Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

189. Thiền Sư Đại Mai Pháp Thường (752-839), Đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng

24/11/202011:32(Xem: 9513)
189. Thiền Sư Đại Mai Pháp Thường (752-839), Đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng






Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài thứ 189 Thiền Sư Đại Mai Pháp Thường (752-839).

Ngài thuộc đời thứ 4 sau Lục Tổ Huệ Năng. Ngài họ Trịnh, người tỉnh Hà Bắc. Ngài xuất gia lúc bé ở chùa Ngọc Tuyền.

Thuở ban sơ, Ngài đến thăm TS Mã Tổ và thưa hỏi :”thế nào là Phật”.
TS Mã Tổ trả lời :”Tức Tâm tức Phật”.

Ngài vừa nghe là ngộ liền, Ngài sụp lạy tạ ơn Sư Phụ.

Cuộc đời Ngài rất đơn giản về tiểu sử và lúc ngộ đạo, chỉ có bốn chữ Tâm này là Phật.

Sư phụ giải thích: 4 chữ ngộ đạo này rất hay nhưng chúng sanh đã hiểu sai và chấp tánh 4 chữ này, họ nói "tâm này có Phật rồi cần gì quy y Tam Bảo ? cần gì đi chùa ? ". Để có được tâm Phật đâu có đơn giản như thiên hạ, phải trải qua trăm đắng ngàn cay, gọt dũa, đào luyện nội tâm, phải quy y, phải đi chùa, phải dự khóa tu để đạt đến Phật tâm kia. Tức tâm tức Phật là Chơn Tâm, là Thanh tịnh Tâm, là Phật tâm bất sanh bất diệt thường hằng trong tất cả chúng sanh. Phàm tâm là tâm sanh diệt theo duyên phiền não từ bên ngoài.

Sau khi ngộ đạo, Ngài tạ từ Sư Phụ Mã Tổ, đến Rừng Mai cất am để ẩn tu, nên ngà được gọi là Đại Mai. Ngài ở tu trong rừng Mai này 30 năm.

Sư Phụ có kể về trái mai có tên khác là có trái mơ, nghe rất thanh thoát, thi vị, và có những trùng hợp:

Ngài Chu Mạnh Trinh có làm bài thơ tả cảnh chùa Hương Tích mà sư phụ diễn đọc quá hay:

"Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lờ khe Yến cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng ".

Sư ông Nhất Hạnh có thành lập Làng Mai ở Am Phương Bối, Việt Nam từ thập niên 60. Sau vì chiến tranh, Sư ông lên đường, rồi lập Làng Mai ở Pháp. Làng Mai ở Pháp ngày nay cũng có liên quan đến Rừng Mai ngày xưa của Thiền sư Pháp Thường.

Một hôm có một vị Tăng trẻ lên rừng tìm cây làm gậy cho sư phụ, đi lạc tới rừng Mai không biết đường ra, và gặp được Ngài Pháp Thường.
Vị Tăng thưa hỏi :”Ngài ở núi bao lâu rồi”.
Ngài Pháp Thường đáp :”chỉ thấy bốn núi xanh lại vàng”

Sư phụ giải thích, bốn núi là ví dụ của Đức Phật để khai thị cho vua Ba Tư Nặc quán chiếu về "sanh, lão, bệnh, tử" hay "sanh, trụ, hoại, diệt", đang tiến dần đến cuộc đời của chúng sanh.

Ngài chỉ đường cho vị Tăng nương theo suối đi ra.

Sau khi nghe vị Tăng về thuật lại, sư phụ của vị Tăng nghĩ có thể là Ngài Pháp Thường, và sai đệ tử lên thỉnh Ngài xuống núi. Ngài viết thơ từ chối với lời khiêm nhường :”cây khô gãy mục tựa rừng xanh...dĩnh khách thôi thì chớ kiếm tìm”.

Ngài Mã Tổ hay tin, hoan hỉ sai một vị Tăng lên núi thăm dò xem Ngài có đắc pháp gì ở Mã Tổ. Ngài Pháp Thường nói Tức Tâm Tức Phật.
Ngài Mã Tổ ấn chứng cho đệ tử Pháp Thường là"trái mai đã chín", ý nói ngài đã đạt  đạo tới mức Thượng thừa.

Từ khi được ấn chứng, danh tiếng Ngài vang xa, tín chúng đổ sô về học pháp rất đông. Ngài Thượng đường dạy chúng: " mỗi người tự xoay tâm lại tận nơi gốc, chớ theo ngọn. Đạt được gốc thì ngọn tự đến. Tâm này nguyên là cội gốc tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, tâm sanh thì các thứ pháp sanh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt".

Trước khi viên tịch, Ngài gọi chúng đệ tử đến bảo: "Đến không thể kềm, đi không thể tìm". Nói xong, ngài kiết già an nhiên thị tịch, thọ thế 88 tuổi.

Bạch Sư Phụ, con kính tri ơn SP hôm nay ban cho đại chúng cuộc đời của một vị Thiền Sư rất đơn giản về tiểu sử và cả về ngộ đạo. Công án "Tức Tâm Tức Phật", tâm này là Phật, rất nhẹ nhàng, chỉ cần tự quay lại tìm Phật tại tâm mình bây giờ và tại đây. Mỗi vị Tổ ra đời thị hiện một cách đắc pháp huyền diệu khác nhau, nhưng cùng một vị đó là vị giải thoát.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật .
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montreal, Canada)






189_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Phap Thuong



Tức Vật  này, chẳng Vật  khác!

Con kính dâng Thầy bài thơ sau khi nghe pháp thoại sáng nay ...đã mang lại
nhiều tịnh lạc ngay tại đây và bây giờ. Kính chúc Thầy pháp thể khinh an và kính đa tạ, HH



Túc duyên nhiều đời... ngộ lần đầu tham vấn 
“ Tức Tâm tức Phật “, Phật chính tâm này.
Ba mươi năm ẩn tu, am cỏ tại rừng mai 
Chỉ người đi lạc “ nương theo dòng suối”

Pháp đệ nghe tin ...vấn an mời xuống núi !
Đáp “ Mấy độ Xuân về ..lòng chẳng đổi thay “
 “PHI TÂM PHI PHẬT “ được ấn chứng lần hai
Sư Phụ Mã Tổ ....“ Trái Mai đã chín !"

Từ đấy thỉnh Sư thượng đường ...người tin, kính !
Cầu giải thoát ... gốc chỉ việc xoay tâm 
Hai vị tăng luận tranh   “ Ai sơ, Ai thân ?”
Đáp “ Thân thì không hỏi” dừng nghi kiến ! 

Một lần mộng thần linh mách   “ Ngụ lâu ...tai biến” 
Bài pháp ẩn tàng “ cõi Trần tạm chẳng lâu ! 
Trước khi viên tịch, di chúc nhiệm mầu 
TỨC VẬT NÀY, CHẲNG PHẢI VẬT KHÁC! 

Đa tạ Giảng Sư  . bài pháp thoại ...mang tịnh lạc !
“Tánh nghe thường trú” muôn đời  có thật !

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 

Huệ Hương 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5481)
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
03/04/2013(Xem: 5398)
Kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch, nay còn chỉ 3 bản: 1. Phật thuyết Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển. 2. Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển. 3. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
03/04/2013(Xem: 4946)
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
03/04/2013(Xem: 5485)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
03/04/2013(Xem: 5052)
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, ...
03/04/2013(Xem: 5095)
Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
03/04/2013(Xem: 8409)
Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
03/04/2013(Xem: 5196)
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp.
03/04/2013(Xem: 6152)
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách Phật Giáo, nhưng bao gồm rất nhiều lĩnh vực như : triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược, thiên văn... Đây là một kết tinh của văn hóa Trung Quốc và văn hóa nước ngoài có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.
03/04/2013(Xem: 7595)
Kinh Tạp A Hàm là một trong tứ A Hàm. Sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, năm trăm đại đệ tử kết tập kinh điển ở thành Diệp Quật, những kinh điển sau khi được thẩm định, mới chính thức trở thành chuẩn mực tu tập cho hàng Thánh chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567