Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển hạ

24/06/201318:14(Xem: 9930)
Quyển hạ

Pháp Mật Yếu Trị Bệnh Thiền

Quyển hạ

Việt dịch: Thích Nguyên Xuân

Nguồn: Hán dịch: Cư sĩ Thư Cừ Kinh Thanh, đời Tống

Pháp trị thích âm nhạc:

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Nếu bốn bộ chúng thích các âm nhạc, kệ xướng (hát) không chán, do đó động phong, buông lung như ngựa, cũng như chó mùa thu, giống như nai chúa Y-ni-lợi, mê muội ngu si, tâm giống như hồ nhão, nơi nơi đều đắm trước, không thể kềm chế, phải mau trị gấp.

Pháp trị bệnh ấy, trước hết tưởng một thiên nữ đoan chánh vô song, hai tay tự nhiên cầm các nhạc khí phát ra vạn thứ âm thanh. Hành giả đã thấy thiên nữ này hơn sắc bên ngoài trăm ức vạn lần, nghe âm thanh cõi trời, nhạc đời không sánh bằng. Do đó thích nhìn sắc, nghe âm thanh, vì vậy nên dạy: Do nhìn người nữ này mà sáu tình, các căn (hành giả) phát khởi cảnh giới. Vì sức sổ tức nên thấy dễ mến, mắt sanh sáu rắn độc, từ con mắt đi ra, vào trong lỗ tai; lại thấy hai con trùng hình dáng như cú mèo, kêu lớn tiếng khó nghe, phá đầu xuất não, giành lấy để ăn. Ngoài bốn căn thì thấy mèo, chuột, thấy chó giã can giành nhau ăn. Do đó thấy sắc của tất cả người nữ, ba mươi sáu vật bày ra sự nhơ nhớp. Loài giun trong tử tàng là anh lạc của người nữ, thấy người nữ cầm các nhạc khí có phân vận hành ở trong. Các trùng làm trống khua động, làm giã can kêu, nói việc yêu quái không thể lắng nghe. Giống như tiếng khóc của La-sát, vậy nên nhàm chán, đến chỗ người trí nói việc tạo nghiệp ác bất thiện trước đó, thành tâm sám hối. Người trí nên dạy quán vô thường.

Phật bảo Xá Lợi Phất:

- Ông khéo thọ trì pháp trị thích âm nhạc này, cẩn thận chớ quên.

Khi ấy Xá Lợi Phất và A-Nan... nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.



Pháp trị thích ca tụng khen ngợi:

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Hành giả nào thích làm kệ tụng, dùng âm thanh hay để tán thán, giống như gió lay lá cây Sa-la phát ra âm thanh hòa nhã, tiếng như phạm âm, làm vui tai người, tạo từ ngữ vừa ý khiến cho người vui. Do ảnh hưởng của gió (phong đại) nên cống cao kiêu mạn, tâm như cỏ loạn theo gió phiền não, chốn chốn không yên, phất cờ kiêu mạn, đánh trống tự đại, thổi động các mạch, do đó phát cuồng, như khỉ vượn cuồng si hái bẻ hoa quả, tâm không tạm dừng, không thể đếm hơi thở, nên gấp trị ngay.

Pháp trị như vầy: Trước nên tưởng mười bảy lá cờ báu trên cao, có Càn-thát-bà ở ngay giữa cờ, thân như ngọc trắng, thân động, đọc kệ. Lỗ chân lông trong thân hiện ra hoa sen lớn, trăm ngàn Tỳ-kheo trên hoa sen, vạn thứ âm thanh vượt cách thân mình trăm ngàn vạn lần. Nhờ đó mà sự kiêu mạn dần dần chấm dứt. Bậc trí nên dạy cho hành giả quán kỹ cờ đoan nghiêm, thấy cờ đoan nghiêm, gương pha-lê sáng, các Tỳ-kheo... nương vào tiếng kiêu mạn mà tâm bất tịnh ấy hóa làm La-sát phát ra tiếng thô ác, lửa từ miệng hiện ra. Lại có Dạ-xoa từ bốn phương đến, kéo lưỡi lấy tim đặt trên ngọn cờ, tâm bị giao động, khóc la kêu gào như voi say rống. Hoặc nói tiếng nhỏ như Tỳ-xá-xà ngâm vịnh. Nhờ đó mới xem các âm thanh hay, như tiếng người kêu tên cha mẹ mình mà mắng chửi vô đạo... do đó mà nhàm chán, tai không thích nghe, sanh tưởng yểm ly. Người trí nên dạy quán tám khổ. Quán tám khổ như đã nói.

Phật bảo Xá Lợi Phất:

- Ông khéo ghi nhận pháp trị ca tụng khen ngợi, cẩn thận chớ quên mất.

Khi ấy, Xá Lợi Phất và A-Nan... nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.



Pháp trị thủy đại cường thịnh:

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Bốn chúng nào vào chánh định thủy, khắp thân thể nước chảy ra, không thấy thân tâm, giống như biển cả. Khi ra khỏi định, ăn uống không ngon, bệnh tâm nhiệt thấp, mạch nước tăng động, bệnh nhiệt hạ không (bớt), nên gấp trị ngay.

Pháp trị bệnh ấy: Tưởng một con chim sí-điểu, Tỳ-kheo ngồi trên, dạo chơi trên biển cả không có sợ hãi. Các rồng, La-sát đều kinh sợ chạy, chim bắt rồng ăn, rồng sợ kinh khủng, hút hết nước, hóa thành bốn con rắn. Vua kim-sí-điểu miệng ngậm bốn con rắn. Tỳ-kheo ngồi trên, tìm nước không được, mắt vua kim-sí-điểu phát ra lửa đốt rắn, các rắn kinh sợ, giống như người ảo thuật hóa ra người huyễn rồi ẩn mất không hiện, vào thân Tỳ-kheo, từ đó xuất định. Nên uống thuốc đoạn hạ ở đời để trị: tưởng hai hạt châu lửa, một ở dạ dày phế quản để ấn các mạch, một ở phẩn môn, hình dáng giống như hạt đá nhiệt. Tưởng thần núi Tuyết tên Uất-đa-già, thân cao sáu trượng, trắng như ngọc kha tuyết, cầm vị thuốc hương tên là Sa-ha-na-già trao cho hành giả. Khi uống thuốc này, trước phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Uống thuốc một lần thì bệnh bốn trăm lẻ bốn mạch trọn đời không còn tái phát, huống chi là giảm bệnh. Nếu khiến cho vị thần ấy sớm đến thì phải tắm rửa sạch sẽ, không ăn ngũ vị tân, không uống rượu, không ăn thịt, ở chỗ yên tịnh, nhất tâm đếm hơi thở, gọi tên vị thần, nhớ nghĩ tượng thần kia từ một ngày đến bảy ngày. Ðại thần núi Tuyết cùng mười hai vị thần Bạch quang... đến trước hành giả, trước hết thuyết pháp, sau trao cho (hành giả) thuốc. Lại dạy mười hai pháp thiền. Các vị thần kia đều là đại Bồ-tát ngũ địa. Nếu hành giả bệnh thì trước phải niệm vị thần Uất-đa-la-già kia, sau đó niệm vị thần dõng kiện, thần cường lực, thần hùng mạnh, thần Trí hạnh, thần Tự tại, thần Thiện Tý, thần Cưu-ma-la, thần Nan thắng, thần Bạch quang minh, thần Bạch quang minh vương, thần Dược vương... mười hai vị thần Bạch quang. Ðã được thấy rồi, đối với mỗi vị thần đều hỏi pháp môn khác nhau. Các vị thần kia... trước phải cho hành giả được thấy Bồ-tát Di Lặc. Ở chỗ Bồ-tát Di Lặc thấy Văn Thù Sư Lợi... tất cả các Bồ-tát và mười phương Phật. Nếu người ấy ở quá khứ không phá bốn trọng giới, hiện tại không phá bốn trọng giới, khi thấy các vị thần thì thấy liền được dấu đạo. Nếu hành giả phạm giới thì các thần vương dạy sám hối đủ một ngàn ngày, rồi sau đó được thấy Bồ-tát Di-Lặc và Văn Thù Sư Lợi, các đại sĩ... Sau được dấu đạo.

Phật bảo Xá Lợi Phất:

- Nếu có hành giả vì thủy (đại) đi xuống động bốn trăm lẻ bốn mạch nên bệnh, muốn được trị thì phải uống Sa-ha... các thuốc trừ bệnh, không còn hoạn nạn, diệt hết biển nghiệp chướng ngại, chóng thấy dấu đạo. Vì thế các ông khéo thọ trì, cẩn thận chớ quên mất.

Khi ấy A-Nan, Xá Lợi Phất... nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.



Pháp trị đau đầu, đau mắt, điếc tai do hỏa đại:

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Hành giả nào nhập vào hỏa tam muội, từng đốt từng đốt bị lửa thiêu, ruột già ruột non cùng lúc bốc cháy, thiêu đốt mạch lửa. Khi xuống định, đầu hơi đau, các mạch co rút, mắt đỏ, tai ù, do đó phát bệnh, nên gấp trị bệnh.

Pháp trị bệnh ấy: trước hết tưởng một cái vò bằng lưu ly đầy nước đủ màu, sanh hoa tạp bảo, trên mỗi hoa có trăm ngàn hóa Phật, các hóa Bồ-tát đều phóng bạch hào, chiếu các ánh sáng lửa, khiến cho các ánh sáng ấy hóa thành rồng vàng. Hành giả thấy rồi, liền sanh hoan hỷ, khởi niệm tưởng vò, đặt lửa ở dưới, đài hoa ở trên. Hành giả đến chỗ Phật rồi, dùng tay vin vò, tay liền mát mẽ. Vì thế nhấc thân đến gần bên vò, đảnh lễ Phật, liền thấy hóa Phật phóng ánh sáng giữa chặn mày, mưa nước cam lồ, tưới khắp các đốt, nơi nào được giọt cam lồ tưới liền hóa thành lưu ly. Ruột già, ruột non nhờ nước cam lồ rưới đầy nên lửa đỏ tắt dần, sanh các hoa báu, hoa báu có ánh sáng màu hồng và trắng. Lại nên tưởng một vị Ma-hê-thủ-la cỡi trâu màu vàng ròng, cầm bình nước báu, đến trước hành giả, trong nước có các vị thuốc, thuốc tên phá độc, cho hành giả uống. Lại cầm một hạt châu tên là Chiên-đà-la-ma-ni (đời Tống gọi là Nguyệt Tinh) để trên đảnh đầu, chảy ra các thứ thuốc, nhỏ vào tai mắt mũi, chỉ thấy một lần, liền được lành bệnh. Ma-hê-thủ-la là đại Bồ-tát, thường du hý trong tam muội Thủ-lăng-nghiêm. Ở giữa chặn mày liền phóng đại quang minh, hóa thành tượng Phật, năm trăm vị tiên hầu quanh Thế Tôn, vì hành giả nói pháp cam lồ trị bệnh,bảo Xá Lợi Phất: “Ông khéo thọ trì cẩn thận, chớ quân mất”. Bấy giờ Xá Lợi Phất và A-Nan... nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.

Pháp trị bệnh nhập tam muội đất thấy các việc không lành sợ hãi mất tâm:

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Hành giả nào nhập tam muội đất, thấy bốn hướng như mặt núi đen giữa các núi uy nghiêm, có vô biên Cưu-bàn-trà ngồi xoạc chân trên đất cứng, hiện hình xấu ác, thân có phần đoan nghiêm. Lại có năm núi, Dạ-xoa giành nhau đến, tranh lấy núi ấy. Các Cưu-bàn-trà đau đớn sợ hãi, khẩn thiết kêu tiếng ghê rợn, hướng đến hành giả. Lại thấy các quỷ đầu tóc rối bời, cầm gậy sắt lớn, trên gậy có núi, đến chỗ hành giả. Lại thấy Dạ-xoa vác núi múa. La-sát cầm cây đến chỗ Dạ-xoa, La-sát sân hận cùng Dạ-xoa đánh nhau. Tỳ-xá-giá quỷ đầu đội núi đen, miệng ngậm xác cọp. Hành giả thấy rồi, giật mình, lông tóc dựng đứng, do đó sợ hãi. La-sát hung hăng cùng Dạ-xoa đánh nhau. La-sát đắc thắng, cắt đầu Dạ-xoa, chân tay Tỳ-xá-giá dùng làm chuỗi anh lạc, thân Cưu-bàn-trà dùng làm tràng hoa, reo hò múa máy trên đất. Răng chó bên trên hiện ra như nhành cây kiếm, trong mắt có mưa đá, phát ra lửa sấm sét. Dạ-xoa lại thắng, nắm La-sát lạn da mặt, khoét lấy nữ căn, chặt thân Cưu-bàn-trà, chân tay Tỳ-xá-giá dùng làm tràng hoa, vòng qua tai cổ, múa máy trên đất, thân lắc lư kêu lớn tiếng, rất ghê rợn, thật đáng sợ.

Lại thấy thần bốn biển lớn được mẹ sanh ra đến Lầu Tỳ Mâu nằm ngữa trong nước biển, có đến ngàn đầu, mỗi đầu hai ngàn tay chân, vuốt ve bốn phía thân, hiện ra nữ căn sâu thẳm, rất đáng sợ, như núi huyết đồ, các sợi lông của nó rất gớm, hình dáng như thân cổ thụ kiếm, trong sanh ra cây cổ thụ như rừng núi kiếm, trăm ngàn vô lượng tai lừa, đầu trâu, miệng sư tử, chân ngựa, đuôi chó sói, thân Cưu-bàn-trà, các quỷ như vậy... từ trong núi xuất hiện.

Lại thấy rồng lớn trăm ngàn đầu, dài hàng mười do-tuần, từ trong núi hiện ra.

Thấy một con quỷ giống như trăm con thú, dáng như sư tử, có một vạn chân, giữa móng chân có vô số trăm ngàn rắn độc trong đó hiện ra.

Lại thấy ngạ quỷ thân hình dài lớn mười ức do-tuần mữa độc và lửa, vác các núi, trong đó hiện ra.

Lại thấy ngàn chó sói nối đuôi nhau, thân thể quái lạ, răng như đá nhọn từ trong hiện ra.

Lại thấy ngàn hổ đuôi cũng có đầu, hợp với thân đi nghiêng, từ trong hiện ra.

Lại thấy Long nữ trang sức bằng anh lạc, vẻ đẹp hiếm thấy, từ trong đó đi ra, bị Dạ-xoa bắt ăn; chồn, mèo, chuột, chuột nhắt, khỉ, vượn, chó hoang, hồ ly, quỷ mị, ác quỷ, tất cả ác thú đều từ trong đó hiện ra.

Ðịa ngục A-tỳ, thần núi Yên Tiêu, mười tám vị thần địa ngục, chín ức ngưu Ðầu A Bàn, tám mươi ức ngạ quỷ, năm trăm ức giun trùng, ngàn ức giòi nhà xí, các tướng trạng biến hóa như vậy...

Quỷ thần xấu ác, hoặc cầm núi đao, hoặc nắm cổ thụ kiếm, hoặc dời núi Tu-Di, hoặc làm chấn động núi Thiết Vi, giống như núi Càn đà...

Hành giả tự thấy thân đầy địa đại, ba trăm ba mươi sáu đốt đều như núi cao đến cõi Vô sắc, trong rốn chảy ra nước. Rắn độc bốn đại đùa giỡn trong nước, trong miệng phóng lửa, mười ác La-sát chạy ở trong lửa, trong tai thổi ra gió, phẩn môn gió đi ra, thổi động các núi. Tất cả quỷ thần đến đều sân hận, chảy nước mắt. Do đó hành giả kinh sợ, vui mừng phát bệnh cuồng loạn. Nếu thấy việc này nên gấp trị ngay.

Pháp trị như vầy: Trước hết tưởng một mặt trời cùng với Nhật thiên tử trong cung điện bốn báu, đánh trăm ngàn kỹ nhạc ở trên núi đen chiếu sáng núi đen, làm cho dần dần sáng bừng. Tưởng một mặt trời đã thành, lại tưởng hai mặt trời. Tưởng được hai mặt trời rồi, lại nên tự quán xương trắng của thân mình, ba trăm ba mươi sáu đốt trắng như núi tuyết, mặt trời chiếu núi tuyết.

Lại tưởng trên đảnh có Nguyệt thiên tử với cung điện bằng bốn thứ báu, trăm ngàn quyến thuộc cầm châu mặt trăng để trên đảnh đầu hành giả. Tưởng này thành rồi, tưởng hòn núi thứ ba.

Lại có một mặt trời như trên không khác. Ðã thấy mặt trời này, lại tưởng xương trên đảnh trắng như núi tuyết. Bắt đầu y như trước.

Lại có một mặt trăng, đã thấy mặt trăng rồi, lại tưởng trên hòn núi thứ tư có một mặt trời chiếu sáng núi đen này.

Ðã thấy mặt trời rồi, nên tưởng ba trăm ba mươi sáu đốt của thân mình như núi xương trắng, các xương hướng đến nhau (bốn xương đối nhau), giữa mỗi mỗi xương có một mặt trăng sáng, tay thiên tử cầm hai hạt châu giữ ở hai hướng. Như vậy các đốt ở giữa mỗi xương đều ứng hợp với khoảnh khắc tim dừng trong mười hơi thở ra vào. Quán kỹ khiến thấy rõ ràng, thấy mỗi mỗi đốt có hai mươi tám vì sao sáng suốt rất đẹp, như bảy hạt châu quý báu.

Tưởng này thành tựu, lại tưởng một vua chim sí-điểu vàng đầu đội châu ma-ni, nắm bắt bốn con rắn và sáu con rồng. Rắn sợ khiếp, rồng chạy... kinh động một lúc, trạng thái như tối đen, đều do quả báo đời trước phá giới, cần phải sám hối giới cấm nghiêm tịnh. Nhờ giới cấm tịnh, ánh sáng mặt trời mặt trăng sáng rỡ, sáng tỏ gấp bội. Nếu tâm nghĩ ác, miệng nói lời ác phạm Ðột-kiết-la thì trên châu ma-ni sẽ mưa đất đen, mặt trời mặt trăng dính bụi, tinh tú không vận hành. Vua A-tu-la chín trăm chín mươi chín tay, ngàn đầu, cùng lúc xuất hiện, che khuất mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Ðây gọi là thối, vì dao ác tâm, lửa ác khẩu, bị giặc phá giới cướp đoạt. Nếu muốn uống thuốc thắng cam lồ này, trước phải trì giới, các oai nghi thanh tịnh, sám hối nghiệp chướng, tội ác bất thiện.

Lại phải buộc tâm buộc ý ngồi ngay ngắn một nơi, đếm hơi thở, bế khí, quán ba trăm ba mươi sáu đốt y như trước, làm cho một đốt mỗi xương hướng về nhau, quyến thuộc mặt trăng, tinh tú... cũng như trên đã nói, tâm trở nên sáng suốt, nhạy bén, thấy ở giữa mỗi đốt, ánh sáng của mặt trăng như áo, tinh tú như sợi tơ, may liền lại với nhau; thấy bốn mặt trời hiện ra, bốn biển, nước lớn ba phần giảm xuống còn hai phần; thấy năm mặt trời xuất hiện, núi Tu Di chảy tan hết, biển lớn khô cạn; thấy sáu mặt trời hiện, tưởng các núi này dần dần chảy tan hết; thấy bảy mặt trời xuất hiện, các hang động trong đất bốc cháy. Các quỷ La-sát bay đứng trong không trung, cho đến cõi Dục, cờ lửa theo sau. Họ lại đến cõi Sắc, lửa cũng theo đến. Sắp đến cõi Vô sắc, tay chân cháy khét, còn lưu lại rơi ở trong lửa, tiếng rống rất đáng sợ, chấn động cõi đất (khi nhập vào tam muội này, đại địa chấn động đôi chút như bánh xe quay), phải mau giữ tâm tưởng ba trăm ba mươi sáu đốt, như núi kim cương, hình dáng rất đẹp, hơn núi Tu-di; đất nước gió lửa không thể làm lay động; chỉ thấy bốn con rắn ngậm châu ma-ni ở giữa núi xương.

Khi ấy, trước hết phải tưởng ảnh Phật, thấy ranh giới của kim cương, cờ kim cang đoan nghiêm, có gương ma-ni, bảy vị Phật ở quá khứ ảnh hiện trong gương. Lại phải quán lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Tỳ Bà Thi, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Thi Khí, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Ðề Xá, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Câu Lưu Tôn, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Na Hàm Mâu Ni, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Ca Diếp, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thấy lông trắng giữa chặn mày của bảy vị Phật, sắc như pha-lê. Nước rất mát mẻ, tẩy rửa các đốt xương, ba trăm ba mươi sáu đốt. Nước của bạch hào tẩy rửa sáng sủa, cực trắng, màu sắc tinh khiết, tươi đẹp vi diệu, như gương pha-lê, không có vật gì có thể ví dụ, nhờ đó lại thấy năm bánh xe bằng kim cương, ở trên cờ bằng bảy báu đoan nghiêm từ phương dưới hiện lên, quay vòng tròn trên không trung, nói nghĩa bốn đế. Tuy thấy nghe việc này nhưng phải nhất tâm quán núi xương trắng của thân mình, liền thấy Phật Thích Ca Mâu Ni dùng nước trong lọ tắm, xối trên đảnh đầu, sáu đức Phật kia cũng vậy.

Khi ấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Này pháp tử! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là khổ, không, vô thường, vô ngã, ngươi nên quán kỹ”.

Lại giảng rộng về pháp không, vô tướng, vô tác, vô nguyện, nói thân không tịch, bốn đại vô chủ, năm ấm không nhà, rốt ráo tịch diệt, đồng với hư không. Nhờ đó liền ngộ vô thường hủy hoại thế gian. Quán bốn chân đế, trong khoảnh khắc năm hơi thở ra vào, phá hết hai mươi ức kiết sử thiêu đốt, thành Tu-đà-hoàn. Trong khoảnh khắc mười hơi thở ra vào, thoát khỏi các dòng chảy của dục, thành Tư-đà-hàm. Trong khoảnh khắc mười hơi thở ra vào, đoạn các độn sử, kiết sử của Dục giới, Sắc giới, các kiết sử căn bản, không còn trở lại Dục giới, thành A-na-hàm. Ở khoảnh khắc trong mười hơi thở du hý trong pháp không, tâm không còn bị buộc ràng ngăn ngại, tương ứng ở trong ba mươi bốn tâm, giải thoát mười cội rễ (thập sử), không diệt không hoại, xô ngã chín mươi tám núi kiết sử. Tướng đại đại dõng mãnh, cờ pháp tuệ sáng, từ bốn phương đến, tòa kim cương báu từ phương dưới hiện lên, cùng nhau hợp lại, rộng nói pháp không, năm bánh xe kim cương trụ bên gối phía trái, tự nhiên giảng thuyết rộng chín vô ngại, tám pháp giải thoát. Thanh văn quá khứ đều vào tam muội Tỳ-lưu-ly, đứng ở trước mặt hành giả. Phật Thích Ca Mâu Ni vì hành giả giảng thuyết rộng về nghĩa vi diệu của cảnh giới kim cang thí định. Ở trong sự tĩnh lặng đó, không còn thấy thân tâm, nhập vào kim cang tam muội, từ kim cang tam muội thức dậy, núi kiết sử tan rã, gốc phiền não dứt sạch, sông vô minh khô cạn, diệt nô lệ già chết, đối với vấn đề sanh vĩnh viễn chấm dứt. Phạm hạnh đã lập, như luyện vàng nguyên chất, không thọ các dục, việc làm đã hoàn tất. Ðó gọi là Ðại A-la-hán. Nếu người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mới thấy ánh sáng tướng lông trắng giữa của bảy vị Phật, thì mỗi mỗi ánh quang minh phân ra thành mười nhánh, hóa ra mười hoa báu, cây báu, đài báu xếp thành hàng trên không. Lúc ấy mười phương Phật cũng phóng ánh sáng như trên đã nói, rửa giữa các đốt xương, ở trong mỗi ánh sáng tướng bạch hào của Phật nói mười tám thứ pháp môn từ tâm, nói mười tám thứ pháp môn đại bi, nói mười tám thứ pháp môn đại hỷ, nói mười tám thứ pháp môn đại xả, dần dần tăng trưởng, dạy rồi tu tập bốn tâm vô lượng. Ðầy đủ bốn tâm vô lượng rồi, Phật vì hành giả thuyết mười thứ tâm sáng đầy đủ. Tâm sáng rồi dạy rằng: sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt mới không. Ðã quán không rồi, dạy sáu pháp Bồ-tát. Hành sáu pháp rồi, tu hành sáu niệm, niệm pháp thân Phật. Niệm pháp thân Phật rồi, phát khởi tâm hồi hướng. Tâm hồi hướng thành tựu rồi, lập bốn hoằng thệ nguyện, không bỏ chúng sanh. Bốn nguyện thành rồi, đủ giới Bồ-tát. Thành tựu Bồ-tát giới rồi, học tu tương tợ bố thí độ. Thành tựu (Ðàn-ba-la-mật) bố thí độ rồi, tu học tương tợ mười ba-la-mật. Tưởng này thành rồi, quán trong không ngoài không, thấy trăm ngàn vô lượng chư Phật ở ngay trước mặt, lấy nước rưới trên đầu, dùng lụa (dày) quấn lên đầu, thuyết pháp “không” cho (hành giả). Do đó mà ngộ tâm không, vào địa vị Bồ-tát. Ðây gọi là Tánh địa, cảnh giới ban đầu của Bồ-tát. Ðối với pháp này hay sanh tăng thượng mạn, cần phải biết điều này. Ðây chỉ là là tướng cảnh giới ban đầu của tâm Bồ-đề.

Phật bảo Xá Lợi Phất:

- Ðây gọi là pháp trị địa tam muội, diệt tăng thượng mạn, mẹ vô minh, tướng đáng sợ của tam độc. Ông khéo thọ trì cẩn thận, chớ quên mất.

Khi ấy, Xá Lợi Phất và A-Nan... nghe lời Phật nói hoan hỷ phụng hành.

Pháp trị phong đại:

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Hành giả nào nhập phong tam muội, tự thấy chín lỗ ở trong thân mình, giống như khe hang lớn, phát ra gió năm màu, lại thấy ba trăm ba mươi sáu đốt của thân mình trắng như núi tuyết, từng đốt xương gió hiện ra thây quỷ dựng đứng. Các thây quỷ tay cầm gậy sắt, lấy ngàn đầu lâu làm chuỗi anh lạc, cùng với chín mươi tám loài long quỷ đến chỗ hành giả. Hành giả thấy vậy tâm kinh sợ, rỡn tóc gáy. Do đó phát cuồng, hoặc bị bệnh hủi trắng, nên gấp trị ngay.

Pháp trị bệnh ấy: Trước hết nên quán núi Tuyết, núi Hương có bốn vị đại tiên, cả thảy đều là bậc đại Bồ-tát, tưởng thân các vị tiên ấy bằng vàng ròng, cao mười sáu trượng, một tay cầm hoa, một tay cầm bánh xe kim cương, miệng ngậm thuốc hương, hộ giá hành giả, không cho gió phát khởi. Tiên nhơn cầm hoa chú vào nước, hiện ra rồng, hút hết các gió, thân rồng phình lớn, nằm ngủ trên đất mãi không thể thức dậy. Nên quán rồng này giống như cây chuối, bẹ chuối bọc nhau không thể thở mạnh. Khi ấy Thế Tôn nói thần chú:

“Nam mô Phật-đà, nam mô Ðạt-ma, nam mô Tăng-già. Nam mô Ma ha lê sư tỳ xà la xà, ái đốt đà đạt đà, sa mãn đà, bạt xà la sí đà la, quật trà thệ trà, giá lợi giá lợi, ma ha giá lợi tra, ma lợi tra, ma lặc sí tất chẩm, bính diêm bính a diêm bính, lợi cứu cúc cúc, sí tát bà đà la ni, sí a phiến đề ma câu, lê ứng nghệ, tra di tra di, tra ma tra ma, bà họa ha”.

Khi ấy, Thế Tôn nói thần chú này rồi, bảo Xá Lợi Phất:

- Như thần chú này, vô lượng chư Phật quá khứ đã nói; hiện tại Ta cũng nói thần chú này; vị lai Di Lặc, Bồ-tát Hiền kiếp cũng sẽ tuyên nói công đức của thần chú này; như trời Tự-tại, có thể khiến cho đời sau trong năm trăm năm các Tỳ-kheo ác được tâm ý thanh tịnh, điều hòa, khéo trị bốn đại tăng giảm, cũng trị bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh trong tâm do bốn trăm lẻ bốn mạch phát sanh cảnh giới, chín mươi tám sử chủng tử tánh dục, cũng trị nghiệp chướng phạm giới và các ác, vĩnh viễn đoạn tận không còn sót lại. Ðây gọi là Ðà-la-ni khéo trị bảy mươi hai loại bệnh sầu não. Cũng gọi là Ðà-la-ni nhổ cội gốc vô minh năm ấm. Cũng gọi là pháp hiện tại thấy tất cả chư Phật và các Thanh văn giảng cho chơn pháp phá các kiết sử.

Khi ấy Thế Tôn nói kệ:

- Tánh pháp không chỗ nương
Quán không cũng như vậy
Nếu hay quán bốn đại
Không bị sử sát hại
Uống thuốc hành thiền định
Tụng Ðà-la-ni này
Nhất tâm niệm chư Phật
Kiết sử mãi không sanh
Biển phiền não khô hết
Sông ân ái cũng lìa
Nhân các dục không có
Tự tại là giải thoát.
Không họa, tâm tĩnh lặng
Du hý sáu thần thông
Cũng đem Ðà-la-ni Truyền dạy cho người khác.

Khi ấy Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo Xá Lợi Phất:

- Ông nay nên biết, sau khi Ta Niết-bàn, trong đời vị lai nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được nghe pháp thậm thâm mật yếu tịnh Thi-la (giới) này và phương thuốc trị các bệnh hành thiền định với Ðà-la-ni quang minh thắng tràng này, thì nên biết người này không chỉ ở một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật trồng các căn lành, mà từ lâu đã ở chỗ vô lượng trăm ngàn Phật tu tập ba thứ tâm Bồ-đề, nay mới được nghe pháp mật yếu sâu xa này, như lời dạy mà tu hành. Nên biết, người này gần đến thân tối hậu, giống như nước chảy mau, mau chóng đắc bốn quả Sa-môn và hạnh Bồ-tát.

Khi Phật nói lời ấy, năm trăm Thích tử tinh tấn gấp bội, đủ sáu thần thông. Trong thành Xá Vệ, đời trước, một ngàn vị Thủ-đà-la (nông dân) hành thiền phát cuồng, nghe lời Phật dạy, liền sanh vui mừng, đắc Tu-đà-hoàn, tám mươi ức chư thiên trị bệnh bốn đại, thân tâm không còn hoạn nạn, ngay lúc ấy liền phát tâm Vô thượng đạo, khắp nơi mưa thiên hoa rải trên đức Phật và các đại chúng. Khi ấy trong hội, trời rồng... tám bộ chúng nghe lời Phật dạy, khác miệng cùng lời nói như vầy:

- Như Lai xuất hiện ở đời chính là trị bệnh cuồng loạn, tàn ác, tà kiến của La-sát và con người, làm cho họ được bản tâm. Như tràng hoa đẹp, rất đáng ưa thích. Hay thay, Thế Tôn như hoa Ưu-đàm, đúng thời mới hiện một lần.

Khi ấy, chúng trong đại hội dùng kệ tán thán:

- Thái tử dòng mặt trời
Dòng dõi mần Cam giá
Cháu ngoại Tinh Quang Nguyệt
Con Ma-Da phu nhân
Sanh ra đi bảy bước
Chân bước động đại thiên
Mười phương các thần hiện
Ba mươi hai tướng lành
Bỏ nước như nước bọt
Ngồi ở Tất-bát-la (dưới cây Bồ-đề)
Ðạo tràng Kim cang thắng
Hàng phục vạn ức ma
Ðược thành đạo Bồ-đề
Mặt sáng như trăng rằm
Tâm dơ dứt vĩnh viễn
Con nay nhất tâm lễ
Tối thắng trong dòng Thích
Bậc từ bi bậc nhất
Hay khiến các chúng sanh
Thoát hẳn khổ sanh tử.

Bấy giờ, Thế Tôn nghe bốn chúng nói kệ này rồi, lần nữa ân cần dùng tay kim sắc xoa trên đảnh Xá Lợi Phất và A-Nan phó chúc việc này. Lúc ấy Xá Lợi Phất và A-Nan... cùng với các đại chúng nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.



Pháp trị người mới học tọa thiền mắc phải quỷ mị, các thứ bất an, không thể đắc định:

(Tôn giả A-Nan hỏi)

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Ðộc, thuộc nước Xá Vệ, chỗ cư ngụ của quỷ Na-lợi-lâu, giảng đường do Mạt Lợi phu nhân tạo dựng, La Tuần Du... một ngàn vị con của hàng trưởng giả mới xuất gia mời tôn giả A-Nan, Ma ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất... làm Hòa thượng. Ma ha Ca Diếp dạy một ngàn Tỳ-kheo niệm sổ tức nơi thanh vắng, mắc phải quỷ mị, thấy một quỷ thần mặt như đàn Tỳ-bà, bốn mắt, hai miệng, nghênh mặt, lắc lư, phóng ánh sáng, dùng tay đánh dưới hai nách và các chỗ khác trong thân (hành giả), miệng hát rằng: “phụ dịch phụ dịch” như bánh xe lửa quay, giống như tia sáng điện, chợt sanh, chợt diệt, làm cho tâm hành giả không an. Nếu thấy điều này nên gấp trị ngay.

Pháp trị bệnh ấy: Dạy hành giả này khi “phụ dịch” đến, nhất tâm nhắm mắt mắng thầm, nói như vầy: “Ta đã biết ngươi, biết ngươi ở trong Diêm Phù Ðề này, ăn lửa, ngửi hương (mùi thơm) trộm lạp-kiết-chỉ. Ngươi làm việc tà kiến, phá tụ giới cho là vui. Ta nay trì giới, vĩnh viễn không sợ ngươi”. Nếu người xuất gia, nên tụng bài tựa của giới. Nếu người tại gia thì nên tụng tam quy ngũ giới, bát giới, quỷ liền khúm núm bỏ đi.

Khi ấy A-Nan nghe lời này rồi, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, nay Tỳ-kheo con của trưởng giả này nhờ Thế Tôn dạy trị quỷ phụ dịch mà thoát khỏi các ác, không bị quỷ mị trói buộc. Tỳ-kheo đời sau, sau khi Phật Niết-bàn, trải qua một ngàn năm rồi, muốn dạy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tu sổ tức nơi thanh vắng, niệm định An-ban, nếu các quỷ thần làm loạn đạo, hóa ra hình chuột, hoặc đen hoặc đỏ, nắm tâm hành giả, cào chân hành giả, hai tay, hai tai, không chỗ nào mà không đụng đến, hoặc làm tiếng chim kêu, hoặc làm tiếng quỷ rên, hoặc lại trộm lời nói, hoặc có Hồ ly tinh mị hóa hình người phụ nữ trong sạch, trang nghiêm thân mình, xoa ấn thân cho hành giả được điều hòa, nói việc phi pháp. Hoặc hiện làm chó sủa tru vô độ, hoặc làm giống chim hung tợn, trăm loại giống chim kêu các thứ tiếng, chiếm lời gọi lớn, âm thanh không đồng, hoặc hiện làm trẻ nhỏ, trăm ngàn hành trạng, muôn sai vạn biệt, tạo các thứ âm thanh... đến chỗ hành giả. Hoặc (hành giả) thấy rận, ruồi, bọ chét, rắn hổ mang, hoặc vào trong tai như ong chúa kêu, hoặc vào trong mắt như cát rơi thẳng vào, hoặc chạm vào tim, làm các việc điên loạn, do đó phát cuồng, bỏ nơi thanh vắng, tạo hạnh phóng dật... Phải trị như thế nào?

Phật bảo A-Nan:

- Lắng nghe, lắng nghe! Khéo mà suy tư việc ấy. Ta sẽ giảng giải cho ông. Nếu trong bốn chúng mắc phải nạn quỷ này, ông nên thuyết pháp trị quỷ. Quỷ phụ dịch này có sáu mươi ba tên. Ở thời quá khứ, Phật Ca Na Hàm Mâu Ni có một Tỳ-kheo sắp đến Tu-đà-hoàn, do vì tà mạn nên bị Tăng đuổi, sân hận nên chết, tự thề làm quỷ cho đến ngày nay, làm não loạn bốn chúng, thọ mạng một kiếp, kiếp hết mạng chung, rơi vào ngục A-tỳ. Các ông ngày nay nên biết tên gọi (của họ), nhất tâm buộc niệm, chớ để họ làm loạn động.

Khi ấy Thế Tôn liền nói:

- Phụ dịch là ác Dạ xoa, cũng gọi là mộng quỷ. Khi mộng thấy phụ dịch đến liền thất tinh, nên sanh tâm sám hối: “Do nhân duyên ác đời quá khứ nên ta mới gặp ác quỷ hại và giặc phá giới này. Ta nay cầm roi tâm thúc liễm các tình, không cho phóng dật. Như quỷ thần này khi trụ trên không, gọi là quỷ hư không, ở trong giường mền gọi là phúc hành quỷ. Lại có ba tên: tên thứ nhất là Thâm-sách, Ca phục khưu Na khưu nê chỉ lệ phúc khứu A ma lặc ca sa họa ha, quỷ phương đạo, quỷ Ly mị, quỷ võng lượng (loài quỷ ở gỗ đá hóa ra), quỷ ăn mủ, quỷ ăn đàm dãi, quỷ thần nước, quỷ thần lửa, quỷ thần núi, quỷ thần vườn rừng, quỷ phụ nữ, quỷ nam tử, quỷ đồng nam, quỷ đồng nữ, quỷ sát-lợi, quỷ bà-la-môn, quỷ Tỳ-xá, quỷ Thủ-đà-la, quỷ bộ hành, quỷ tảo hành, quỷ cỡi xe, quỷ tai lừa, quỷ đầu cọp, quỷ tiếng mèo chuột, quỷ chim tu hú, bồ câu, quỷ tiếng cú mèo, quỷ chim sĩ giao (loài chim có chân cao, lông cánh nhọn như dao, màu xanh), quỷ chim giác chí (si). Hoặc lại hóa làm tám bộ quỷ thần, quỷ hư mạo, quỷ tám sừng, quỷ chuột trắng, quỷ Liên-hoa-sắc, quỷ hồ mị, quỷ mị, quỷ bách trùng tinh mị, quỷ tứ ác Tỳ-xá-giá, quỷ Cưu-bàn-trà..., như vậy các loại quỷ thần xấu ác sáu mươi ba loại, đó là tên của họ. Khi quỷ làm loạn, cần phải đếm hơi thở cho thật yên ổn, cần phải chí tâm niệm bảy vị Phật ở quá khứ, niệm danh hiệu của Phật ấy: “Nam mô Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Ðề Xá Phật, Câu Lưu Tôn Phật, Ca na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật”. Niệm danh hiệu bảy vị Phật rồi, cần phải trì tất cả âm thanh Ðà-la-ni.

Thế Tôn liền đọc chú:

- A di, a di ca lê xa toan địa lợi phục khí nậu. Sí du di tha du di, tha ma ha ca lâu ni ca di đa la bồ đề tát đỏa.

Nếu người bị loạn tâm do quỷ phụ dịch não loạn, hoặc tạo ra các loại cảnh giới hư huyễn thì cần phải tụng Ðà-la-ni này và danh hiệu của bảy vị Phật với danh hiệu của Bồ-tát Di-Lặc, nhất tâm sổ tức, trì tụng ba-la-đề-mộc-xoa (giới bổn) một trăm biến thì các ác quỷ này đều được điều phục, không còn não loạn bốn chúng hành đạo.

Phật bảo A-Nan:

- Ông khéo giữ gìn pháp tịnh thân khẩu ý, điều phục oai nghi, đuổi ác quỷ này, làm cho bốn chúng đệ tử được lớn mạnh, khiến họ không khởi niệm loạn, được vào tam muội, phải khéo thọ trì, cẩn thận, chớ quên mất.

Lúc ấy, tôn giả A-Nan nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.

- Lại nữa, A-Nan! Hành giả nào khi tọa thiền, hai tai mắc bệnh, đốt xương khắp thân đau nhức, hai lòng bàn tay ngứa, dưới hai chân đau, tâm hạ đông, gân chuyển, mắt hoa, lãnh địa của tỳ quỷ, nó đến đoạt lời hoặc rải hương hoa, làm các trò yêu quái, nên gấp trị ngay.

Pháp trị bệnh ấy: Trước hết phải quán hai vị Bồ-tát Dược vương, Dược Thượng tay cầm bình vàng đựng nước rưới thân (hành giả). Lại quán thần vương núi Tuyết cầm hoa trắng đến chỗ hành giả, che trên đảnh hành giả. Ánh sáng trắng chảy vào thấm nhuần chân lông và thân hành giả, liền được mềm dịu, không có tướng khác. Sau đó, thấy Xà Bà đồng tử cầm hoa Tiên nhơn rải trên hành giả, ở giữa mỗi hoa mưa các thứ thuốc vi diệu, thấm nhuần chân lông, các sự đau ngứa ở lá lách, mọi thứ đau khổ, âm thanh lời nói thì thầm, các bậc quỷ thần vĩnh viễn không còn. Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Dược Thượng thuyết pháp đại thừa bình đẳng cho hành giả. Tất cả thần vương núi Hương, núi Tuyết, Xà Bà đồng tử cũng tùy căn cơ hành giả mà thuyết giảng mười hai môn thiền, tùy theo bệnh sắc thuốc, cho phương thuốc chú thuật, nhờ thế mà được thấy tôn giả Tân Ðầu Lô và các La-hán, năm trăm Sa-di như Thuần Ðà Bà... Lúc ấy đồng đến chỗ hành giả, mỗi vị Thanh văn đều giảng các phương pháp trị bệnh, hoặc có La-hán nương lời Phật nói mà dạy cho Tỳ-kheo: khéo ở trên đảnh dần dần rỗng không, cử động thân (thấy) hoàn toàn không, dùng dầu tưới lên đảnh (hành giả). Phạm vương cầm thuốc, thuốc đó màu vàng ròng rưới khắp thân hành giả. Bồ-tát Dược Vương thuyết các pháp. Ai phát tâm Thanh văn thì theo lời dạy của Tân Ðầu Lô mà đắc Tu-đà-hoàn. Ai phát tâm đại thừa thì nương lời dạy của hai vị Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng, liền đắc tam muội chư Phật hiện tiền.

Phật bảo A-Nan:

- Sau khi Phật diệt độ, bốn chúng đệ tử nếu muốn tọa thiền, trước hết phải ngồi ngay ngắn, yên tịnh bảy ngày, sau đó tu tâm sổ tức bảy ngày. Lại phải uống thuốc trừ các bệnh này, trừ âm thanh. Ðịnh tâm giữ ý, tu tâm, tu thân, điều hòa các đại, không để mất thời giờ, nhất tâm nhất ý, không phạm giới khinh và oai nghi đối với việc trì giới, như bảo hộ mắt, như người bệnh nặng theo lời thầy thuốc bảo. Hành giả cũng vậy, luôn luôn tăng tiến, đừng để thối lui, như cứu lửa cháy đầu, thuận theo lời dạy của hiền thánh. Ðó gọi là thuốc trị bệnh để ấm thân.

Phật bảo A-Nan:

- Ông khéo thọ trì cẩn thận, chớ quên mất.

Khi ấy, tôn giả A-Nan nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.

Pháp Mật Yếu Trị Bệnh Thiền

Hết quyển hạ

(Trọn bộ)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567