Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Hoàng Bá Hi Vận (?-850) Đời thứ 4 sau Lục Tổ Huệ Năng, (Là đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Bách Trượng, Là người đặt nền móng vững chắc cho Thiền Phái Lâm Tế) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼

29/12/202015:51(Xem: 9738)
Thiền Sư Hoàng Bá Hi Vận (?-850) Đời thứ 4 sau Lục Tổ Huệ Năng, (Là đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Bách Trượng, Là người đặt nền móng vững chắc cho Thiền Phái Lâm Tế) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼







Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ Nguyên Tạng,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài thứ 203 về Thiền Sư Hoàng Bá Hi Vận. Ngài thuộc đời thứ tư sau lục tổ Huệ Năng, là đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải và cũng là người đặt nền móng vững chắc cho Thiền phái Lâm Tế (Sư phụ của Thiền Sư Nghĩa Huyền, người khai sáng thiền phái Lâm Tế).

Ngài Hoàng Bá Hi Vận, người tỉnh Phúc Kiến, tiếng nói có âm thanh trong trẻo, tướng cao lớn và đẹp đẽ, trên trán có một cục thịt vun lên như viên bảo châu như ý.

Một hôm trên đường đến chiêm bái núi Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang, Ngài gặp một vị Tăng trông rất quen thuộc, nhìn kỷ thì là một người “mục quang xạ”, Sư Phụ giải thích là như người đã chết. Ngài Hoàng Bá không sợ nên cùng đi cùng nói chuyện. Khi đến một suối đầy nước và chảy mạnh, vị Tăng thúc Ngài đi qua. Ngài bảo vị Tăng ấy cứ tự đi qua, vị Tăng đi trên mặt nước (hiển thị thần thông). Ngài Hoàng Bá thấy vậy nên cảnh cáo vị Tăng kia không nên khoe khoan về thần thông của mình, nếu có thì tự biết tự tu chứ không nên hiển thị ra ngoài. Vị Tăng ấy không giận mà mở lời khen ngợi ngài Hoàng Bá là người có khí chất đại thừa và sau đó vị này tự rút lui, biến mất.

Sư Phụ giải thích, người tu khi tự thấy tánh, tận diệt hết phiền não nhiễm ô, tự nhiên sẽ có thần thông diệu dụng (tất nhiên hành giả phải trải qua quá trình tu hành miên mật chỉ-quán đồng thời, không ai biết), và chỉ sử dụng thần thông đúng lúc và cần thiết như Tổ Mã Minh bắt tại trận một tên ngoại đạo biến thành một con sâu chui vào bồ đoàn của Ngài để nghe trộm pháp, con sâu này chính là ngài Ca Tỳ Ma La, sau đó đã tự quy phục Tổ Mã Minh xuất gia tu học và trở thành vị Tổ PG Ấn Độ thứ 13. Cách sử dụng thần thông để của Tổ Mã Minh để hóa độ trong trường hợp này là không phạm.

Ngài Hoàng Bá đến Nam Xương, đảnh lễ tháp Mã Tổ, gặp TS Bách Trượng có tịnh thất ở gần.

Ngài Hoàng Bá hỏi Tổ Bách Trượng " Tông thừa từ xưa chỉ dạy như thế nào? "

TS Bách Trượng im lặng không trả lời.

Sư Phụ giải thích "Tông thừa" ở đây là chỉ cho Phật tánh, hành giả phải tự nhận biết, nên Tổ im lặng, nếu trả lời là vọng tưởng, điên đảo.

Ngài Hoàng Bá nói “Sp im lặng như thế thì không thể dạy bảo người đời sau, Pháp sẽ dứt tuyệt “.

TS Bách Trượng nói :”Tưởng con là một con người “. Rồi bỏ đi về Phương trượng

Ngài Hoàng Bá theo sau và tự nhận : “Người đặc biệt đến đây”.

TS Bách Trượng đã thầm nhận qua câu nói: “ Nếu vậy thì sau này con không được cô phụ ta”.

Sư Phụ giải thích là TS Bách Trượng hứa khả, cho Hoàng Bá nhập chúng tu học.

Một hôm TS Bách Trượng hỏi: “con từ đâu tới”.

Ngài Hoàng Bá thưa: “con mới nhổ nấm dưới núi Đại Hùng về”.

TS Bách Trượng hỏi: “lại thấy đại trùng chăng?” Sư phụ giải thích đại trùng (chữ Hán) là ý chỉ con thú to lớn (con cọp).

Ngài Hoàng Bá không trả lời, mà làm tiếng rống của con cọp.

TS Bách Trượng ấn chứng cho ngài Hoàng Bá.


Sau khi đắc pháp, TS Hoàng Bá đi hoằng pháp, đến một chùa Khai Nguyên, chúng tu học rất đông, gặp Tướng quốc Bùi Hưu là quan triều đình.

Bùi Hưu hỏi vị trụ trì: "Thầy vẽ cái gì đây?"

Thầy trụ trì đáp: "đang vẽ hình Cao tăng".

Bùi Hưu hỏi: "Hình có thể thấy, còn Cao tăng ở đâu? "

Thầy trụ trì không đáp được.

Tướng Bùi Hưu hỏi tiếp : " Trong đây có Thiền nhân chăng? "

Thầy trụ trì đáp: "Vừa có một vị Tăng vào chùa, thấy dáng vẻ giống như  một Thiền giả".

Tướng Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Gặp ngài Hoàng Bá, Bùi Hưu trình bày "con vừa có một câu hỏi, thầy Trụ trì tiếc lời không đáp, xin ngài đáp cho".

Ngài Hoàng Bá bảo: "Mời Tướng công hỏi lại"

Tướng Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước. (Hình có thể thấy, còn Cao tăng ở đâu?)

Ngài Hoàng Bá liền gọi: "Bùi Hưu! "

Bùi Hưu: " Dạ! "

Ngài Hoàng Bá bảo: "Ở chỗ nào?"

Tướng Bùi Hưu ngay nơi đó tự ngộ như được hạt châu trên búi tóc, bèn cung thỉnh Sư Hoàng Bá vào phủ kính thờ làm thầy.

Sư phụ giải thích: Tướng Bùi Hưu ngộ qua tiếng “dạ” , tiếng "dạ" ấy khi nghe gọi là thốt ra liền, tiếng "dạ" không vọng tưởng, không điên đảo, không phàm-thánh, nhị biên, thị phị, có-không... đó là rõ biết hiện tiền, là tánh Phật, chân tâm thường trú, là viên Minh Châu có bên trong của tất cả vạn loài chúng sanh.

Một hôm Bùi Hưu hỏi: “thế nào là Phật”

TS Hoàng Bá đáp: “tức tâm là Phật”, “không tâm là đạo”.

Sư Phụ giải thích:ngay tâm này là Phật, tâm không phiền não nhiểm ô là tâm Phật. Không tâm là đạo, là tâm rỗng lặng như hư không, không có đối đãi, không có dấy khởi tà niệm, phiền não. Đạo là chỗ đến cuối cùng, đó là Phật tánh.

Bùi Hưu hỏi, tâm là Phật có cần phải tu lục độ không?

TS Hoàng Bá đáp: “ngộ tại tâm, không quan hệ đến tu lục độ”.

Sư phụ giải thích: Lục độ là pháp tu phương tiện. Bố thí đối trị lòng tham, nhẫn nhục đối trị sân tức...
Thiền, tịnh độ, mật tông cũng là phương tiện tu tập để nhận ra tâm mình là Phật.
Đức Phật giảng tất cả Pháp để giúp đối trị tất cả tâm.

Đời Đường Đại Trung, Sư an nhiên thị tịch. Vua ban sắc hiệu là Đoạn Tế Thiền Sư.

Trước khi viên tịch, Ngài Hoàng Bá để lại bài kệ rất thiết thực cho con đường tu:

Trần lao quýnh thoát sự phi thường,

Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Dịch nghĩa:


Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ tỏa mùi hương.


Bạch Sư Phụ, hôm nay SP ban cho bài pháp về TS Hoàng Bá, Ngài có cuộc đời tu và sự chứng đắc rất nhẹ nhàng, để lại cho chúng đệ tử dễ nương theo hành trì: “tức tâm là Phật, không tâm là đạo”, phải “đầu dây nắm chặt lập trường” thì sẽ đạt đạo.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ Tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).






203_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Hoang Ba Hy Van

Truyền Tâm Pháp Yếu: 
Tức Tâm là Phật -Không Tâm là Đạo . 


Con kính dâng Thầy bài trình pháp cho bài pháp thoại sáng hôm nay
về Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vận... Con đã học qua tác phẩm này từ trangnhaquangduc cũ,
nhưng hôm nay nghe lại chính Thầy giảng đã . ......Kính đa tạ và tri ân Thầy, HH



Đạo đâu chỉ con đường... còn là nơi đến rốt ráo ! 
“ Chánh pháp sẽ mất nếu không thể trả lời “
Tổ Bách Trượng ấn chứng... “ Tưởng con là 1 con người “
Người đặc biệt đến rồi ... nguyện sau này không cô phụ! 


Đại trùng dưới núi ... thượng đường  thiền nhân học tựu 
Hồng  Châu thu phục đệ tử Bùi Hưu 
Lục độ vạn hạnh chưa phải tuyệt pháp tu 
Tất cả Pháp Phật để độ tất cả Tâm  ....có bịnh 

Xuyên suốt đời hoằng hoá lời giảng dạy ...kiên định ! 
Cứu cánh là không có ngã và nhân 
Phương tiện ứng hoá ... chưa phải chân thân !
"TỨC TÂM LÀ PHẬT, KHÔNG TÂM LÀ ĐẠO "

"Truyền Tâm pháp yếu"
Tác phẩm giá trị ...siêu văn hoá ! 
 Rời văn tự chỉ truyền dạy một Tâm 
Nhưng ngữ lục Ngài cao vút thậm  thâm 
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,   
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
 Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Đoạn Tế Thiền Sư ...nền tảng cho danh môn Lâm Tế !

 Kính bạch Giảng Sư  cúi đầu thủ khể
Lời bình giảng đã làm chấn động tâm người 
Đây là hạt châu Như Ý mỗi người
“ Là một tiếng DẠ  đi vào Phật Địa “
Thể tánh tịnh minh ... làm sao liễu nghĩa ?


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 

Huệ Hương 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5446)
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
03/04/2013(Xem: 5370)
Kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch, nay còn chỉ 3 bản: 1. Phật thuyết Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển. 2. Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển. 3. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
03/04/2013(Xem: 4903)
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
03/04/2013(Xem: 5428)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
03/04/2013(Xem: 5025)
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, ...
03/04/2013(Xem: 5052)
Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
03/04/2013(Xem: 8345)
Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
03/04/2013(Xem: 5162)
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp.
03/04/2013(Xem: 6121)
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách Phật Giáo, nhưng bao gồm rất nhiều lĩnh vực như : triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược, thiên văn... Đây là một kết tinh của văn hóa Trung Quốc và văn hóa nước ngoài có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.
03/04/2013(Xem: 7547)
Kinh Tạp A Hàm là một trong tứ A Hàm. Sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, năm trăm đại đệ tử kết tập kinh điển ở thành Diệp Quật, những kinh điển sau khi được thẩm định, mới chính thức trở thành chuẩn mực tu tập cho hàng Thánh chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567