Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni

08/04/201316:16(Xem: 9831)
Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni

Tạng Luật
Vinayapitaka

Bộ Phân Tích Giới Bổn
Suttavibhanga

Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên dịch
2004

Phần Giới Thiệu

Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật đến các tỷ-kheo về các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như các công việc của hội chúng, trong đó chủ yếu đề cập đến các tỷ-kheo, một phần dành cho tỷ-kheo ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.

Tạng Luật được chia làm 3 phần chính: Suttavibhaṅga, Khandhaka, và Parivāra.

I. Suttavibhaṅga: là phần phân tích về giới bổn Pātimokkha của Tỷ-kheo gồm có 227 điều và của Tỷ-kheo ni gồm có 311 điều.

Theo truyền thống đang được áp dụng ở Miến Điện và Tích Lan, Suttavibhaṅga được phân chia làm hai bộ: Pārājika (Pāḷi) và Pācittiya (Pāḷi). Cách phân chia này có thể do việc chia hai số lượng sách của Suttavibhaṅga và được trình bày như sau:

Pārājika (Pāḷi): Mở đầu là Chương Verañja giới thiệu việc ngài Sārīputta thỉnh cầu đức Phật quy định giới ở xứ Verañjā. Kế đến là các điều học theo thứ tự:

1/- 4 Pārājika (Bất cộng trụ)
2/- 13 Saṅghādisesa (Tăng tàng)
3/- 2 Aniyata (Bất định)
4/- 30 Nissaggiya Pācittiya (Ưng xả đối trị)

Pācittiya (Pāḷi):

5/- 92 Pācittiya (Ưng đối trị)
6/- 4 Pāṭidesanīya (Ưng phát lộ)
7/- 75 Sekhiya (Ưng học pháp)
8/- 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā (Pháp dàn xếp tranh tụng)
9/- Bhikkhunīvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni).

Truyền thống Thái Lan phân chia Suttavibhaṅga theo nội dung làm hai bộ:

1) Mahāvibhaṅga(Đại Phân Tích): Tên cũ của bộ này là Bhikkhuvibhaṅga(Phân Tích Giới Tỷ-Kheo) vì có đầy đủ phần phân tích 227 giới trong giới bổn Pātimokkha của Tỷ-kheo từ 4 Pārājika cho đến 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā. Bộ này được phân chia làm 2 tập:

- Tập 1 gồm 4 Pārājika, 13 Saṅghādisesa, và 2 Aniyata; và
- Tập 2 từ 30 Nissaggiya Pācittiya cho đến hết.

2) Bhikkhunīvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni) gồm các điều giới quy định dành riêng cho Tỷ-kheo ni.

II. Khandhaka: gồm các vấn đề có liên quan đã được sắp xếp thành từng chương. Khandhaka được chia làm 2 bộ:

1) Mahāvagga(Đại Phẩm): gồm 10 chương, mở đầu là sự chứng ngộ đạo quả của đức Phật, kế đến là các nhiệm vụ quan trọng của các tỷ-kheo như lễ xuất gia, lễ Uposatha (Bố Tát), việc an cư mùa mưa, lễ Pavāraṇā (Tự Tứ), v.v...

2) Cullavagga (Tiểu Phẩm): gồm 12 chương đề cập đến việc hành xử các tỷ-kheo phạm tội, giải quyết các sự tranh tụng, việc chia rẽ hội chúng, và các vấn đề khác liên quan đến đời sống xuất gia. Đặc biệt chương 10 đề cập việc xuất gia của tỷ-kheo ni và hai chương cuối 11 và 12 nói về hai lần kết tập Tam Tạng đầu tiên ở Ấn Độ.

III. Parivāra (Tập Yếu): phân tích về Giới và Luật theo các tiêu đề và được trình bày dưới dạng vấn đáp, có thể được xem như là cuốn cẩm nang hướng dẫn việc hành xử Luật.

* * *

Chúng tôi trình bày bản dịch Suttavibhaga này theo hình thức trình bày của Tam Tạng Thái Lan, gồm có Phân Tích Giới Tỷ-Kheo(2 tập) và Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni, hay có thể nói gọn lại là Giới Tỷ-KheoGiới Tỷ-Kheo Niđể dễ nhớ. Ý nghĩa của từ "sutta" ở cụm từ Suttavibhaga có ý nghĩa tương đương như là "sikkhāpada" (điều học, học giới, điều giới, ...), nếu xét theo ý nghĩa bao quát có thể gọi là "giới bổn;" như vậy, Suttavibhaga nghĩa là sự phân tích các điều học hoặc là sự phân tích về giới bổn (Ở Tạng Kinh, từ "sutta" được dịch là "kinh", ví dụ như Brahmajālasutta được dịch là Kinh Phạm Võng, v.v...).

Đề cập đến nội dung, chương mở đầu Verañja trình bày về thời điểm quy định điều học cho các tỷ-kheo, đức Phật đã trả lời sự thỉnh cầu của ngài Sārīputta (Xá Lợi Phất) rằng: "Này Sārīputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sārīputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp này, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm." Và ngài đã xác định về thời điểm đó rằng: "Này Sārīputta, cho đến khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này ... cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự đông đảo về số lượng ... chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển ... chưa đạt đến sự dồi dào về lợi lộc ... chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều ... thì khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc (sẽ) xuất hiện trong hội chúng này, khi ấy bậc Đạo sư (sẽ) quy định điều học cho các đệ tử và (sẽ) công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy."

Đến các chương kế tiếp, chúng ta biết được rằng mỗi khi điều học được quy định trước tiên có sự chỉ trích và chê bai về việc làm hay lời nói nào đó của các vị xuất gia, việc chỉ trích và chê bai lan rộng khiến các tỷ-kheo nghe được và cuối cùng đến tai đức Phật. Đối tượng vi phạm trong các câu chuyện này có th��� là cá nhân hay nhóm tỷ-kheo, không hẳn là phàm nhân mà ngay cả một số vị đã chứng được thiền và thần thông như các vị Devadatta và Sāgata, một vài trường hợp do các bậc đã chứng Thánh quả như ngài Anuruddha về việc nằm chung chỗ ngụ với người nữ hoặc ngài Veaṭṭhasīsa về việc thọ dụng vật thực đã tích trữ. Sự chỉ trích và chê bai đa số phát xuất từ hàng tại gia có thể là các cư sĩ đã quy y, những người theo ngoại đạo, hoặc quần chúng bình thường, kế đến do các vị đã xuất gia, chỉ một vài trường hợp là phi nhân hạng trên hoặc dưới. Thông thường, đức Phật đã triệu tập các tỷ-kheo lại, xác định vấn đề, khiển trách và giáo huấn, rồi mới quy định điều học. Mỗi lần như vậy, đức Phật luôn khẳng định về mười điều lợi ích của việc làm ấy như sau: "Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỷ-kheo hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật." Có nhiều trường hợp, điều học đã được quy định thêm (anupaññatti), có trường hợp càng thêm nghiêm khắc trong việc thực hành, có trường hợp giảm nhẹ.Sau phần quy định về điều học, có phần phân tích về từ ngữ và về các trường hợp vi phạm hoặc không vi phạm. Phần này cần phải xem xét kỷ lưỡng để có thể hiểu được chính xác về điều học. Ngoài ra, có phần các câu chuyện dẫn giải ở 4 giới Pārājika và 5 giới đầu của Saghādisesa giúp cho hiểu rõ hơn về sự vi phạm tội. Khi đọc các câu chuyện này nên liên hệ với phần phân tích ở phía trước để thấy được sự phán quyết của đức Phật. Một điều quan trọng cần lưu ý rằng đối tượng chính của các điều học này là hạng tỷ-kheo được tu lên bậc trên bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư, đầu tiên là vị Bà-la-môn đã được tu lên bậc trên với ngài Sārīputta do việc bố thí một muỗng thức ăn (Đại Phẩm – Mahāvaggatập 1, chương I, [85]).

Trong việc nghiên cứu Tam Tạng Pāli, các bộ Chú Giải Aṭṭhakathā liên quan cũng cần được xem xét để có thể hiểu đúng những điều đã được kết tập thuộc về Chánh Tạng; ngoài ra còn có các bộ Ṭīkā (Sớ giải) phân tích về những điểm cần giải thích thêm trong Aṭṭhakathā, sau đó mới nói đến các bộ sách được soạn thảo theo chuyên đề. Theo tinh thần đó, trong khi học tập về Tạng Luật (Vinayapiṭaka), chúng tôi thường tham khảo và hiểu theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa ở bộ Chú Giải Samantapāsādikā. Ngài Buddhaghosa được xem là Nhà Chú Giải Sư vĩ đại, vĩ đại vì ngài là người đầu tiên tổng hợp lại các bộ Chú Giải đã có trước, cũng có thể do số lượng tài liệu ngài đã thực hiện là nhiều hơn so với các nhà chú giải khác, cũng có thể vì ngài đã soạn nên bộ sách nổi tiếng Visuddhimagga(Thanh Tịnh Đạo) được xem như đã cô đọng lại những gì tinh hoa của lời Phật dạy. Ngài Buddhaghosa đã hoàn tất phần chú giải về Tạng Luật và Tạng Diệu Pháp. Về Tạng Kinh, ngài đã hoàn tất phần chú giải của Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, và một số trong Tiểu Bộ Kinh. Cuộc đời của ngài chỉ được ghi lại ngắn gọn trong nhiều tài liệu, văn bản cổ nhất được biết đến là Mahāvaṃsa (chương 37) là bộ sử ký của xứ Sri Lanka được ghi lại bằng ngôn ngữ Pāli. Ngài Buddhaghosa sanh ở vùng lân cận của Bodh Gayā (nơi đức Phật thành đạo) ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch. Ngài xuất thân dòng dõi Bà-la-môn và thông thạo ba bộ Vệ Đà. Lúc còn thanh niên thường đi đó đây để tranh luận, do bị thua ngài Revata nên đã xin xuất gia và trở thành tỷ-kheo. Khi thấy được ước nguyện của người học trò về việc soạn thảo các bộ chú giải Tam Tạng, ngài Revata đã gợi ý nên sang đảo Laṅkā (Sri Lankā ngày nay) vì toàn bộ kinh điển và chú giải được ngài Mahinda đem sang truyền giáo ở đó (thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch) vẫn được lưu truyền và phát triển. Tại đảo Laṅkā, trước tiên ngài Buddhaghosa đã soạn bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) rồi trình lên các ngài trưởng lão ở Mahāvihāra (Đại Tự) để chứng tỏ khả năng và đã được phép sử dụng các tài liệu lưu trữ trong tu viện phần nhiều bằng tiếng địa phương (ngôn ngữ Sīhaa) để thực hiện việc tổng hợp lại các bộ chú giải và dịch sang ngôn ngữ của xứ Magadha (Māgadhānaṃ niruttiyā) nhằm đem lại lợi ích cho tất cả thế gian (Ngôn ngữ sử dụng trong Tipiṭaka (Tam Tạng) mới được các nhà học giả phương Tây gọi là ngôn ngữ Pāli vào thời gian sau này). Sau khi thực hiện các công trình trên, ngài Buddhaghosa đã rời đảo Laṅkā để trở về đảnh lễ cội Đại Bồ Đề ở quê hương. Nghe đâu, có các tài liệu khác cho rằng ngài Buddhaghosa qua đời ở Miến Điện, có tài liệu nói ở Cam-pu-chia.

* * *

Bản dịch Suttavibhaṅga của chúng tôi được thực hiện và trình bày theo văn bản Pali La tinh từ đĩa CD BUDSIR IV của trường đại học Mahidol ở thủ đô Bangkok, Thái Lan. Phần mục lục chúng tôi thực hiện theo các chữ số đánh dấu ở đầu mỗi vấn đề; trình bày theo cách này sẽ giúp quý vị tiết kiệm được thời gian trong việc xác định vấn đề cần tham khảo.

Bản dịch này được hoàn thành là một sự nỗ lực học tập của bản thân và việc mạnh dạn giới thiệu đến quý vị không ngoài mục đích là hy vọng sẽ nhận được những lời chỉ dạy của các bậc cao minh và các sự khuyến khích góp ý của quý độc giả. Tuy đã nỗ lực tối đa nhưng chúng tôi biết rằng bản dịch này vẫn còn nhiều sai sót, chỉ mong sao có thể giúp được quý vị độc giả phần nào kiến thức về Phật học dựa vào nguồn tài liệu gốc đã được kết tập lại vì lợi ích của nhiều người, vì lợi ích của chư thiên và nhân loại. Rất mong nhận được ý kiến của quý vị. Xin email về: dinda@u.washington.edu.

Xin chân thành ghi nhận công đức của Thượng Tọa Tiến Sĩ Bửu Chánh về đĩa CD Tam Tạng BUDSIR IV. Chúng tôi cũng xin tán dương công đức của Đại Đức Giác Hạnh về đĩa CD Tam Tạng Chattha Saṅgāyana, đồng thời đã cho mượn dài hạn các bản dịch tiếng Anh của Cô I. B. Horner và bộ Vinayamukha của ngài Mahāsamaṇa Chao (Thái Lan) đã được dịch sang tiếng Anh; nhờ có trong tay số tài liệu này chúng tôi mới mạnh dạn để tiếp tục việc nghiên cứu Luật Tạng và ghi lại bằng tiếng Việt. Đĩa CD Buddhasāsanā, quà biếu của Dr. Bình Anson, đã đóng góp phần công đức không nhỏ, nhờ những tài liệu quý giá như The Buddhist Monastic Codecủa Thanissaro Bhikkhu cũng như các tài liệu về Luật bằng tiếng Việt của quý ngài Hòa Thượng Hộ Tông, Hòa Thượng Bửu Chơn, v.v...

Chúng tôi cũng xin ghi nhận sự ủng hộ nhiệt tình của Đại Đức Hộ Phạm, đã hy sinh nhiều thời gian cùng chúng tôi suy nghĩ để tìm ra phương thức giải quyết cho những gút mắc về văn phạm cũng như từ ngữ. Cũng cần nhắc đến các sự ủng hộ và lời động viên thăm hỏi của các vị: Ven. Cittānanda, Ven. Khánh Hỷ, Ven. Chánh Kiến, ni sinh Huyền Châu, Dr. Bình Anson, bà Diệu Đài, anh Phạm Trọng Độ, chú Nguyễn Hữu Danh, gia đình Nguyễn Ngọc Vivian, gia đình Lê Thị Tích. Không có sự khích lệ của quý vị, bản dịch này không thể hoàn thành. Mong sao các ước nguyện của quý vị sẽ được thành tựu như ý và nhanh chóng y như việc chúng tôi đã hoàn tất bản dịch này.

Công đức này xin dâng đến Hòa Thượng trụ trì và chư Tỷ-kheo chùa Sri Jayawardhanaramaya, Colombo, Tích Lan đã bảo bọc và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong công việc học tập và nghiên cứu Phật Pháp trong thời gian qua.

Mong sao hết thảy chúng sanh đều được tiến hóa trong ánh hào quang của Chánh Pháp.

Colombo, ngày 25 tháng 03 năm 2004
Bhikkhu Indacanda
(Trương đình Dũng)

---o0o---

Lưu ý: Đọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)

Nguồn: www.budsas.org

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567