ngộ lấy cây gậy gõ giườngthiền nói: - Ăn được gậy hay chưa?
Sư lại hét. Viên Ngộ hét liên tiếp hai tiếng. Sư lễ bái.Viên Ngộ rất vui làm kệ tặng Sư. Có cựu Thiết Thiệt cólời tháo chốt cửa, chúng gọi Sư là Thiết Thiệt Viễn.Từ đây cơ phong cao vót không ai chống lại.
*
Mùa xuân năm Ất Mão hiệu Thiệu Hưng, Huyện thú My Sơn mờiSư trụ núi Tượng Nhỉ, Sư chẳng nhận. Năm ấy Viên Ngộthị tịch, Sư than: Triết nhân đã mất nối đó là ai? Sưđóng một chiếc thuyền nhỏ xuống núi. Ban đầu đến HoàiNam, Sư trụ ở Long Bàng tám năm, kế dạo Lang Nha lại sangPhổ Tế, Định Nghiệp. Từ Sư phát minh tâm yếu liền đượcdu hí, như gió đại tự tại tam-muội.
*
Sư khai pháp đăng tòa nói: Trời không cửa đất không vách,trên gác hồ lô trồng đông qua, hai tay kéo cày nước đếngối, nhảy chuồn vàng nuốt dạ gai lật, vỗ bản thổi sáokhông lỗ, thua! Thua! Sơn tiêu một chân giỏi nhảy đôi, nămrồi mùa đông không than đốt, năm nay định là không lửahơ, khi đói đói đến tròng mắt vàng, khi nghèo nghèo đếnthân trần đứng, thua! Thua! Hãy nói thua cái gì? Tại sao Giámtự, Phó tự, Duy-na, Điển-tọa, Trực-tuế? lại cùng thợbùn nước thương lượng, thả ra chim cú hai đầu, nhai nátxương sống Phật điện.
*
Sư thượng đường nhắc: "Hòa thượng Chơn Tịnh dạy chúng:Trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật cùng ta đồng thể,đầu gót chân đuôi gót chân ngang ba dọc bốn, Bắc Câu-lôChâu nổi lửa đốt lông mày Đế Thích, Đông Hải Long vươngkhông thể nhịn được, sấm vang một tiếng ầm ầm, liềnđược hồ nghiêng núi ngã mây đầy không dài, chữ thậpđầu đường con nhà họ Liêu họ Hồ, trong lúc ngủ mê trỗidậy vỗ tay cười hả! Hả! Nói: Trong thành Quân Dương gầnđây ít cướp. Hòa thượng cầm cây gậy nói: Cướp! Cướp!"Sư nhắc xong nói: Phải thì một trường bán buôn chẳng ít,nào ngờ lỗ mũi tròng mắt mỗi người còn có chủ. Cớ sao?Trong gò sắn bìm lấy trộm chưa phải kẻ cướp ban ngày,trước cửa quán rượu bỏ sót chẳng phải chánh cướp. Khiấy ở đông lang đường có tiếng chó sủa, Sư liền gọicư sĩ xem: Trước cửa có quan khách nào. Đại chúng đềuxoay đầu nhìn. Sư bảo: Cần thấy chánh cướp chăng? Sư bènhuýt sáo một tiếng, chao tay xuống tòa.
*
Khi ấy Đại Huệ ở Mai Châu có người truyền kệ tụng vàđề xướng của Sư đến, Đại Huệ ngạc nhiên nói: Lãosư về già có đứa con như thế ư? Nhân đây Đại Huệ biênthơ thông tin và gởi tặng pháp y của Viên Ngộ. Sư làm tụngnghênh đón, hai vị gặp nhau rất vui. Đại Huệ hết lờikhen ngợi, lại đề ảnh Sư: Cái võ Xuyên này không chân khônggiả, một cây gậy trắng Phật đến cũng đánh, lại có mộtchỗ rất hay, giỏi nhằm trên bát bồn chạy ngựa.
Kế Sư dời trụ Quang Hiếu trải mười năm. An định quânvương Triệu Biểu Chi cùng Sư làm bạn ngoài đời. Thị lang Tăng Khai theo Sư thưa hỏi. Tăng tuy là sĩ đại phu mà đãbảo tham nơi chư kỳ lão, theo Đại Huệ dạo đi rất lâumà chưa thâm giải thoát, đến gặp Sư mới dứt các nghi.
*
Sau Sư dời đến Nam Nhạc trụ ở Nam Đài. Khi đó Thiền sưLiêu ở Long Vương, Thiền sư Phương ở Quãng Hạnh đều làcao đệ của Nguyệt Am, đạo đức nổi tiếng ở Hồ, Tương.Hai vị nói với nhau: Khoảng này vách đứng ngàn nhẫn, Viễnchỗ nào tá túc ư? Nhân thỉnh Sư đang tòa, lập hơn ba mươicâu hỏi đều là hóc búa nguy hiểm, chỗ học giả khó đến.Sư tùy cơ giải đáp lời lẽ thâm áo nghĩa luận siêu việt,mọi người rất thán phục. Liêu dẫn đồ chúng đảnh lễnói: Gối này chẳng cúi nơi người đã lâu.
*
Sư lại sang Thiên Thai trải trụ trì ba chùa Hộ Quốc, QuốcThanh, Hồng Phước. Khoảng niên hiệu Càn Đạo (1165-1174) Thượngthơ Trần Đức Hòa trấn thú Bình Giang do đại đạo tràngHổ Khưu gần đây không có người, tận tâm mời Sư trụtrì. Sư đến đây hết lòng mở mang đạo pháp. Sư lại vângchiếu trụ chùa Sùng Tiên ở núi Cao Đình. Chưa bao lâu, Sưthối viện đến trụ am Nghinh Chiếu. Sư lại vâng chiếu trụLinh Ẩn. Ngày khai đường có Trung sứ niêm hương chúc Thánhxong. Sư niêm hương rằng: - Một cây hương này trời đấtkhông thể che đậy, mắt Phật không thể xem lường, đưalên diệt chủng tộc Ấn Độ, nắm lại mờ mịt giết người,lụy ta ba mươi năm, trong cỏ hoang nằm ngang, đến khiến mộtđời làm kẻ chẳng nghẹn ngào, tựu trung có chút sai lầm,đối chúng cũng phải nói phá. Sơn tăng hai mươi năm trước,bị gió nghiệp thổi đến dưới núi Dân Nga trong rừng gaigóc, chạm đến chiếc chùy không lỗ, bị kia một đập nửasay nửa tỉnh, sẽ bảo câm miệng một đời không thể mở.Hai mươi năm sau, lại bị gió nghiệp thổi đến rửa giặtở đầu Cẩm Giang, trong gò sắn bìm gặp được cái đuôiđỏ trăng trắng, khi ấy chính bị cắn một cái, liền khôngtán đảm vong hồn, mở được miệng đến nay thọ dụng chẳnghết. Hãy nói, hương này vì thiện tri thức hai mươi năm trướclà phải, vì thiện tri thức hai mươi năm sau là phải? Mộtcon hạc chẳng đậu hai cây, một người khách chẳng phiềnhai nhà. Đâu chẳng thấy nói: Trước đi chẳng đến, rốtsau vượt xa. Ngày nay thân cướp đã bày tang vật hiện tại.Phụng vì Thành đô phủ Chiêu Giác tiên Viên Ngộ Thiền sưĐại Hòa thượng. Chẳng trọng Thầy đối ngự bàn không,hoành hành hải thượng, chỉ trọng Thầy trong ngực khôngvật trong bụng không thiền, khói nhằm trong lò dùng đềupháp nhũ.
*
Khi ấy, vua Hiếu Tông để tâm về Thiền học, nhiều phenmời Sư vào triều, ban hiệu là Phật Hải Thiền sư. Vua làmbài tụng tặng Sư:
Bát bồn chạy ngựa đến thiên đình,
Quen đạp ven trời ngựa chẳng sợ,
Xoay đầu bay lại núi cao vót,
Mây trắng bao trùm đế đô xuân.
Một hôm đánh trống đăng tòa xong, Sư vẫn ngồi trong màn.Thị giả tìm Sư chẳng thấy. Sư vạch màn ra nói: - Chỉ ởtrong này vì sao chẳng thấy?
Thị giả không đáp được. Sư đáp thay: - Búa lớn bửa bacửa.
Có vị Tăng Nhật Bản tên Giác A, thông Thiên Thai giáo vàcác sách, hay nói các thứ tiếng. Ban đầu đến yết kiếnSư tỏ ra rất lanh lợi, Sư đem Thiền tông chỉ dạy. Giácở ba năm liền đốn ngộ làm tụng đầu cơ trình Sư. Nhânđây có phái thiền truyền sang Nhật Bản.
Niên hiệu Thuần Hy thứ hai (1175) năm nhuần sáng tháng chín,Sư thượng đường nói kệ:
Thuần Hy thứ hai nhuần,
Cuối thu sáng tháng chín,
Chỗ ồn chớ xuất đầu,
Đất lạnh để mắt thấy
Tối sáng chẳng tương can,
Kia đây phân một nửa,
Một thứ làm người quí,
Bảo ai bán củi than.
Nói với ông, không thể chê không thể khen, thể dường hưkhông chẳng bờ mé, gọi nhau kêu nhau về lại đi, năm tớiđịnh là tháng giêng nữa.