Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

56. Người Xuất Gia (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm ghi chép cảm tưởng)

16/08/202011:39(Xem: 12814)
56. Người Xuất Gia (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm ghi chép cảm tưởng)
56_TT Thich Nguyen Tang_Nguoi Xuat Gia

Nam mô A Di Đà Phật


Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay SP giảng bài kệ thứ 56 trong Nghi thức đảnh lễ tam bảo do Đức Trưởng Lão Hoà Thượng Thích Trí Thủ ( 1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời Ngài

Bài nguyên văn:

Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, trấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân.

Dịch nghĩa:
Phàm là người xuất gia,
Lập chí thoát ba cõi,
Thân tâm đều khác tục,
Nối thạnh dòng giống Phật, 
Nhiếp phục mọi chướng ma,
Báo đền bốn ơn nặng,
Độ chúng sinh ba cõi.
Nếu không được như thế,
Chỉ là giả làm Tăng.
Đại vị tứ trọng ân, đảnh lễ thập phương thường trú Tam Bảo. (1 lạy)


Câu này được HT Trí Thủ trích trong quyển Quy Sơn Cảnh Sách của Thiền Sư Linh Hựu để tạo nhân duyên cho hàng đệ tử chúng ta đảnh lễ Tam Bảo mỗi ngày, vừa tạo công đức cho bản thân, vừa tự nhắc nhở bản thân trên bước đường tu học.

Ngài là đệ tử truyền thừa năm đời từ Lục Tổ Huệ Năng, và là sơ tổ của phái Quy Ngưỡng. Hoà Thượng Tuyên Hoá (Vạn Phật Thánh Thành ở Cali, Hoa Kỳ) là vị thứ chín của dòng phái này.

Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu (771-853 )  là đệ tử của Tổ Sư Bách Trượng Hoài Hải.

Thiền Sư Linh Hựu có 1500 đệ tử xuất gia. Ngài viết tác phẩm Cảnh Sách Văn này, một áng văn trác tuyệt để dạy cho đồ chúng xuất gia của ngài, sau đó tác phẩm này đã trở thành 1 gia tài pháp bảo vô giá trong chốn nhà thiền, và được xem quyển sách gối đầu giường cho hàng xuất gia và tại gia, giúp họ  làm hành trang trên đường tu đến giải thoát, vượt ra khỏi sanh tử, luân hồi.

Người xuất gia phải luôn dụng công tu tập để: trên đền bốn ơn nặng, đó là , ơn Tam bảo, ơn Cha mẹ và quốc gia, ơn Sư Trưởng và ơn chúng sanh vạn loại.

Sư phụ minh họa 4 ơn này qua bài thơ khuyến tu của Hòa Thượng Thích Huyền Vy rất hay như sau:

 

Chớ bỏ trôi qua uổng tháng ngày,
Tu hành gắng lấy, để cầm tay,
Bến mê lánh khỏi trăm phần khó,
Cửa Pháp nương nhờ lắm chuyện may !
Nợ trước bốn ơn, lo gắng trả,
Thân sau ba cõi, nguyện đừng vay,
Vô thường niệm niệm xin ghi nhớ,
Chớ bỏ trôi qua uổng tháng ngày!"


Người xuất gia với "tâm hình dị tục", có nghĩa là hình tướng và tâm tánh phải khác người thế gian.

Cuối thời Pháp sư phụ đã đọc 2 bài thơ nói về "Lý tưởng của người xuất gia" của Thầy Trí Giải rất tuyệt vời:

"Y vàng dứt bỏ giận hờn
 Vai oằn sứ mạng, pháp môn độ người
 Sứ giả dẫm bước muôn nơi
 Xiển dương chánh Pháp cho đời bình an.
 Trần gian có lúc thăng trầm
 Thuyền từ vững chắc chèo dần qua sông,
 Mặc cho sóng gió, bão dông
 Kết duyên bá tánh vun trồng phước duyên.
 Hoa tâm nở chốn hương thiền
 Đền ơn Thầy, Tổ quy nguyên căn lành,
 Đường tu một dạ chí thành
 Nguyện làm cát đá hóa thành Từ bi.
 Danh lợi nào có sá gì
 Tỳ Kheo hoằng Pháp chỉ vì tình thương
 Dù cho gian khổ dặm đường
 Sa Môn kham nhẫn không vương bụi trần
 Dong ruổi góp nhặt cơn sân
 Mang về vun bón chân tâm Bồ đề !!!
 Khi nào hoa quả sum sê
 Hái tặng hạt giống người về ươm tâm".


Hành Trang Tu Sĩ

"Hằng ngày học hỏi điều hay 
 Hoa tâm hiện thể, mỗi ngày nở tươi 
 Hành trang tiến bước cuộc đời 
 Sống vui hạnh phúc tuyệt vời làm sao.
 Đời người tu sĩ tự hào 
 Ba y, bình bát, Đạo mầu Như Lai 
 Soi kinh nấu sử hằng ngày 
 Để cho lý tưởng tròn đầy Đạo tâm.
 Đường tu: tỉnh thức, chuyên cần 
 Kiếm tuệ chặt đứt mê lầm chướng duyên 
 Nương theo giới luật hương thiền 
 Chiếu soi lầm lỗi để liền hối tâm.
 Thị phi chỉ tạo cơn sân 
 Suối nguồn bi ái mắt ngân lệ sầu 
 Y vàng, chiếc áo màu nâu 
 Lý tưởng hoằng Pháp nhịp cầu về Tây". (Thích Trí Giải)

 
Sư Phụ cũng nhắc thêm về công đức xuất gia của Công tử Dũng Quân (Tỳ La Tiễn Na) do Đức Thế Tôn giảng tại thành Tỳ Xá Ly rằng, dù Công tử Dũng Quân chỉ xuất gia một ngày một đêm, nhưng công đức giúp cho vị này trong 20 kiếp không đọa vào ba đường ác, kiếp cuối cùng làm người tu và được trở thành Độc Giác Phật với danh hiệu là Tỳ Lưu Đế.

Nhưng để có 1 ngày 1 đêm xuất gia giữ thân và tâm trong sạch trọn vẹn, không là chuyện đơn giản.

Bạch Sư Phụ, phần con đã già yếu rồi, con chỉ xin được lên hạ phẩm hạ sanh để tiếp tục tu tập mà không còn trầm luân trong cõi ta bà nữa, xin Đức A Di Đà Như Lai từ bi chứng minh cho tấm lòng của con.


Con kính tri ơn Sư Phụ, mỗi ngày SP ban cho một bài pháp giúp chúng đệ tử làm hành trang trên đường đến giải thoát sinh tử luân hồi.

Nam mô A Di Đà Phật
Cung kính,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5608)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
04/04/2013(Xem: 5456)
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
03/04/2013(Xem: 5379)
Kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch, nay còn chỉ 3 bản: 1. Phật thuyết Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển. 2. Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển. 3. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
03/04/2013(Xem: 4917)
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
03/04/2013(Xem: 5440)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
03/04/2013(Xem: 5031)
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, ...
03/04/2013(Xem: 5059)
Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
03/04/2013(Xem: 8361)
Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
03/04/2013(Xem: 5171)
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp.
03/04/2013(Xem: 6126)
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách Phật Giáo, nhưng bao gồm rất nhiều lĩnh vực như : triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược, thiên văn... Đây là một kết tinh của văn hóa Trung Quốc và văn hóa nước ngoài có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567