Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Mahayana và Theravada: Cùng một cỗ xe

02/02/201111:04(Xem: 11073)
04. Mahayana và Theravada: Cùng một cỗ xe

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

MahayanaTheravada:
Cùngmột cỗ xe

BìnhAnson

Phậtgiáongày nay có nhiều tông phái với các truyền thống khácnhau. Tuy nhiên, chúng ta thường phân biệt hai tông phái chính:PhậtGiáo Đại thừa - Mahayana, và Phật Giáo Nguyên thủy- Theravada. Phật Giáo Mahayanathịnh hành ở các nướcTây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Triều Tiên, và Nhật Bản. Trongkhi đó, Phật Giáo Theravadađược lưu truyền rộng rãiở Tích Lan (Sri Lanka), Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cam Bốt.

RiêngViệt Nam có lẽ là một quốc gia Á Châu đầu tiên mà cảhai tông phái lớn nầy đều được chính thức thừa nhậnvà đã cộng tác hoạt động trong nhiều thập niên qua. Tôngphái Đại thừa có một truyền thống lâu đời và đã cómặt tại Việt Nam do các tu sĩ Ấn Độ truyền sang vào cuốithế kỷ thứ II TL. Tông phái Nguyên thủy cũng có mặt tạivùng đất nầy qua nhiều thế kỷ trong các cộng đồng ngườiKhmer tại miền Nam Việt Nam, và được truyền bá đến cácPhật tử người Việt trong thập niên 1940. Trong những nămgần đây, lại có những dự án dịch thuật các kinh điểncủa cả hai truyền thống, từ các văn bản gốc tiếng Hánvà tiếng Pali, sang tiếng Việt hiện đại.

Trongbài viết ngắn dưới đây, tôi xin mạn phép trình bày sơlược về nguồn gốc của MahayanaTheravada,lồng trong bối cảnh lịch sử phát triển của đạo Phậttại Ấn Độ trong khoảng 1000 năm đầu tiên sau khi Đức Phậtnhập Niết Bàn. Tiến trình đó được tạm chia làm ba thờikỳ: thời kỳ nguyên thủy (100 năm), thời kỳ bộ phái (400năm), và thời kỳ chuyển hóa (500 năm).

1.Thời kỳ nguyên thủy

Trong45 năm truyền dạy đạo pháp, Đức Phật đã để lại rấtnhiều bài giảng, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, cho nhiềungười thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Các bài giảngnầy thường được các vị tu sĩ đệ tử ghi nhớ, sắp xếplại, truyền khẩu cho nhau, và dùng để giảng lại cho ngườikhác. Khi được phân phối đi hoằng dương đạo pháp ở cácvùng khác nhau, các bài giảng nầy thường được chuyển dịchra tiếng địa phương và điều nầy được Đức Phật chấpnhận và khuyến khích.

Cómột lần, hai vị đại đức Yamelu và Tekula xin phép ĐứcPhật để ghi chép và chuyển dịch những bài giảng của Ngàisang tiếng Vedic, vốn là văn tự của giới quý tộc dùng đểphúng tụng kinh Vệ Đà, để bảo đảm tính nhất quán vàchính xác của các bài kinh, nhưng Phật không đồng ý. Ngàicho rằng các bài giảng của Ngài phải được phổ biến đếnmọi người qua ngôn ngữ địa phương để họ có thể nghe,hiểu và thực hành được. Cũng vì vậy mà dù rằng ĐứcPhật dùng tiếng Magadhi(Ma Kiệt Đà) để giảng pháp,nhưng các bài giảng đã được truyền khẩu bằng nhiều thứtiếng khác nhau.

Saukhi Đức Phật nhập diệt, ngài Ma Ha Ca Diếp triệu tập mộthội đồng gồm khoảng 500 vị thánh tăng tại vùng đồi núingoại thành Vương Xá (Rajagaha)để kết tập kinh điển,sau nầy được gọi là Đại Hội Kết Tập Lần Thứ Nhất."Kết tập" có nghĩa là thu góp, tập hợp lại, ôn lại, đừngđể cho tán thất. Tiếng Phạn là "sangiti", có nghĩalà cùng nhau tụng lại (chanting together). Trong Đại Hộinầy, ngài Ma Ha Ca Diếp là chủ quản, ngài A Nan Đa đọc lạicác bài kinh giảng và ngài Ưu Ba Ly đọc lại các điều luật.Sau lần kết tập đầu tiên nầy, bộ Luật Tạng và bộ KinhTạng được đúc kết. Lúc ấy, Kinh Tạng được chia ra thành4 bộ chính: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, và TăngChi Bộ.

2.Thời kỳ bộ phái

Sauđó, nhiều phái đoàn truyền giáo được gửi đi các nơiđể hoằng dương đạo pháp, từ miền Trung Ấn đến mạnNam và mạn Tây xứ Ấn Độ. Trong thời kỳ nầy có nhiềubiến động, thay đổi bố cục chính trị giữa các vươngquốc trong vùng, và vì thế có nhiều thay đổi trong sinh hoạtxã hội, tạo ảnh hưởng đến các sinh hoạt tăng đoàn, nhấtlà tại những nơi mà Phật giáo còn mới, chưa vững mạnh.Nhiều tu sĩ trẻ trong những vùng nầy bắt đầu cảm thấycó nhu cầu cần sửa đổi giới luật và lề lối sinh hoạtđể phù hợp với đời sống địa phương.

Mộttrăm năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, Đại Hội Kết TậpLần Thứ II được tổ chức tại thành Vesali với 700 tu sĩ,mục đích chính là để giải quyết các tranh chấp về 10điều luật căn bản, trong đó có luật cấm các tu sĩ thunhận vàng bạc do dân chúng cúng dường. Nhưng thêm vào đó,Đại Hội cũng duyệt lại các kinh điển, và kết tập mộtsố bài kinh giảng không được đúc kết lúc trước. Đólà những cơ sở để thành hình bộ kinh thứ 5, Tiểu Bộ,về sau nầy.

VìĐại Hội quyết định giữ nguyên 10 điều giới luật cănbản mà không sửa đổi, một số tu sĩ trẻ không hài lòngvà bắt đầu có khuynh hướng ly khai. Đây là mầm mống đưađến sự phân chia đầu tiên trong tăng đoàn: bộ phái TrưởngLão Thuyết Bộ (Sthaviravada)gồm các tu sĩ có khuynh hướngbảo thủ, và Đại Chúng Bộ (Mahasanghika)gồm các tusĩ có khuynh hướng cải cách.

Mộttrăm năm sau đó, Đại Hội Kết Tập Lần Thứ III đượctriệu tập dưới thời vua A Dục (Asoka), 268-232 trướcT.L. Dưới sự chỉ đạo của ngài Mục Kiền Liên Tử ĐếTu (Moggaliputta Tissa), Đại Hội nầy gồm khoảng 1000tu sĩ đúc kết Kinh Tạng và Thắng Pháp Tạng. Kinh Tạng (SuttaPitaka)giờ đây gồm 5 Bộ Kinh: Trường Bộ, Trung Bộ,Tiểu Bộ, Tương Ưng Bộ, và Tăng Chi Bộ. Thêm vào đó, tổchức tăng đoàn theo truyền thống Trưởng Lão Thuyết đượcchấn chỉnh lại theo đúng các giới luật.

Trongthời kỳ nầy, Đại Chúng Bộ bắt đầu phân chia ra thànhnhiều tông phái. Nhiều nhà sử học ghi nhận có tất cảbốn lần phân chia, tổng cộng là 7 tông phái trong vòng 200năm. Bên cạnh đó, Trưởng Lão Thuyết Bộ cũng bị phân chiabảy lần, tạo ra mười một tông phái. Vì vậy mà ngày naycó nhiều sách viết về "mười tám tông phái", cộng thêmvới hai bộ phái đầu tiên. Tuy nhiên, cũng có sách đã liệtkê đến 34 tông phái.

VuaA Dục là một vị vua rất sùng bái đạo Phật, và đã đónggóp rất nhiều trong công cuộc phát huy đạo pháp. Ngài đãgửi nhiều phái đoàn đi truyền giáo nhiều nơi. Trong đócó Đại đức Mahinda, một trong những người con củangài, cùng với 4 vị tu sĩ được gửi sang đảo Tích Lan đểtruyền bá đạo Phật. Một mặt khác, đạo Phật cũng đượcphát triển rộng rãi ở mạn Tây Bắc, và trung tâm Phật giáoở Kashmir trở thành một trong những trung tâm chính thời đó.Trong thời kỳ nầy, các tư tưởng Đại thừa bắt đầu thànhhình, và thâm nhập vào một vài tông phái của Đại ChúngBộ, chẳng hạn như tông Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravadin).

3.Thời Kỳ Chuyển Hóa: Theravada

KhiĐại đức Mahinda và phái đoàn truyền giáo sang Tích Lan, ngàiđược vua Tích Lan giúp xây cất một ngôi chùa lớn, gọilà Đại Tự Viện (Mahavihara), và từ đó thành lậptông phái Đại Tự Viện ở xứ nầy. Một trăm năm sau thìmột ngôi chùa khác, tự viện Vô Úy Sơn (Abhayagiri),được xây cất và các tu sĩ ở chùa nầy bắt đầu tạoảnh hưởng lớn mạnh ở Tích Lan. Thêm vào đó, cũng có nhiềunhóm tu sĩ với khuynh hướng Đại thừa từ Ấn Độ sang hoạtđộng tại xứ nầy, nhưng không có ảnh hưởng sâu rộng.Sự tranh giành ảnh hưởng giữa hai tông phái nguyên thủyĐại Tự Viện và Vô Úy Sơn kéo dài qua nhiều thế kỷ, vàchỉ chấm dứt vào khoảng thế kỷ thứ 12, khi nhóm ĐạiTự Viện được vua Parakkamabahu chính thức thừa nhận, kếttạo thành tông phái Theravadanhư chúng ta thấy đượcngày nay.

Vàonhững thập niên cuối cùng trước công nguyên (năm 29-17 trướcTL), khoảng 500 tu sĩ phái Mahaviharatập họp lại vàbắt đầu cho viết các bộ Kinh, Luật và Thắng Pháp trênmột loại giấy bằng lá bối đa. Lần đầu tiên, sau gần500 năm truyền khẩu, ba bộ Tạng được ghi chép hoàn toàntrên lá bối, và từ đó, bộ Tam Tạng kinh điển hệ Palibằng văn bản được tạo ra và lưu truyền cho đến ngàynay. Đó là Đại Hội Kết Tập Lần Thứ IV. Sở dĩ văn tựPali được dùng vì đó là ngôn ngữ chính thống miền TâyẤn và là ngôn ngữ sử dụng bởi ngài Mahinda. Nhờtình trạng xã hội tương đối ổn định và đảo Tích Lantương đối biệt lập nên các bộ Tam Tạng nầy đã đượcgìn giữ nguyên vẹn, dù rằng trong khi sao chép chuyển truyềntừ đời nầy sang đời khác, có thể có một vài sửa đổi,sơ sót. Nhưng đó chỉ là các đoạn nhỏ, không quan trọng.

Từđó, Đại Tạng Kinh được truyền bá sang các nước lân cậnnhư Miến Điện, Thái Lan, Lào, và Cam Bốt. Ngoài ra, một sốcác bài luận thuyết của các danh sư trong thời kỳ nầy,như bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)của ngài PhậtÂm (Buddhaghosa)trước tác trong thế kỷ 4 TL, bộ ThắngPháp Tập Yếu (Abhidhammattha Sangaha)của ngài Anuruddha,v.v. cũng được quý trọng, gìn giữ và lưu truyền cho đếnngày nay.

Danhtừ Theravadalà tiếng Pali, đồng nghĩa với chữ Sthaviravadacủa tiếng Sanskrit, có nghĩa là "giáo thuyết của các vịtrưởng lão" (Doctrine of the Elders). Sách Tàu thường dịchlà Trưởng Lão Bộ, có khi dịch là Thượng Tọa Bộ, nhưngdịch sát nghĩa là Trưởng Lão Thuyết Bộ, là một trong haibộ phái chính từ thời kỳ nguyên thủy. Tuy nhiên, danh từTheravadangày nay thường được dùng để chỉ truyền thống Phậtgiáo Nam tông, bắt nguồn từ Tích Lan, chịu nhiều ảnh hưởngcủa nhóm Đại Tự Viện (Mahavihara), do Đại đức Mahindavà các tu sĩ thuộc tông phái Phân Biệt Thuyết Bộ (Vibhajyavada),một nhánh của Trưởng Lão Thuyết Bộ, truyền bá vào TíchLan khoảng 200 năm trước Tây lịch. Có sách cho rằng thậtra, ngài Mahinda thuộc truyền thống Xích Đồng Diệp Bộ (Tamrasatiya),bộ phái của các tu sĩ mặc y màu đồng đỏ và là một nhánhnhỏ của Phân Biệt Thuyết Bộ. So với các tông phái khácvẫn còn hoạt động ngày nay, truyền thống Theravadacó thể được xem như là một truyền thống tương đối lâuđời nhất, tương đối gần với thời kỳ nguyên thủy nhất.

4.Thời Kỳ Chuyển Hóa: Mahayana

Khoảng200 năm sau ngày Phật nhập Niết Bàn, phái Đại Chúng Bộlan rộng tại nhiều vùng của xứ Ấn Độ và bắt đầu phânhóa thành nhiều tông phái, trong đó có tông phái Lokottaravada(ThuyếtXuất Thế). Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu, các tông phái đềusử dụng kinh điển A-Hàm(Agama)bằng ngôn ngữ Sanskrit,mặc dù đã có một vài sửa đổi để hàm chứa tư tưởngđại thừa. Cho đến nay, các sử liệu đều chỉ rằng kinhđiển đại thừa bắt đầu xuất hiện trong những năm cuốicùng trước Tây lịch, lúc đầu là một vài bài kinh ngắn,về sau được bổ sung thêm và phát triển, kết tập lạithành những bộ kinh lớn.

Tuynhiên, chúng ta vẫn chưa biết đích xác là danh xưng "Mahayana- Đại Thừa" bắt đầu được sử dụng vào lúc nào,bắt nguồn từ tông phái nào trong thời kỳ bộ phái. Đầutiên, danh xưng Bồ Tát Thừa được dùng, rồi dần dần vềsau, danh xưng Đại Thừa xuất hiện trong các bộ kinh mới.Bộ kinh đầu tiên có đề cập đến danh xưng nầy là bộkinh Diệu Pháp Liên Hoa. Có lẽ đó là kết tụ của nhữngtiến hóa tư tưởng trong mấy trăm năm sau khi có sự phânhóa tăng đoàn lần đầu tiên. Có học giả cho rằng Mahayanabắt nguồn từ Đại Chúng Bộ vì cùng có những ý niệm phóngkhoáng trong giới luật. Tuy nhiên các ý tưởng của tông pháiThuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin), một tôngchính của Trưởng Lão Bộ, cũng được thu dụng và hàm chứatrong kinh điển Mahayana. Có học giả cho rằng Mahayanaphát nguồn từ các tu sĩ có tư tưởng cải cách từ nhiềutông phái khác nhau, như tông Nhất Thuyết Bộ (Ekavyavaharika),Thuyết Xuất Thế Bộ(Lokottaravadin), Kế Dẫn Bộ (Kaukutika),v.v.

Kinhđiển Đại thừa bắt đầu xuất hiện nhiều hơn, có hệthống hơn, từ thế kỷ 1 TL trở về sau. Tiếc rằng các bộkinh đầu tiên, như Kinh Duy Ma Cật, Liễu Ba La Mật, Bồ TátTạng, Tam Pháp Kinh, v.v. nay không còn nguyên bản Sanskrit, màchỉ còn dịch bản chữ Hán và Tây Tạng, nên không thể đốichiếu, truy tầm nguồn gốc. Tuy nhiên các bộ kinh đại thừaquan trọng khác như Đại Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, A DiĐà vẫn còn các bản gốc tiếng Sanskrit.

Sựxuất hiện các bộ kinh đại thừa và sau đó là các quyểnluận thuyết của các ngài Mã Minh, Long Thọ, Long Trí, ĐềBà, Vô Trước, Thế Thân trong bốn thế kỷ đầu Tây lịchđánh dấu sự thành hình và phát triển nhanh chóng của Phậtgiáo Mahayanatrong toàn xứ Ấn Độ. Ảnh hưởng nầyđã dần dần lan rộng sang Trung Hoa, và từ đó có những phongtrào truyền bá, chuyển dịch kinh điển ở Trung Hoa qua nhiềuthế kỷ, từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 TL, qua ba ngõ giaothông chính: đầu tiên là qua miền Trung Á, qua ngõ Nepal - TâyTạng, và bằng đường biển.

5.Cùng một cỗ xe: Pháp thừa (Dhammayana)

Tómlại, trong 100 năm sau khi Đức Phật tịch diệt, giữa ĐạiHội Kết Tập Lần I và II, Đạo Phật được xem như là ởtrong thời kỳ nguyên thủy, với một tăng đoàn tương đốicòn ít, có nhiều liên hệ chặt chẽ, giới luật thuần nhất,dưới sự lãnh đạo của các cao tăng vốn đã xuất gia vàthọ giới khi Đức Phật còn tại thế.

Sangthời kỳ bộ phái, kéo dài khoảng 400 năm từ sau Đại HộiII cho đến đầu Tây lịch, các mầm mống phân hoá đã bắtđầu xuất hiện, với sự phân chia thành hai Bộ, và sau đótiếp tục phân hóa thành 18 tông. Qua Đại Hội III đượctổ chức dưới triều vua A Dục, việc kết tập Kinh Tạngvà Thắng Pháp Tạng xem như đã hoàn tất. Mặc dù trong thờikỳ nầy các kinh A Hàm và giới luật nguyên thủy vẫn đượccác tông phái tôn trọng - với những cách diễn dịch khácnhau - các ý tưởng canh tân, đại chúng hóa đạo pháp bắtđầu thành hình, nhất là trong thế kỷ cuối cùng trướcTây lịch.

Thờikỳ tiếp theo là thời kỳ chuyển hóa, kéo dài khoảng 500năm cho đến đầu thế kỷ 6. Trong thời kỳ nầy, Phật giáobắt đầu có hai hướng phát triển khác nhau, và kéo dài ảnhhưởng đến ngày nay. Từ Ấn Độ, đạo Phật được truyềnvề hướng Nam, sang đảo Tích Lan, và tạo lập một căn bảnvững chắc ở đó. Đại Hội Kết Tập lần IV tại Tích Lanđánh dấu việc ghi chép toàn bộ Tam Tạng Kinh - Luật - ThắngPháp trên lá bối, và được lưu truyền cho đến ngày nayqua truyền thống Theravada.

Cũngtrong thời kỳ nầy, các tư tưởng canh tân của Đại thừađã bắt đầu tạo ảnh hưởng lớn mạnh, qua các bộ kinhđiển mới và qua các bộ luận thuyết của các danh tăng vàogiữa và cuối thời kỳ nầy. Các tông phái Đại thừa bắtđầu xuất hiện và tăng trưởng nhanh chóng. Đạo Phật truyềnsang mạn Tây Bắc, tạo lập trung tâm Phật giáo ở Kashmir,và từ đó truyền vào Trung Hoa.

Khiđạo Phật bắt đầu phát triển ở Trung Hoa, tăng đoàn ởđó đã thu nhận và chuyển dịch rất nhiều kinh điển, từnhiều nguồn gốc và tông phái khác nhau, và qua nhiều thờikỳ lịch sử. Các bộ Tam Tạng nguyên thủy được dịch rachữ Hán từ hai, ba tông phái khác nhau, chẳng hạn như từtông Thuyết Xuất Thế Bộ và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.Các bộ kinh chính của Đại thừa cũng thế, có nhiều thayđổi theo thời gian, và được bổ sung, sửa chữa nhiều lần.Có khi các bộ kinh nầy chỉ được truyền khẩu bằng tiếngPhạn vào Trung Hoa, rồi sau đó mới được dịch, giản lược,nhuận sắc và ghi chép lại. Có khi các danh tăng Trung Hoa duhành sang Ấn Độ học tập rồi mang về các bộ kinh điểnđể phiên dịch và phổ biến trong nước. Cũng có những bộkinh không có nguồn gốc rõ ràng và có lẽ đã được trướctác tại Trung Hoa. Ngài Đạo An trong thời Đông Tấn, thếkỷ thứ 4 CN, đã từng đặt vấn đề "kinh nghi ngụy" đểxác định kinh thật, kinh giả. Cả hai truyền thống chính- TheravadaMahayana- đều có mặt tại xứ nầytrong thời gian đó.

Đểsắp xếp và thống nhất nguồn gốc của các loại kinh điển,các tăng sĩ thời đó đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau(các học thuyết "phán giáo"). Trong đó, thuyết của ngài TríGiả, tông Thiên Thai, là phổ thông nhất và vẫn còn thấylưu dụng cho đến ngày nay trong một số sách Phật giáo. Ngàicho rằng Đức Phật đã giảng kinh pháp trong 5 thời kỳ (ngũthời phán giáo): Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã,và Pháp Hoa - Đại Niết Bàn, và vì thế có nhiều loại kinhđiển từ nhiều tông phái khác nhau. Tuy nhiên, đây chỉ làmột lối giải thích chủ quan để tổng hợp, hệ thống hóatoàn bộ kinh điển và biện minh sự siêu việt của Pháp Hoatông mà thôi. Giả thuyết nầy không có chứng liệu lịchsử, và không được các nhà nghiên cứu sử học Phật giáongày nay công nhận.

TạiTích Lan cũng thế, trong những thế kỷ đầu tiên, cả haitruyền thống MahayanaTheravadađều có mặttại xứ nầy, mặc dù truyền thống Theravadacó ảnhhưởng mạnh hơn, như ngài Pháp Hiển đã ghi nhận trong quyểnPhật Quốc Ký. Ngài cũng ghi nhận là có các nhóm tu sĩ pháiĐại Tự Viện, tuy là Theravadanhưng có tinh thần đạithừa rất cao. Còn tại Ấn Độ, các ngài Huyền Trang và PhápHiển đều ghi nhận sự hoạt động hài hòa của nhiều tôngphái khác nhau trong nhiều thế kỷ.

ỞViệt Nam, cả hai tông phái MahayanaTheravadađềuđược công nhận và cùng chung nhau hoạt động trong công táchoằng dương đạo pháp. Hiến chương của Giáo hội Phậtgiáo Việt Nam soạn ra năm 1963 đã chính thức xác nhận điềuđó.

Tuynhiên, để tránh hiểu lầm, chúng ta không nên dùng chữ "Tiểuthừa" để gọi tông phái Theravada. Điều nầy thườnggặp trong một số sách báo và bài viết về đạo Phật. Thậtra, "Tiểu thừa" là dịch từ chữ "Hinayana"- cỗ xe nhỏ- một chữ dùng rất nhiều trong kinh điển và luận thuyếtĐại thừa, có hàm ý chê bai, khinh miệt. Có lẽ đây là mộtdụng ý thâm sâu của các tu sĩ luận sư Đại thừa để chêbai các bộ phái Nguyên thủy, bởi vì nếu các vị ấy chỉcó ý muốn diễn tả một cỗ xe nhỏ thì danh từ "Culayana"có ý nghĩa chính xác và nghiêm túc hơn.

Cũngcần ghi nhận ở đây là các danh xưng "Đại thừa" và "Tiểuthừa" chỉ thấy đề cập trong kinh luận Mahayanaxuấthiện về sau, mà không thấy trong kinh điển Nguyên thủy. Tronghệ Pali Nikaya cũng như hệ Hán tạng A-hàm, Đức Phật códạy ngài Ananda về một cỗ xe Pháp duy nhất, Pháp thừa(Dhammayana),đó là Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo), như đã ghilại trong Tương Ưng Bộ và Tạp A-hàm (SN XLV.4, SA 769):

"NàyAnanda, Con Đường Tám Chánh nầy là đồng nghĩa với cỗ xetối thượng, là cỗ xe Pháp, là sự chiến thắng vô thượngtrong mọi chiến trận nhiếp phục tham, sân, si."
Khi đọckinh điển, chúng ta cần phải hiểu rõ hoàn cảnh lịch sửxã hội khi các kinh nầy được tạo ra. Các kinh Đại thừađược trước tác và xuất hiện vào cuối thời kỳ bộ phái,nghĩa là khoảng 400-500 năm sau khi Đức Phật tịch diệt. Đâylà các tư tưởng cải cách để đại chúng hóa đạo Phật,đối kháng lại đường lối thủ cựu, giáo điều, chấpkiến và vị kỷ của một số tu sĩ trong giới lãnh đạotăng đoàn của nhiều tông phái thời bấy giờ, chứ khôngphải để ám chỉ riêng biệt một tông phái nào cả.

Khuynhhướngngày nay là dùng chữ MahayanaTheravadanguyên ngữ để chỉ hai tông phái chính nầy. Khi dịch sangViệt ngữ, thường thì chúng ta dùng danh từ Phật Giáo ĐạiThừa và Phật Giáo Nguyên Thủy, nhưng cũng có sách dùng danhtừ Phật Giáo Bắc Truyền (Bắc Tông) và Phật Giáo Nam Truyền(Nam Tông) để chỉ hướng truyền đạo của Phật Pháp trongthời kỳ chuyển hóa. Gần đây, lại thấy có sách dùng danhxưng Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) và Phật Giáo PhátTriển (Mahayana) cho hai hệ phái chính ở Việt Nam.

Dùlà tông phái nào đi nữa, đó cũng chỉ là giáo pháp phươngtiện giúp ta tu tâm tịnh ý để được an lạc và giải thoát.Cần phải hiểu rõ nguồn gốc và hoàn cảnh lịch sử trongtiến trình phát triển các bộ kinh điển và tông phái, đểcó được một sự thông cảm, hòa đồng và tương kính. Trongkinh Pháp Hoa, Đức Phật có nói: "Chư Phật chỉ dùng mộtcỗ xe duy nhất đưa đến giải thoát (nhất thừa Phật đạo),không có hai mà cũng chẳng có ba", và trong Tiểu Bộ vàTăng Chi Bộ của kinh tạng Nguyên thủy, Ngài cũng dạy rằng:"Nhưtất cả các đại dương đều có cùng một vị mặn, cácgiáo pháp của Ta cũng chỉ có một vị duy nhất, đó là vịgiải thoát."

Perth,Tây Úc,
tháng4-1996
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567