Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Thiền sư Đại Đồng ở núi Đầu Tử

03/09/201113:53(Xem: 9176)
04. Thiền sư Đại Đồng ở núi Đầu Tử

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨNĂM SAU LỤC TỔ

A. PháiHành Tư

4.THIỀN SƯ ĐẠI ĐỒNG
NúiĐầu Tử - (819-914)

Sưhọ Lưu người Hoài Ninh, Châu Thơ. Thuở bé, Sư xuất gia vớiThiền sư Mãn ở Bảo Đường. Ban đầu, Sư tập quán hơithở, kế xem kinh Hoa Nghiêm phát minh Tánh hải, lại đến núiThúy Vi nơi hội của Thiền sư Vô Học tham vấn và đượcthâm ngộ.

Mộthôm Sư hỏi:- Thế nào là Phật lý?

Thiềnsư Vô Học đáp:-Phật tức chẳng lý.

- Chẳngrơi vào không chăng?

Thiềnsư Vô Học lại dùng bài kệ sấm ký rằng:

Phậtlý hà tằng lý Phật lý đâu từng lý

Chânkhông hựu bất không. Chân không lại chẳng không.

Đại-Đồngcư tịch trụ Đại-Đồng ở tịch trụ

Phudiễn ngã sư tông. Bày diễn đạo cha ông.

Sau,Sư về ở ẩn tại núi Đầu Tử cất am tranh tên Tịch Trụ.

*

Mộthôm, Triệu Châu Tùng Thẩm đến huyện Đồng Thành, Sư cũngcó việc xuống núi, giữa đường hai người gặp nhau mà khôngbiết nhau. Triệu Châu hỏi thăm những người cư sĩ biếtlà Đầu Tử, liền nghịch rằng:

- Phảichủ núi Đầu Tử chăng?

Sưđáp:- Cho tôi xin tiền trà muối.

TriệuChâu đi thẳng đến am trước, ngồi chờ. Sư mang một bìnhdầu về am. Triệu Châu hỏi:

- Nghedanh Đầu Tử đã lâu, đến đây chỉ thấy ông già bán dầu.

Sưđáp:- Thầy chỉ thấy ông già bán dầu, là không biết ĐầuTử.

- Thếnào là Đầu Tử?

Sưđưa bình dầu lên đáp:-Dầu! dầu!

*

TriệuChâu hỏi:- Khi ở trong chết được sống là thế nào?

Sưđáp:- Chẳng cho đi đêm, đợi sáng sẽ đến.

TriệuChâu nói:- Ta sớm là trắng, y lại là đen.

*

Từđó, đạo hạnh của Sư đồn khắp, khách tập đạo đua nhaukéo đến.

Sưbảo chúng rằng:

- Cácngươi đến đây nghĩ tìm ngôn ngữ hay đẹp, góp lời vănvẻ, trong miệng quí có nói ra, lão già này khí lực yếu kém,môi lưỡi chậm lụt. Nếu các ngươi hỏi ta, ta tùy câu hỏimà đáp. Đối đáp không có gì huyền diệu có thể kịp đượcngươi, cũng không dính gì đến tai ngươi. Trọn không nóihướng thượng hướng hạ, có Phật có Pháp, có phàm có thánh.Trong chỗ các ngươi bị trói buộc, biến hiện ngàn thứ,thảy đều khiến các ngươi sanh hiểu rồi tự mang gánh lấy,sau này tự làm tự chịu. Trong ấy không có gì cho các ngươi,chẳng dám lừa dối các ngươi, không ngoài không trong, cóthể nói được na ná. Các ngươi lại biết chăng?

*

TuyếtPhong (Nghĩa Tồn) đứng hầu, Sư chỉ một phiến đá trướcam bảo:

- ChưPhật ba đời thảy ở trong ấy.

TuyếtPhong thưa:-Nên biết có cái chẳng ở trong ấy.

Sưbảo:- Chẳng thích, thùng sơn.

*

Mộthôm, Tuyết Phong theo Sư đi thăm am chủ Long Miên. Tuyết Phonghỏi: "Đường Long Miên đi về phía nào?" Sư lấy cây gậychỉ tới trước mặt. Tuyết Phong hỏi: "Đi bên đông hay đibên tây?" Sư bảo: "Chẳng thích! Thùng sơn."

*

Hômkhác, Tuyết Phong hỏi:

- Khimột chùy liền thành thì thế nào?

Sưđáp:- Chẳng phải kẻ tánh thô tháo.

- Khichẳng nhờ một chùy thì sao?

- Chẳngthích, thùng sơn.

*

Sưngồi trong am, Tuyết Phong hỏi: "Hòa thượng độ này có ngườitham vấn chăng?" Sư với lấy cây cuốc dưới sàn ném trướcmặt Tuyết Phong. Tuyết Phong thưa: "Thế ấy, chính chỗ nàycuốc đi." Sư bảo: "Chẳng thích, thùng sơn."

*

TuyếtPhong từ ra đi, Sư tiễn ra cửa, liền gọi: ?Đạo giả? TuyếtPhong ngoái đầu lại: "dạ!" Sư bảo: "đi đường vui vẻ".

*

Cóvị Tăng hỏi Triệu Châu: "Trẻ con mới sanh có đủ sáu thứcchăng?" Triệu Châu đáp: "Trên dòng nước chảy xiết, đácầu." Sau, vị Tăng ấy đến hỏi Sư: "Trên dòng nước chảyxiết, đá cầu, ý nghĩa thế nào?" Sư đáp:

- Niệmniệm chẳng tạm dừng.

*

Cóvị Tăng hỏi Sư:- Cũng đồng là nước, tại sao ở biểnmặn, ở sông lạt?

Sưđáp:- Trên trời sao, dưới đất cây.

- Hòathượng lâu nay ở đây có cảnh giới gì?

- Bégái chừa hai chỏm, đầu bạc như tơ.

- Thếnào là Tỳ-lô (pháp thân)?

- Đãcó danh tự.

Thếnào là Tỳ-lô sư (thầy Pháp thân)?

- Khichưa có Tỳ-lô hội lấy.

- Khibốn núi (sanh, lão, bệnh, tử) ép ngặt làm thế nào?

- Nămuẩn đều không.

- Khimột niệm chưa sanh là thế nào?

- Thậtlà lời nói dối.

- Trêntrời dưới trời chỉ ta là hơn hết, thế nào là ta?

- Xôté ông già Hồ (Phật) có lỗi gì?

- Thếnào là Hòa thượng Sư?

- Đónđó chẳng thấy đầu kia, theo đó chẳng thấy hình kia.

- Khimặt trời mặt trăng chưa sáng, Phật cùng chúng sanh ở chỗnào?

- ThấyLão tăng giận liền nói giận, thấy Lão tăng mừng liền nóimừng.

*

Sưhỏi một vị Tăng mới đến:- Ở đâu đến?

Tăngthưa:- Ở núi Đông núi Tây lễ Tổ sư mới đến.

Sưbảo:- Tổ sư không ở núi Đông núi Tây.

Tănglặng câm

*

Tràđầu (trưởng phòng trà) vào phương trượng thưa hỏi. Sưbảo:

- Hãyđi, đợi khi không người sẽ đến, ta vì xà-lê nói.

Hômsau, Trà đầu rình đợi lúc không người đến thưa: "ThỉnhHòa thượng nói" Sư bảo: "Lại gần đây" Trà đầu đếngần. Sư bảo: "Liền chẳng đặng nói lại cho người."

*

Tănghỏi:- Sư tử là vua trong loài thú, tại sao bị sáu trần nuốt?

Sưđáp:- Chẳng làm, tột không ngã nhân.

*

Sưở núi Đầu tử hơn ba mươi năm, những Thiền khách qua lạitham vấn thường đầy cả thất. Sư dùng biện tài vô úytùy hỏi liền đáp, ứng cơ đối đáp lời lẽ tinh vi rấtnhiều, đây lược ghi ít phần mà thôi.

*

ĐờiĐường niên hiệu Trung Hòa (881) giặc cướp nổi dậy, dânchúng tán loạn, có bọn cuồng đồ cầm đao lên núi, hỏiSư: "Ở đây làm gì?" Sư tùy nghi thuyết pháp, bọn chúng ngheđều bái phục, cởi y phục cúng dường, rồi giải tán.

*

ThờiNgũ đại niên hiệu Càn Hóa năm thứ tư (914) ngày mùng sáutháng tư, Sư có chút ít bệnh. Đại chúng rước thầy thuốc.

Sưbảo chúng:

- Độngtác của tứ đại họp tan là phép thường, các ngươi chớlo, ta tự giữ lấy.

Nóixong, Sư ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Thọ chínmươi sáu tuổi, vua ban hiệu là Từ Tế Đại sư, tháp hiệu "Chân Tịch".

8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567