HTThích Thanh Từ
TẬP 3
Sư họ Trịnh, quê ở Văn Hương Thiểm Phủ. Họ Trịnh ởthế tục phần lớn làm công khanh. Sư sanh ra có những điềuquái lạ, mồ côi mẹ sớm, thờ dưỡng mẫu rất chí hiếumà không được thương. Dưỡng mẫu hà khắc Sư một cáchđau khổ, cha ông thương xót bảo đi du học bốn phương. Sưđến Bắc Tháp ở Phục Châu nghe kỳ túc Quảng Công thuyếtpháp, cảm động đến rơi lệ. Sư ở lại đây thờ QuảngCông làm thầy. Quảng Công cho Sư hiệu là Khắc Văn. Đếnnăm hai mươi lăm tuổi thi sở học, được xuất gia thọ giớicụ túc. Sư học kinh luận đều được thấu đáo. Sư đihọc các lớp giáo lý ở Kinh Lạc, nhân đi kinh hành tại hànhlang điện Long Môn thấy đắp tượng một vị Tỳ-kheo conmắt như ở trong định. Bỗng nhiên Sư tự mất, bảo ngườibạn rằng: Chỗ ta chất chứa như Ngô Đạo Tử vẽ ngườivật, tuy thật là khéo mà chẳng phải sống. Khi ấy, Sư bỏđi, nói: Ta sẽ sang phương Nam học đạo.
*
Niên hiệu Trị Bình năm thứ hai (1065), Sư an cư tại ĐạiQui. Ban đầu nghe vị Tăng tụng lời Vân Môn, "Tăng hỏi: Phậtpháp như trăng trong nước phải chăng, Vân Môn đáp: sóng xanhkhông đường thoát", Sư hoát nhiên có tỉnh. Khi ấy Thiềnsư Huệ Nam đang ở núi Hoàng Bá, Sư tìm đến đó, gặp ChơnGiác Duy Thắng làm Thủ tọa. Một hôm Huệ Nam nhắc lời cổđức: "niệm tán trên lầu chuông, trồng rau dưới chân giường",bảo chúng hạ ngữ. Duy Thắng nói: Cọp mạnh ngồi ngay lộ.Huệ Nam vui vẻ bèn thối viện để Duy Thắng trụ. Thiềnsư Huệ Nam về am Tích Thúy an trụ. Sư đến am ba phen mà lờinói chẳng hợp, tự nói: Lão này chỉ là Tăng tu hành khônghiểu lời nói của ta. Sư ra đi, đến Thúy Nham yết kiếnThiền sư Thuận. Thuận tri kiến rất cao mà thích nói sắnbìm, nên các nơi gọi là Thuận bà già.
Thuận hỏi Sư: - Vừa rời chỗ nào?
Sư thưa: - Hoàng Bá.
Thuận hỏi: - Am chủ được an vui chăng?
Sư thưa: - An vui.
Thuận hỏi: - Ông người xứ nào?
Sư thưa: - Quan Tây.
Thuận bảo: - Sao lời nói chẳng giống người Quan Tây?
Sư thưa: - Đi du học hồi nhỏ.
Thuận hỏi: - Làm Tăng tại đâu?
Sư thưa: - Xuất gia với Hòa thượng Quảng tại Bắc Tháp.Hòa thượng Quảng cùng Hòa thượng Tú đồng tham Song TuyềnÚc.
Thuận cười nói: - Thiền sư Khoảnh cùng Nột Tổ Ấn thamvấn hai vị đại lão này mà không hiểu ngữ thoại kia.Đến tôi hiện nay tham được chút ít thiền cần thấy haivị mà đã thiên hóa. Thuận lại hỏi: Tân trụ trì HoàngLong thế nào?
Sư thưa: - Khỏe mạnh.
Thuận nói: - Y chỉ hạ được một chuyển ngữ hay liền trụHoàng Long, về thiền còn chưa mộng thấy.
Sư nhân đây đại ngộ tông chỉ Lâm Tế, liền thấy chỗdùng của Huệ Nam, Sư bèn làm mấy bài tụng gởi về. HuệNam đọc qua rất tán thưởng. Sư trở về tham lễ.
Huệ Nam hỏi: - Từ chỗ nào lại?
Sư thưa: - Thúy Nham.
Huệ Nam bảo: - Vừa gặp Lão tăng không ở nhà.
Sư hỏi: - Chưa biết đi đâu?
Huệ Nam nói: - Phổ thỉnh ở Thiên Thai, vân du tại Nam Nhạc.
Sư thưa: - Nếu vậy học nhân cũng được đi tự tại.
Huệ Nam hỏi: - Giầy mang dưới chân được ở đâu?
Sư thưa: - Lô Sơn bảy trăm tiền mua được.
Huệ Nam bảo: - Đâu từng tự tại?
Sư chỉ thưa: - Đâu từng chẳng tự tại.
Huệ Nam kinh ngạc. Ở đây thời gian lâu, Sư từ giã đếndưới hội Thúy Nham Thuận.
*
Thiền sư Huệ Nam trụ Hoàng Long, Sư cùng đến đó.
Huệ Nam bảo: - "Vừa rồi sai thị giả cuốn rèm, hỏi y: Khi cuốn rèm lên thì thế nào? Y đáp: Xem thấy thiên hạ.Hỏi: Khi buông rèm xuống thì thế nào? Y đáp: Nướcrỉ chẳng thông. Hỏi: Khi chẳng cuốn chẳng buông thì thếnào? Y đáp không được." Ngươi thử đáp thay xem?
Sư thưa: - Hòa thượng thế thị giả xuống nhà Niết-bànmới được.
Huệ Nam gằn giọng nói: - Người Quan Tây quả không đầunão, bèn nhìn Tăng bên cạnh.
Sư chỉ vị Tăng ấy nói: - Chỉ vị Tăng này cũng chưa mộngthấy.
Huệ Nam cười to.
*
Sau khi Thiền sư Huệ Nam qui tịch, Sư dạo Hoành Nhạc, trởlại thủ chúng ở Ngưỡng Sơn. Đến niên hiệu Hy Ninh thứnăm (1072), Sư đến Cao An, Thái thú Tiền Công Dặc Tiên Hầura mắt Sư. Sư lại đến ra mắt Tiền Công, trong bình phongcó con chó chạy ùa ra sủa, Sư đứng tránh một bên.
Tiền Công giễu nói: - Thiền giả vẫn hay giáo hóa rắn cọpmà lại sợ chó sao?
Sư đáp: - Cọp trong núi dễ dẹp, rồng giữ nhà khó trừ.
Tiền Công khen rằng: - Thật danh chẳng dối.
Tiền Công mời Sư trụ Động Sơn, sau trụ Thọ Thánh.
Tại Động Sơn, Sư thượng đường dạy chúng: Dưới cửaĐộng Sơn có khi hòa bùn hợp nước, có khi vách đứng ngànnhẫn. Cả thảy các ông! Nghĩ nhằm chỗ hòa bùn hợp nướcthấy Động Sơn. Động Sơn chẳng ở chỗ hòa bùn hợp nước.Nghĩ nhằm chỗ vách đứng ngàn nhẫn thấy Động Sơn. ĐộngSơn chẳng ở chỗ vách đứng ngàn nhẫn. Nghĩ nhằm tất cảchỗ thấy Động Sơn. Động Sơn chẳng ở tất cả chỗ. Ôngchẳng cần thấy dây mũi của Động Sơn. Ở trong tay ĐộngSơn, toan ngủ mê nắm dây mũi kéo một cái, chỉ thấy conmắt định động lại chẳng biết nhau. Lại chẳng cần biếtĐộng Sơn, hãy biết chính mình là được.
*
Sư trụ trì được mười hai năm, chán sự ồn náo, xin nghỉviệc đi dạo Tam Ngô. Khi Sư đến Kim Lăng, Vương Kinh Côngmới về hưu ở tại Định Lâm, nghe Sư đến ra nghinh đón.Ông rất vui mừng đàm đạo trọn ngày.
Công hỏi: - Các kinh ở đầu đều có nêu thời, xứ, riêngkinh Viên Giác không thấy là sao?
Sư đáp: - Giáo lý đốn ngộ diễn bày là chỉ thẳng cho chúngsanh chỗ nhật dụng hiện tiền chẳng thuộc xưa nay. Hiệnnay Lão tăng cùng Tướng công đều nhập Đại Quang Minh tạng,du hí tam-muội lẫn làm chủ khách không can dự thời xứ.
Kinh Công rất vui, cùng em lập một ngôi chùa, thỉnh Sư làmTổ khai sơn thứ nhất.
*
Sư đăng tòa nói: Đại chúng! Một hội ngày nay cần biếtchăng? Là tịnh duyên thời tiết thành Phật của đại chúng.Hội hôm nay là do Thừa tướng Kinh Quốc Công cùng Phán PhủTả thừa cúng nhà, hiến vườn rừng làm chùa, thỉnh Sơntăng xiển dương Tổ ý. Quí vị lại hiểu chăng? Chỉ thẳngcho đại chúng tức tâm kiến tánh thành Phật. Đại chúngtin được chăng? Nếu tự tin được liền biết tánh mìnhxưa nay thành Phật. Dù có chưa tin cũng sẽ thành Phật. Chỉvì mê đã lâu, chợt mới nghe nói thật khó mà tin được.Tất cả thiện tri thức trong thiên hạ xưa nay, tất cả thiềnđạo, tất cả ngữ ngôn, đều là từ trong Phật tánh củathiện tri thức lưu xuất dựng lập. Song lưu xuất đó làngọn, Phật tánh là gốc. Gần đây Phật pháp đáng thương,phần nhiều bỏ gốc theo ngọn, bội chánh hợp tà. Chỉ nhậnngôn cú của cổ nhân làm thiền làm đạo, có gì giao thiệp.Dù cho Tổ Đạt-ma Tây sang cũng không thiền có thể nói, chỉcốt đại chúng tự chứng tự ngộ, tự thành Phật, tự dựnglập tất cả thiền đạo. Huống là thần thông biến hóa,chúng sanh vốn tự đầy đủ chẳng nhờ tìm bên ngoài. Hiệnnay phần nhiều người tìm cầu bên ngoài, bởi cội gốc tựkhông có chỗ ngộ, một bề làm khách đếm trân bảo cho người,trọn là hư vọng chẳng khỏi trôi lăn trong sanh tử. Đạichúng! Ngày nay hai Tướng công kiến lập đại đạo tràngnày, làm đại Phật sự, đưa chúng sanh ra khỏi khổ trôilăn sanh tử, bày hiện diệu tâm tịch diệt rộng lớn xưanay, khai phát thần thông đại quang minh tạng xưa nay. Chỉvì mê nên ở trong hàng phàm phu, ngộ thì chính nay là HiềnThánh. Đại chúng! Nói nhiều ắt cách đạo càng xa, làm tròcười cho hàng đạo nhân mắt sáng, trong chúng có người mắtsáng chăng? Thời nay Phật pháp lẫn lộn cốt phân tà chánhkhiến mọi người chẳng rơi vào tà kiến, làm con mắt chánhcho trời, người. Có chăng? Có chăng? Sư im lặng giây lâunói: Tôi trọn chẳng dám khinh các người, các người đềusẽ làm Phật. Sư xuống tòa.
*
Kinh Công rất vui. Ông kể đạo hạnh của Sư tâu về triều,vua ra chiếu ban hiệu cho Sư là Chơn Tịnh Thiền sư. Khôngbao lâu, Sư chán sự ồn náo trở về Cao An cất am dưới núiCửu Phong để tên là Đầu Lão. Học giả bốn phương kéođến. Được sáu năm, Sư lại ra trụ trì Qui Tông. Hai nămsau, Trương Thiên Giác gặp Sư ở Lô Sơn, cố thỉnh Sư trụtrì Phần Đàm. Không bao lâu, Sư lui về ở Vân Am.
*
Niên hiệu Sùng Ninh năm đầu (1102) ngày mùng một tháng mười,Sư mắc bệnh. Đến ngày rằm, bệnh Sư nhẹ. Hôm nay, Sư đemmọi dụng cụ cần thiết của Sư phân phối cho đệ tử hết.Giữa đêm mười sáu, Sư tắm gội rồi ngồi kiết già, chúngthỉnh thuyết pháp, Sư cười nói:
Năm nay bảy mươi tám
Bốn đại sắp rời rã
Gió lửa đã ly tán
Sắp đi còn gì nói.
Nói xong, Sư viên tịch, thọ bảy mươi tám tuổi.