Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25. Tổ Bà-Xá-Tư-Đa (Basiasita) 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼

10/01/202104:03(Xem: 9076)
25. Tổ Bà-Xá-Tư-Đa (Basiasita) 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼



Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Tổ thứ 25 Bà Xá Tư Đa. Ngài là con của một tỷ phú ở miền Tây Ấn Độ, nước Kế Tân (hiện này là Cashmere), là người con do cha mẹ cầu tự. Lúc sanh ra cho đến 20 tuổi, bàn tay trái luôn nắm chặc. Bố mẹ thỉnh hỏi Tổ Sư Tử để biết nguyên nhân vì sao ?

Tổ thứ 24 Sư Tử nhìn vào Tư Đa và bảo "hãy gởi lại viên Ngọc như ý cho ta". Tư Đa liền mở bàn tay ra và trao viên Ngọc cho Tổ Sư Tử.
Tổ Sư Tử giải thích, trong một tiền kiếp, Tổ và đệ tử Bà Xá (tên kiếp trước của Tư Đa) đến Long Cung được cúng dường viên Ngọc, Tổ Sư Tử đưa Bà Xá giữ dùm. Lúc về, Bà Xá đi lạc, rồi qua đời.

Tổ thứ 24 Sư Tử ấn chứng truyền thừa cho Tư Đa là Tổ thứ 25 và có tên ghép tên kiếp trước Bà Xá và tên kiếp này Tư Đa thành tên Bà Xá Tư Đa.

Tổ Sư Tử trao cho tổ Bà Xá Tư Đa một y Tăng Già Lê làm mạng mạch truyền thừa.

Tổ thứ 25 Bà Xá Tư Đa rời nước Kế Tân, đi vào miền trung Ấn để giáo hoá.
Vua nước nầy hiệu là Ca-Thắng ra đón tiếp Ngài.Trong nước nầy trước có chúng ngoại đạo giỏi pháp thuật, ỷ tài khinh chê Phật pháp, người cầm đầu tên Vô-Ngã. Vua thấy thế bất bình, muốn thỉnh Ngài đến để nhiếp phục chúng. Vua mở hội nghị luận, chính vua làm chủ tọa. Vô-Ngã đến hội đề xướng mặc luận, không dùng lời nói. Ngài bảo: "-Ngươi nói chính là danh không phải nghĩa, thì danh nầy là danh gì ? "

Ngoại đạo đáp: "Vì biện cái phi nghĩa nên không danh mà đặt danh "

Ngài bảo: "Danh đã phi danh thì nghĩa cũng phi nghĩa, người biện là ai và biện vật gì ? "

Hai bên bàn qua luận lại như thế đến hơn năm chục lần, ngoại đạo mới dứt lời và nể phục Tổ.

Bỗng lúc ấy trong vương cung có mùi hương lạ bay đến, Tổ chợt nói: " Đây là tin đưa đến, thầy ta đã viên tịch".
Tổ liền xây mặt về hướng Bắc chấp tay đảnh lễ. Lễ xong Tổ tạ từ nói với vua: "thầy dạy ta qua Nam-Ấn để giáo hoa, nay ở lại đây đã lâu là trái ý thầy, xin tạm biệt Đại-Vương sang nơi ấy. Vua và quần thần đồng tiển Ngài sang Nam-Ấn.


Vua nước Nam-Ấn hiệu là Thiên-Đức nghe tin Ngài sang cũng sửa sang xe giá ra đón tiếp, thỉnh Ngài về hoàng cung. Nhơn vua có hai Thái-tử, vị lớn là Đức-Thắng thì thân thể mạnh khỏe mà tánh tình hung bạo, còn em thì hiền lành mà bệnh hoạn liên miên, sẵn dịp vua hỏi Ngài.Vua hỏi:

-Con trai tôi kính thờ Phật pháp, ưa làm việc lành, mà sao lại mắc bệnh kinh niên, vậy lẽ báo ứng lành dữ như thế nào ?

Ngài đáp: Kinh đã nói: "Nếu phải chịu nghiệp báo trong ba đường ác, nguyện đời nầy trả xong, để khỏi vào đường ác".

Vua Thiên-Đức tín nhận, càng phát tâm làm phước. Sau đó, Ngài từ giả nhà vua đi hoằng hóa nơi khác. Mười sáu năm sau, vua Thiên-Đức băng, Thái-tử Đức-Thắng lên nối ngôi.Vua Đức-Thắng tin theo ngoại đạo, chú thuật, nghe lời xúi dục của chúng, muốn làm khó Ngài.Thái-tử con vua Đức-Thắng tên Bất-Như-Mật-Đa biết được ác ý đó, liền đến can vua.

Thái-tử thưa:"Tôn-giả Bà-Xá-Tư-Đa xưa kia được ông nội kính trọng, nhiều người muốn hại còn không thể được, đạo đức của Ngài rất cao, xin phụ hoàng đừng làm khó Ngài".

Vua Đức-Thắng nổi giận cho Thái-tử theo phe Tôn-giả Bà-Xá-Tư-Đa liền bắt hạ ngục.
Sau vua cho thỉnh Ngài vào chánh điện.Vua cật vấn "Nước tôi không có pháp tà, thầy tu học về Tông phái nào ? "

Ngài đáp: "Tôi tu học theo tâm tông của Phật".

Vua hỏi: "Phật diệt độ đã một ngàn năm, thầy làm sao được tâm tông của Phật ?"

Ngài đáp:"Từ Phật truyền cho Tổ Ca-Diếp đã trải qua 24 đời đến thầy tôi là Tổ Sư-Tử, tôi được người truyền lại.

Vua hỏi: "Tôn-giả Sư-Tử đã bị giết, đâu thể đem pháp truyền cho thầy ? Nếu thầy thật được truyền thì lấy gì làm tin ? "

Ngài đáp: "Thầy tôi truyền bát và trao y Tăng-già-lê để làm tin, hiện nay vẫn còn." Ngài liền lấy y trình cho vua xem. Vua vẫn không tin bảo đem lửa đốt. Khi lửa cháy, y hiện năm sắc hào quang. Lửa tắt, y vẫn còn nguyên như cũ. Vua mới tin nhận, xin sám hối tạ tội. Đồng thời, vua truyền lệnh tha Thái-tử. Sau khi được thả, Thái-tử Bất-Như-Mật-Đa quyết chí xuất gia, xin phép vua cha được như nguyện.  Thái-tử đến yết kiến Tổ xin cho làm đệ tử xuất gia. Tổ hoan hỷ nhận thái tử làm đệ tử. Sau sáu năm, Ngài triệu thỉnh các vị thánh chúng vào vương cung truyền giới cho Bất-Như-Mật-Đa. Giờ truyền giới đó có nhiều điềm lành ứng hiện, toàn hội đều hoan hỷ.

Một hôm, Ngài gọi đệ tử Bất-Như-Mật-Đa Tổ Bà Xá Tư Đa ấn chứng trở thành Tổ thứ 26 qua bài kệ:

Thánh nhơn thuyết tri kiến,
Đương cảnh vô thị phi,
Ngã kim ngộ kỳ tánh,
Vô đạo diệc vô lý .

Dịch nghĩa:

Thánh nhơn nói tri kiến,
Ngay cảnh không phải quấy,
Nay ta ngộ tánh ấy,
Không đạo cũng không lý .
(Bản Việt dịch của HT Thích Thanh Từ)


Nói xong, Ngài thị hiện thần biến rồi vào Niết-bàn. Đồ chúng lượm xá-lợi xây tháp thờ.

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban cho một bài pháp rất siêu mầu, chiếc Y Tăng Già Lê, một năng lực truyền thừa bất khả tư nghì của Đức Thế Tôn, hình ảnh chiếc “y”, một ấn chứng thiêng liêng cao cả tôn kính cho những tôn túc con Phật đầy đủ oai nghi tế hạnh mới được khoác lên. Hình ảnh chiếc Y vàng vẫn lưu truyền từ Đức Thế Tôn suốt hơn 25 thế kỷ tới nay vẫn tồn tại đầy siêu nhiên đặc thù của Phật giáo thế giới.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).


25_TT Thich Nguyen Tang_To Ba Xa Tu Da



Phật tri kiến xuất hiện khi
“ĐƯƠNG CẢNH VÔ THỊ PHI “



Con kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Tổ thứ 25 khi được nghe bài pháp thoại quá tuyệt vời...
Trí Vô Sư của Thầy hiển lộ rõ bày nên chúng đệ tử chỉ
tâm tâm niệm niệm học theo ...Kính tri ân công đức vô lượng của Thầy,
kính chúc Thầy pháp thể khinh an , HH



Tổ Sư Tử kể nguyện nhân bàn tay nắm chặt ! 

Ngọc Minh Châu được hoàn trả  lại Thầy 

Túc duyên xuất gia , thọ giới ...chuẩn bị ngay,  

Y Tăng Già Lê , Ca Sa làm tin và truyền kệ :

           Chính khi nói tri kiến,

          Tri kiến đều là tâm,

           Chính tâm tức tri kiến,

           Tri kiến tức là hiện nay.

Lánh nạn du hoá,  nhiều vấn đề vi tế 

Muốn vào Nam Ấn phải xuyên qua Trung 

Năm chục lần biện luận danh và nghĩa ... KHÔNG TÂM 

Người biện là ai? Biện vật gì ...ngoại đạo nép phục ?

Vừa khi ấy mùi hương giới ... Thầy đã tịch ...quỳ lạy nghiêm túc !

Vâng ý Thầy tiến thẳng vào Nam 

Vua kính thờ Phật Pháp ..tham vấn hỏi han 

Con thứ....mãi bịnh hoạn dù luôn  phẩm đức ? 



Hiện nay có khổ nhỏ nhờ phát tâm làm Phước 

Sau này an ổn ... vì công đức phát sinh 

Hiện báo, sanh báo,  hậu báo phân minh 

 Hiện tại đời sống này còn có bao kiếp trước !!!



Mười sáu năm sau ...

 Thái Tử Đức Thắng theo Tà ngang  ngược, 

Chèn ép Phật Giáo ... Sư theo tông phái nào ? 

Nhắc về Ông Nội ...Bất Như Mật Đa bị tống giam 

Y Tăng Già Lê thần lực.... giải nạn oan 

Tìm được đệ tử nối truyền làm việc Phật !!

Bài pháp thoại, Giảng Sư truyền lẽ thật !

Tất cả danh tăng đời sau ...đã liễu tri ,

Phật tri kiến xuất hiện khi ĐƯƠNG CẢNH VÔ THỊ PHI .

Nên chúng đệ tử nhớ rằng : 

“Không đạo cũng không lý là NGỘ TÁNH “



Kính đảnh lễ Thầy : 

..”nghĩa còn phi nghĩa ... danh cũng phi danh! " 

Nam Mô Bốn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Huệ Hương 



youtube

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/04/2013(Xem: 16776)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7409)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7425)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10976)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7150)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5307)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 6031)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5535)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6116)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
04/04/2013(Xem: 5635)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567