- Kinh Tăng Nhất A-hàm (10 quyển)
- Kinh Tăng Nhất A-Hàm - Hai pháp
- Kinh Tăng Nhất A-hàm - Ba pháp
- Kinh Tăng Nhất A-hàm - Bốn pháp
- Kinh Tăng Nhất A-hàm - Năm pháp
- Kinh Tăng Nhất A-hàm - Sáu pháp
- Kinh Tăng Nhất A-hàm - Bảy pháp
- Kinh Tăng Nhất A-hàm - Tám pháp
- Kinh Tăng Nhất A-hàm - Chín pháp
- Kinh Tăng Nhất A-hàm - Mười pháp
Kinh Tăng Nhất A-Hàm
6. Phẩm Thanh tín sĩ [204]
Nguồn: Việt dịch: Thích Đức Thắng, Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ
KINH SỐ 1
Ưu-bà-tắc đệ nhất trong hàng đệ tử của Ta, người đầu tiên nghe pháp dược mà chứng thành Hiền thánh, chính là thương khách Tam Quả.[205]
Trí tuệ đệ nhất, chính là Gia chủ Chất-đa.[206]
Thần đức đệ nhất, chính là Kiền-đề A-lam. [207]
Hàng phục ngoại đạo, chính là Gia chủ Quật-đa.[208]
Thường nói pháp sâu, chính là Gia chủ Ưu-ba-quật.[209]
Thường tọa thiền tư duy, chính là Ha-Xỉ A-la-bà.[210]
Hàng phục bọn ma[211], chính là Gia chủ Dũng Kiện.[212]
Phước đức sung mãn, chính là Gia chủ Xà-lợi.[213]
Chủ đại đàn thí, chính là Gia chủ Tu-đạt.[214]
Thành tựu môn tộc, chính là Gia chủ Mẫn-dật[215].
Kệ tóm tắt:
Tam Quả, Chất, Kiền-đề,
Quật, Ba cùng La-bà;
Dũng, Đồ-lợi, Tu-đạt,
Mẫn-thố gọi là mười.
KINH SỐ 2
Ưu-bà-tắc đệ nhất trong hàng đệ tử của Ta, ưa hỏi nghĩa thú, chính là Bà-la-môn Sanh Lậu[216].
Lợi căṇ thông minh, chính là Phạm-ma-du.[217]
Tín sứ của chư Phật, chính là Ngự Mã Ma-nạp.[218]
Xét thân vô ngã, chính là Bà-la-môn Hỷ Văn Cầm.[219]
Bàn luận không ai hơn, chính là Bà-la-môn Tỳ-cừu.[220]
Hay sáng tác kệ tụng, chính là Gia chủ Ưu-bà-ly[221].
Nói năng nhanh lẹ, cũng là Gia chủ Ưu-bà-ly.
Thích bố thí của báu tốt, không có lòng tiếc, chính là Gia chủ Thù-đề. [222]
Kiến lập gốc thiện, chính là Ưu-ca Tỳ-xá-ly.[223]
[560a01] Hay nói pháp vi diệu, chính là Ưu-bà-tắc Tối Thượng Vô Úy.[224]
Những điều nói ra không sợ, khéo xem xét căn cơ mọi người, chính là đại tướng lãnh Đầu-ma[225] thành Ty-xá-ly.
Kệ tóm tắt:
Sanh Lậu, Phạm-ma-du,
Ngự-mã cùng Văn Cầm,
Tỳ-cừu, Ưu-ba-ly,
Thù-đề, Ưu, Uý, Ma.
KINH SỐ 3
Ưu-bà-tắc đệ nhất trong hàng đệ tử của Ta, vui ban ân huệ, chính là vua Bình-sa.[226]
Sở thí ít ỏi, chính là vua Quang Minh.[227]
Kiến lập gốc lành, chính là vua Ba-tư-nặc.[228]
Được tín tâm thiện vô căn[229], khởi lòng hoan hỷ, chính là vua A-xà-thế.[230]
Chí tâm hướng về Phật, ý không biến dịch, chính là vua Ưu-điền.[231]
Thừa sự chánh pháp, chính là Vương tử Nguyệt Quang.[232]
Cung phụng Thánh chúng, ý luôn bình đẳng, chính là vương tử Tạo Kỳ-hoàn[233].
Thường thích giúp người, hơn là tự vì mình, chính là vương tử Sư Tử.[234]
Khéo phụng kính người, không phân cao thấp, chính là vương tử Vô Úy[235].
Tướng mạo đoan chánh, đẹp đẽ hơn người, chính là vương tử Kê-đầu.[236]
Kệ tóm tắt:
Bình-sa vương, Quang Minh,
Ba-tư-nặc, Xà vương,
Nguyệt, Kỳ-hoàn, Ưu-điền,
Sư Tử, Úy, Kê-đầu.
KINH SỐ 4
Ưu-bà-tắc đệ nhất trong hàng đệ tử của Ta, thường hành tâm từ, chính là Gia chủ Bất-ni.[237]
Tâm thường bi niệm tất cả các loài, chính là Thích chủng Ma-ha-nạp[238].
Thường hành tâm hoan hỷ, chính là Thích chủng Bạt-đà.[239]
Thường giữ tâm không mất thiện hành, chính là Ưu-bà-tắc Tỳ-xà-tiên.[240]
Khả năng hành nhẫn nhục, chính là Đại tướng Sư Tử.[241]
Luận biện nhiều đề tài, chính là Ưu-bà-tắc Tỳ-xá-ngự.[242]
Im lặng như Hiền thánh, chính là Ưu-bà-tắc Nan-đề-bà-la.
Siêng tu hạnh lành không dừng nghỉ, chính là Ưu-bà-tắc Ưu-đa-la.
Các căn tịch tĩnh, chính là Ưu-bà-tắc Thiên-ma.[243]
Người chứng quả cuối cùng trong hàng đệ tử của Ta, chính là Câu-di-na Ma-la.[244]
Kệ tóm tắt:
Bất-ni, Ma-ha-nạp,
Bạt-đà, Ưu-đa-la,
Sư Tử, Tỳ-xá, Ly,
Ưu-đa, Thiên, Ma-la.
Bốn mươi Ưu-bà-tắc này, đều nên nói rộng như trên.