HTThích Thanh Từ
TẬP 2
Sưhọ Thôi quê ở Nghi Thủy Nghi Châu, tánh tình cứng cỏi cangtrực, tự lúc thiếu thời đã học đạo nhịn cơm, vào ẩntrong núi Y Dương. Sau, Sư dạo kinh đô nương nơi chùa ThuậtĐài và ở đây học tập kinh điển, thọ giới cụ túc.
*
Đidu phương, Sư đến yết kiến Thiền sư Nghĩa Thanh ở chùaHoa Nghiêm núi Đầu Tử.
Sưhỏi:
- Ngôngiáo của Phật Tổ như việc cơm nước thường ngày trongnhà, lìa rời việc này riêng có chỗ vì người hay chăng?
ĐầuTử đáp:
- Ngươinói sắc lệnh của Thiên tử trong cõi này, lại nhờ vua Võ,vua Thang, Nghiêu, Thuấn hay chăng?
Sưsuy nghĩ để đáp lại. Đầu Tử lấy phất tử bịt miệngSư, nói:
- Ngươiphát ý ra đã đáng ăn ba mươi gậy rồi.
Ngaycâu nói này, Sư tỉnh ngộ, đảnh lễ, liền ra đi. Đầu Tửgọi: Xà-lê hãy lại đây. Sư chẳng ngó lại. Đầu Tử nói:Ngươi đến chỗ chẳng nghi chăng? Sư liền bịt tai.
*
Sau,Sư coi việc nhà trù. Đầu Tử hỏi: Việc trong nhà trù khôngphải là dễ. Sư thưa: Chả dám. Đầu Tử hỏi: Ngươi thổicơm ư? Nấu cháo ư? Sư thưa: Nhân công đãi gạo nhúm lửa,trị nhật nấu cháo thổi cơm. Đầu Tử hỏi: Còn ngươi làmgì? Sư thưa: Nhờ ơn Hòa thượng từ bi cho con rảnh rang.
*
Mộthôm, Sư theo hầu Đầu Tử đi dạo vườn trà. Đầu Tử traocây gậy cho Sư, Sư nhận lấy liền đi theo sau Đầu Tử. ĐầuTử bảo: Lý nên thế ấy. Sư thưa: Cùng Hòa thượng xáchgiày cầm gậy, cũng chẳng phải việc phần ngoài. Đầu Tửbảo: Vẫn có người đồng hành. Sư thưa: Đây là một ngườikhông nhận dạy. Đầu Tử thôi hỏi.
Đếnchiều, Đầu Tử bảo: Sớm mai nói thoại chưa hết. Sư thưa:Thỉnh Hòa thượng nói tiếp. Đầu Tử nói: Mẹo sanh nhật,tuất sanh nguyệt. Sư liền đốt đèn đem đến, Đầu Tửnói: Ngươi đi lên đi xuống đều không luống công. Sư thưa:Ở bên cạnh Hòa thượng lý phải như thế. Đầu Tử nói:Kẻ tôi đòi trong nhà nào mà không có. Sư thưa: Hòa thượngtuổi cao thiếu nó không được. Đầu Tử hỏi: Ân cần cáigì? Sư thưa: Có phần đền ân.
*
Niênhiệu Nguyên Phong năm thứ năm (1082), Sư trở về Nghi Châuở núi Mã An bắt đầu truyền bá đạo pháp. Ban đầu, Sưở Tiên Động, sau dời đến chùa Long Môn. Sư lại sang trụnúi Đại Dương thuộc Dĩnh Châu và Đại Hồng ở Tùy Châu,đều do sự cung thỉnh của mọi người. Tông Tào Động đượcthạnh hành miền Tây Bắc.
*
Niênhiệu Sùng Ninh năm thứ ba (1104) có chiếu mời Sư trụ tạiThiền viện Thập Phương Tịnh Nhơn ở Đông Kinh. Đến niênhiệu Đại Quan năm đầu (1107), vua sai Trung sứ áp đặt Sưtrụ trì ở Thiên Ninh không được từ chối.
LýHiếu Thọ làm sớ tâu lên vua Tống Huy Tông đại lược rằng: "Đạo Giai đức hạnh vượt cả tùng lâm, đáng được khenthưởng..." Vua liền ban tử y tăng-già-lê và hiệu Định ChiếuThiền sư.
Sưthắp hương tạ ơn xong, lại dâng biểu rằng:
?Cúimong thánh thượng từ ân chú tâm làm sáng rỡ điều lành,nêu cao đức tốt. Ban cho thần Định Chiếu Thiền sư và mộtlá tử y. Thần cảm đội ân sâu, rồi liền đó thắp hươnglên tòa chúc nguyện thánh thọ.
MongBệ hạ nghĩ đến hạnh nghiệp thô sơ, đạo lực kém mỏngcủa thần, thường phát nguyện chẳng thọ danh lợi, cố giữý này đã được nhiều năm. Như thế, ngõ hầu truyền đạođời sau khiến người chuyên ý vào Phật pháp. Nay tuy nhờđặc ân của Bệ hạ, nếu toại tánh hèn thì tự trái vớilời nguyện lành của thần, lấy gì để dạy người. Đâudám ngửa khen Bệ hạ để có ý sai thần trụ trì. Nhữngy vật Bệ hạ ban cho thần không dám thọ nhận.
Cúimong thánh thượng từ ân xét thấu nỗi lòng của thần, khôngdám dùng lời trau chuốt, đặc biệt ban cho theo lòng thànhthật của thần, thần nguyện suốt đời hành đạo để đềnđáp thiên ân.?
VuaTống Huy Tông xem xong, giao cho Lý Hiếu Thọ đích thân đi đếnkhuyên đừng trái ý tốt của triều đình.
LýHiếu Thọ đến khuyên dụ lắm lời, Sư vẫn quyết địnhtừ chối. Lý Hiếu Thọ tâu hết lên nhà vua. Nhà vua nổigiận ra lệnh bắt giao cho quan Hữu ty (tra khảo).
QuanHữu ty biết Sư trung thành mà trái ý vua nên hỏi: Trưỡnglão thân gầy ốm vậy có bệnh chăng? Sư đáp: Bình nhậtcũng có bệnh, hiện nay thì không bệnh. Hữu-ty lại nói: Nếunói có bệnh thì đối với pháp luật khỏi hình phạt. Sưbảo: Đâu dám dối trá nói bệnh để mong khỏi tội ư! Hữuty ngậm ngùi! Sư điềm nhiên thọ hình phạt. Sau đó, Sư bịđày mặc áo kẻ phục dịch ra ở Tri Châu. Kẻ tăng ngườitục trông thấy Sư đều rơi nước mắt! Riêng Sư khí sắcvẫn nhàn hạ.
*
ĐếnTri Châu, Sư thuê nhà ở. Những học giả nghe tiếng tìm đếngần gũi. Mùa Đông năm sau, nhà vua ban sắc phóng thích.
Sưtự tiện cất am nơi hồ Phù Dung, có mấy trăm Tăng chúngvây quanh hằng ngày. Ở đây mỗi ngày chỉ ăn một chén cháo,những người chịu không nổi từ từ đi bớt. Số Tăng cònthường trực không dưới một trăm.
Sưdạy chúng:
- Phàmngười xuất gia vì chán trần lao cầu thoát sanh tử, thôitâm dứt niệm cắt vin theo, gặp thanh gặp sắc như hoa trồngtrên đá, thấy lợi thấy danh như bụi rớt trong con mắt.Vì từ vô thủy đến giờ, những cái ấy đâu phải chẳngtừng trải qua, cần gì lại nhọc nhằn tham luyến? Hiện naychẳng dứt còn đợi chừng nào? Thời nay dứt sạch lại cònviệc gì? Nếu được trong tâm vô sự, thì Phật Tổ vẫnlà oan gia, tất cả thế sự tự nhiên lạnh nhạt, mới làphù hợp bên này.
Cácngươi đâu chẳng thấy, Ẩn Sơn đến chết chẳng chịu tiếpngười. Triệu Châu đến chết chẳng biên thơ cho đàn việt,thà lượm trái giẻ trái lật mà ăn. Đại Mai lấy lá senlàm áo. Chỉ Y Đạo Giả mặc y phục bằng giấy. Thượngtọa Huyền Thái chỉ mặc bằng bố. Thạch Sương nơi nhàCây khô (chúng tọa thiền yên lặng như cây khô) cùng ngườingồi nằm, chỉ cần chết hẳn tâm của các ngươi. ĐầuTử sai người nấu cơm lẫn khoai rồi đồng ăn, cốt đượctỉnh việc của các ngươi.
Cácbậc thánh từ trước có những gương cao đẹp như thế, nếukhông có chỗ đặc biệt làm sao chịu nổi.
Chưnhân giả! Nếu hay nơi đây thể cứu thì chẳng thiếu thốnđiều gì, bằng chẳng chịu thừa đương về sau e phải phínhiều khí lực.
*
Sưdạy chúng:
- Ngàynay Sơn tăng đối với các vị nói về gia môn đã là chẳngtiện. Đâu thể lại đăng đường, nhập thất, niêm chùy,dựng phất, nhướng mày, chớp mắt, đông gậy, tây hét intuồng bệnh động kinh phát hiện. Đâu chẳng thấy Tổ Đạt-masang ngồi xây mặt vào vách chín năm dưới núi Thiếu Thất.Nhị Tổ đến đứng ngoài tuyết đến chặt cánh tay, có thểnói chịu tột sự gian khổ. Nhưng Tổ Đạt-ma chưa từng nóimột lời. Nhị Tổ chưa từng hỏi một câu. Thế là, nóiTổ Đạt-ma chẳng vì người được chăng? Nhị Tổ chẳngcầu thầy được chăng?
*
Sưcó làm năm bài kệ, thuật môn phong của mình.
Bàithứ nhất tên: Nói khéo không chạm lưỡi
Sát sát trần trần xứ xứ đàm
Bất tham thiền xứ Thiện Tài tham
Không sanh đã giải thông tiêu tức
Hoa vũ nham tiền điểu bất hàm.
Bàithứ hai: Rắn chết sợ trong bụi chui ra
Nhật chích phong suy thảo lý mai
Xúc tha độc khí hựu hoàn oai
Ảm địa nhược giao khai tử khẩu
Trường An y cựu tuyệt nhân lai.
Bàithứ ba: Giỏi châm xương khô ngâm
Tử trung hoạt đắc thị phi thường
Minh dụng tha gia biệt hữu trường
Bán dạ độc lâu ngâm nhất khúc
Băng hà hồng diệm khước thanh lương.
Bàithứ tư: Cưa sắt và tam đài
Bất thị cung thương điều
Thùy nhân hòa nhất trường
Bá Nha hà sở thố
Thử khúc cựu lai trường.
Bàithứ năm: Xưa nay không cách hở
Nhất pháp nguyên vạn pháp không
Cá trung na hứa ngộ viên thông
Tương vị Thiếu Lâm tiêu tức đoạn
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Dịch:
Cõi cõi nơi nơi chốn chốn bàn
Thiện Tài tham lấy chỗ không tham
KhôngSanh đã hiểu rành tin tức[Không Sanh là ông Tu-bồ-đề hayThiện Hiện là người hiểu lý không bậc nhất.]
Ngọn núi mưa hoa chim lặng câm.
Gió táp nắng phơi cỏ ẩn mình
Chạm người khí độc lại sai chinh
Thẳm sâu nếu khiến khai tử khẩu
Trường An như trước bặt người sang.
Trong chết được sống việc phi thường
Phải nhận là y có sở trường
Xương sọ giữa đêm ngâm một bản
Sông băng lửa dậy lại thanh lương.
Chẳng phải đàn sáo hòa
Ai người ca một bài
Bá Nha đâu thi thố
Bản này xưa nay hay.
Một pháp nguyên không muôn pháp không
Trong đây ai nhận ngộ viên thông
Sẽ bảo Thiếu Lâm tin tức bặt
Hoa đào vẫn lại cười gió đông.
Niênhiệu Chánh Hòa năm thứ tám (1118) ngày mười bốn tháng năm,Sư đòi viết mực viết một bài kệ:
Ngô niên thất thập lục
Thế duyên kim dĩ túc
Sanh bất ái thiên đường
Tử bất phạ địa ngục
Tán thủ hoành thân tam giới ngoại
Đằng đằng nhận vận hà câu thúc.
Dịch:
Ta tuổi bảy mươi sáu
Duyên đời nay đã đủ
Sanh chẳng thích thiên đường
Chết chẳng sợ địa ngục
Buông tay đi ngang ngoài tam giới
Mặc tình vươn bổng nào buộc ràng.
Sau đó, liền tịch, Sư thọ bảy mươi sáu tuổi.