Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cái Biết Lìa Khái Niệm (The Awareness Beyond Concepts, song ngữ Việt-Anh)

15/01/202508:57(Xem: 30)
Cái Biết Lìa Khái Niệm (The Awareness Beyond Concepts, song ngữ Việt-Anh)
phat thanh dao
Cái Biết Lìa Khái Niệm
Nguyên Giác

 

Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.

Trong Thiền sử Việt Nam có ngài Vô Ngôn Thông (759–826). Ý nghĩa trong tên của ngài là sự thông hiểu không qua cầu nối ngôn ngữ. Ngài Vô Ngôn Thông là một vị Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820, ngài Vô Ngôn Thông qua Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ, nơi bây giờ thuộc Hà Nội, thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông. Vô Ngôn Thông mất năm 826, và phái thiền của sư kéo dài được 17 thế hệ.

Thiền sử kể rằng, một hôm, Vô Ngôn Thông  chợt hiểu đạo lý của Thiền Tông sau khi nghe Bách Trượng Hoài Hải nói rằng khi đất tâm nếu trống không, thì mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng. Vô Ngôn Thông trụ trì chùa Hoà An một thời gian, dạy Thiền Tông, trong hàng môn đệ có Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, một người về sau trở thành một Thiền sư nổi tiếng của Trung Hoa.

Thiền sư Vô Ngôn Thông sang Việt Nam, ngụ ở Chùa Kiến Sơ, trong mấy năm liền chỉ quay mặt vào vách, ngồi thiền. Vị sự trụ trì Chùa Kiến Sơ là Cảm Thành rất mực kính trọng ngài Vô Ngôn Thông. Khi sắp viên tịch, Vô Ngôn Thông gọi Cảm Thành tới và nói bài kệ, nội dung nói rằng tất cả các pháp đều từ tâm sinh ra, và khi tâm không có chỗ sinh thì pháp không còn chỗ trụ. Nội dung bài kệ có thể tóm tắt rằng, khi tâm không sinh thì là Niết Bàn hiện ra.

Hiển nhiên, ngài Vô Ngôn Thông vẫn còn phải dựa vào ngôn ngữ. Ngài nghe Bách Trượng Hoài Hải nói rằng khi đất tâm nếu trống không, thì mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng. Khi sắp viên tịch, ngài Vô Ngôn Thông nói với Cảm Thành rằng khi tâm không sinh thì là Niết Bàn hiện ra. Như thế, vấn đề không phải là không dùng ngôn ngữ.

Thiền Tông xem ngôn ngữ như ngón tay chỉ vào mặt trăng, vì nếu không dùng ngón tay chỉ hướng, chúng ta không biết nhìn về đâu để thấy mặt trăng. Tuy nhiên, ngón tay không phải mặt trăng.

Do vậy, vô ngôn không có nghĩa là im lặng. Vì sự im lặng có khi chỉ là mặt ngoài của những ngộ nhận. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật nói trong Bài Kệ 268 rằng, những người im lặng nhưng ngu si thì không được gọi là ẩn sĩ.

Cũng trong Kinh Pháp Cú, khi Đức Phật nói lên các bài kệ 227, 228, 229, 230 là câu chuyện về cư sĩ Atula và 500 cư sĩ tới hỏi giáo pháp. Lúc đó, cư sĩ Atula và 500 cư sĩ tìm tới nhà sư Trưởng lão Revata để xin giảng pháp. Nhưng ngài Thera Revata đã im lặng, được mô tả là xa cách như một con sư tử.

Bấy giờ, nhóm Atula tới gặp Trưởng lão Sariputta và được giải thích cặn kẽ về Abhidhamma. Nhóm cư sĩ Atula thấy khó hiểu, nên tới gặp Trưởng lão Ananda, và được giải thích những điều cốt yếu của giáo pháp. Cư sĩ Atula và 500 cư sĩ lại cho rằng lời dạy của Ananda quá sơ sài. Bấy giờ, họ mới tìm gặp Đức Phật. Tới đây, câu hỏi của chúng ta là: tại sao sự im lặng của ngài Revata lại được Kinh Pháp Cú mô tả là thái độ của sư tử?

Có một thực tế mà chúng ta có thể kinh nghiệm là, sẽ rất khó cho một họa sĩ mô tả về dị biệt về màu sắc cho người mù. Nghĩa là, nếu chỉ thuần ngôn ngữ, mà không có biện biệt của cái thấy, chúng ta sẽ không vào được thế giới hội họa. Chuyện tu hành cũng như thế. Không thể dựa thuần túy bằng ngôn ngữ. Nghĩa là, phải có những trải nghiệm vượt ngoài ngôn ngữ.

 

Thiền sử ghi rằng, Thiền Tông là cửa giải thoát của phương pháp xa lìa khái niệm. Thiền Tông được truyền dạy đầu tiên là khi Đức Phật một lần thuyết pháp tại Linh Sơn. Khi chư Thiên dâng hoa, Đức Phật cầm đóa hoa lên, im lặng, và mỉm cười. Thiền sử kể rằng, ngài Ma Ha Ca Diếp lúc đó mỉm cười. Đức Phật lúc đó, nói rằng pháp môn Niết bàn diệu tâm vừa được Đức Phật truyền cho ngài Ma Ha Ca Diếp. Thiền Tông nói rằng pháp này không dùng ngôn ngữ, vì xa lìa tất cả các khái niệm. Một số sử gia nói rằng chuyện đó có lẽ là huyền thoại.

Nơi đây, chúng ta không bàn chuyện lịch sử Thiền Tông. Chúng ta cũng không thắc mắc xem có sách cổ nào ghi về sự tích đó, và sách đó lần đầu xuất hiện vào năm nào. Thực tế, kinh sách chỉ xuất hiện vài trăm năm sau Đức Phật. Chắc chắn rằng có rất nhiều chuyện về Đức Phật và chư tăng không được ghi đầy đủ. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong một cách khác.

Khi các Thiền sư nói rằng Thiền Tông là cửa pháp của những gì hiểu biết không qua khái niệm. Nghĩa là, cái biết trực tiếp. Trong Thiền sử thường nói rằng khi chúng ta uống nước, nước đó ấm hay nguội thì chỉ người uống biết, và không thể nào mô tả được. Nghĩa là, ngôn ngữ không ghi lại đúng những gì chúng ta kinh nghiệm. Tương tự, khi một họa sĩ dạy chúng ta về cách pha trộn màu để vẽ cảnh nắng chiều trên một góc phố, ngôn ngữ sẽ bất lực nếu người học không nhìn thấy trực tiếp cách người thầy thực hiện. Đó là cái biết trực tiếp, không qua ngôn ngữ. Khi chúng ta nhìn thấy tiến trình người họa sĩ vẽ, chúng ta không cần tới ngôn ngữ để hiểu nữa. Cái hiểu qua khái niệm hiển nhiên là bất toàn.

Tương tự, có một Kinh ghi lời Đức Phật dạy về chỗ vượt ngoài ngôn ngữ của những cái thấy, nghe, cảm thọ, nhận biết. Ngay sau khi nghe lời dạy này, ngài Bahiya tức khắc thoát khỏi ô nhiễm, xa lìa phiền não vì không còn nắm giữ gì nữa. Đây cũng là chỗ mà Thiền sư Vô Ngôn Thông nghe Bách Trượng Hoài Hải nói rằng khi đất tâm nếu trống không, thì mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng. Nghĩa là, không còn khái niệm trung gian nào nữa. Đây là cái biết trực tiếp, y hệt như tánh sáng rỗng không của gương tâm đã phản chiếu tất cả những gì tới và đi, một cách trực tiếp.

Đức Phật dạy Bahiya rằng: "Bāhiya, vậy thì ông nên tu tập như thế này: Đối với cái được thấy, chỉ có cái được thấy. Đối với cái được nghe, chỉ có cái được nghe. Đối với cái được cảm thọ, chỉ có cái được cảm thọ. Đối với cái được nhận thức, chỉ có cái được nhận thức. Đó là cách ông nên tu tập. Khi đối với ông, chỉ có cái được thấy đối với cái được thấy, chỉ có cái được nghe đối với cái được nghe, chỉ có cái được cảm thọ đối với cái được cảm thọ, chỉ có cái được nhận thức đối với cái được nhận thức, thì Bāhiya, không có ông liên quan đến điều đó. Khi không có ông liên quan đến điều đó, thì không có ông ở đó. Khi không có ông ở đó, thì ông không ở đây, cũng không ở trong đời sau, cũng không ở giữa hai cảnh giới đó. Thế này, chỉ thế này thôi, là sự chấm dứt của khổ đau."

Thế đó, chỉ như thế. Đó là cái biết xa lìa mọi ngôn ngữ, xa lìa mọi khái niệm, xa lìa mọi nhãn hiệu, xa lìa mọi chọn lựa, xa lìa mọi lý luận. Nơi đây là cái biết của một người tu theo lời Phật dạy, không Nam truyền hay Bắc truyền, chỉ thấy tâm mình như gương sáng và tất cả các cảnh hiện nơi gương tâm mà không lời nào để diễn giải. Tất cá hình ảnh hiện lên, sinh rồi diệt, trôi chảy xiết qua gương tâm. Nơi gương tâm, không gì được lưu giữ, không gì được biện biệt, không gì được mơ tưởng, và không còn chữ nào để tranh cãi nữa.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, nơi Phẩm thứ bảy, Lục Tổ Huệ Năng từng dạy rằng: "Ta có một vật không đầu, không đuôi, không tên gọi, không danh tự, không lưng, không mặt, các ngươi có biết không?"

Đó chính là cái biết xa lìa mọi khái niệm. Nơi đây là giải thoát.

 

 

 


phat thanh dao 2
The Awareness Beyond Concepts
Written and translated by Nguyên Giác
 

When studying the history of Zen in China and Vietnam, we often come across monks who taught or responded in ways that transcended verbal communication. People often refer to this as speechlessness when the monks are not using language. This term is likely inappropriate, as it often refers to a state of silence that occurs when a person does not want to speak. A more fitting description might be a form of understanding that exists beyond the confines of language and concepts.

In Vietnamese Zen history, there is Zen Master Vô Ngôn Thông (759–826). His name means understanding without the bridge of language. Vô Ngôn Thông was a Chinese Zen Master and a disciple of the renowned Zen Master Bách Trượng Hoài Hải. In 820, he traveled to Vietnam and settled at Kiến Sơ Pagoda, which is now located in Hanoi, where he founded the Vô Ngôn Thông Zen sect. Vô Ngôn Thông passed away in 826, and his Zen sect continued for 17 generations.

The history of Zen recounts that one day, Vô Ngôn Thông suddenly grasped the principles of Zen after hearing Bách Trượng Hoài Hải state that when the mind is empty, the sun of wisdom will shine forth on its own. Following this realization, Vô Ngôn Thông resided at the Hòa An pagoda for a time, where he taught Zen. Among his disciples was Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, who later became a renowned Zen master in China.

Zen Master Vô Ngôn Thông traveled to Vietnam and resided at Kiến Sơ Pagoda. For several years, he focused solely on meditating while facing the wall. The abbot of Kiến Sơ Pagoda, Cảm Thành, held Vô Ngôn Thông in high regard. As he neared the end of his life, Vô Ngôn Thông summoned Cảm Thành and recited a verse that conveyed the idea that all dharmas arise from the mind, and when the mind has no place to be born, dharmas have no place to reside. We can summarize this verse as follows: Nirvana manifests when the mind is not born.

Obviously, Zen Master Vô Ngôn Thông still had to rely on language. He heard Bách Trượng Hoài Hải say that when the mind-ground is empty, the sun of wisdom will shine on its own. As he was nearing the end of his life, Vô Ngôn Thông told Cảm Thành that when the mind is not born, Nirvana manifests. Therefore, the essence of the story is not about language use or non-use.

Zen views language as a finger pointing at the moon; without such a finger, we would not know where to look to see the moon. However, it is important to remember that the finger is not the moon itself.

Therefore, speechlessness does not equate to silence, as silence can often be merely a facade of misunderstanding. The Buddha, in Verse 268 of the Dhammapada, asserts that we should not regard those who remain silent but are ignorant as recluses.

In the Dhammapada, when the Buddha recited verses 227, 228, 229, and 230, it is the story of the layman Atula and 500 other laymen who came to seek the teachings. During this time, Atula and the group approached Elder Revata for guidance. However, the Elder remained silent, described in the Dhammapada as being as aloof as a lion.

At that time, the layman Atula and 500 other laymen visited Elder Sariputta to hear a detailed explanation of the Abhidhamma. However, the group found it challenging to comprehend, so they sought the guidance of Elder Ananda, who provided a clearer explanation of the essential teachings of the Dhamma. Despite this, Atula and the 500 laymen felt that Ananda's teachings were overly simplistic. Consequently, they decided to approach the Buddha. This raises the question: Why does the Dhammapada describe Revata's silence as the attitude of a lion?

There is a reality that we can experience: it is very difficult for a painter to convey the nuances of color to a blind person. If we rely solely on language, without the ability to see, we cannot fully engage with the world of painting. The same principle applies to spiritual practice; it cannot be founded purely on language. There must be experiences that transcend verbal expression.

Zen history records that Zen is the pathway to liberation through methods that transcend conventional concepts. Zen was first taught when the Buddha preached at Linh Sơn. During this sermon, when the Devas offered flowers, the Buddha picked up one, remained silent, and smiled. According to Zen history, Ma Ha Ca Diếp smiled in response at that moment. The Buddha then declared that the wonderful mind of Nirvana had just been transmitted to Ma Ha Ca Diếp. Zen teaches that this gateway to Dharma does not rely on language, as it transcends all conceptual frameworks. Some historians suggest that this story may be more legend than fact.

Here, we will not delve into the history of Zen. We won't speculate on whether ancient texts document this event or when they emerged. In fact, the scriptures appeared only a few hundred years after the time of the Buddha. Undoubtedly, there are numerous stories about the Buddha and the monks that remain unrecorded. Instead, we will explore this topic from a different perspective.

When Zen masters assert that Zen is the Dharma gate of non-conceptual realization, they refer to direct awareness. It is often stated in Zen history that when we drink water, whether it is warm or cold is known only to the drinker and cannot be adequately described. In other words, language fails to accurately capture our experiences. Similarly, when an artist instructs us on how to mix colors to depict a sunset on a street corner, language becomes ineffective if the student does not directly observe the teacher's technique. This represents direct, non-verbal understanding. When we witness the artist at work, we do not require language to comprehend the process. Conceptual understanding, therefore, is inherently incomplete.

Similarly, there is a Sutta that records the Buddha's teaching on awareness that transcends the concepts of seeing, hearing, feeling, and knowing. Hearing this teaching liberated Bahiya from defilements, as he no longer clung to anything. This is also where Zen Master Vô Ngôn Thông heard Bách Trượng Hoài Hải state that when the mind's foundation is empty, the sun of wisdom will shine forth on its own. In other words, there are no intermediate concepts. This represents direct understanding, akin to the mind's mirror, which reflects everything that comes and goes without explanation.

The Buddha taught Bahiya as follows: "Then, Bāhiya, you should train yourself thus: In reference to the seen, there will be only the seen. In reference to the heard, only the heard. In reference to the sensed, only the sensed. In reference to the cognized, only the cognized. That is how you should train yourself. When for you there will be only the seen in reference to the seen, only the heard in reference to the heard, only the sensed in reference to the sensed, only the cognized in reference to the cognized, then, Bāhiya, there is no you in connection with that. When there is no you in connection with that, there is no you there. When there is no you there, you are neither here nor yonder nor between the two. This, just this, is the end of stress." (Translated by Thanissaro Bhikkhu)

That's it—just like that. This is the awareness that transcends all language, concepts, labels, choices, and reasoning. Here lies the awareness of a practitioner following the Buddha's teachings, neither Southern nor Northern, perceiving only his own mind as a bright mirror, with all scenes appearing in the mirror of the mind without any words to explain them. All images arise and perish, flowing swiftly through the mirror of the mind. This mirror retains nothing, distinguishes nothing, imagines nothing, and leaves no more words for debate.

In the Dharma Jewel Platform Sutra, Chapter Seven, the Sixth Patriarch Huệ Năng taught: "I have an object that has no head, no tail, no name, no title, no back, and no face. Do you know it?"

This refers to the awareness that transcends all concepts. This is liberation.

.

Tham Khảo / Reference:

- Thanissaro Bhikkhu, Ud 1.10 Sutta: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.1.10.than.html







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/03/2013(Xem: 4068)
Một vị vua là một người cai trị thuộc dòng dõi hoàng gia. Đức Phật xác định, một vị vua là “vị thủ lĩnh của những người đàn ông”. Các tôn giáo khác nhau có những lý luận khác nhau về nguồn gốc và bản chất của một vị đế vương.
27/03/2013(Xem: 5847)
Phật giáo, giống như những tôn giáo khác, nhấn mạnh vào những giá trị tinh thần hơn là vào những giá trị vật chất; vào việc buông xả những tài vật của thế gian hơn là chấp chặt vào chúng; và vào khía cạnh tâm linh của đời sống hơn là vào khía cạnh trần tục của nó. Tuy nhiên, Phật giáo không hoàn toàn không quan tâm đến phương diện đời sống vật chất và thế tục.
26/03/2013(Xem: 4409)
Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
07/03/2013(Xem: 4860)
Luận Phật Thừa Tông Yếu là tùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bản và cương yếu của Phật pháp. Thế nên bộ luận này cũng có tên là Khái Luận Về Phật Pháp Hiện Đại.
16/02/2013(Xem: 5488)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến: Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này. Hán dịch Pratīya là Duyên và Anh dịch là Condition. Trong Māhyamika, Ngài Nāgārjuna giải thích chữ Pratīya như sau: Utpadyate pratītyemān itīme pratyayaḥ kīla (1). Nghĩa là, do làm điều kiện cho cái kia sinh khởi, những cái này người ta gọi là Duyên. Samutpāda có nghĩa là tập khởi, đồng khởi, sinh khởi, tương khởi, cộng khởi… Do những ý nghĩa trên, mà Pratīya-samutpāda được các nhà Hán dịch là Duyên khởi hay Duyên sinh, tức là sự khởi sinh của vạn pháp cần phải có điều kiện (pratīya), nếu không có điều kiện, thì các pháp không thể sinh khởi.
31/12/2012(Xem: 5448)
Theo nghĩa hẹp, nhẫn nhục là nhịn chịu mọi nhục nhã và mọi khó khăn trở ngại, và vượt qua chúng một cách bình ổn. Nhà Phật gọi những chướng duyên làm ngăn trơ ûsự tiến tu là ma chướng, gồm ngoại ma (trở ngại do người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài gây ra)và nội ma (trở ngại từ chính thân tâm mình)
28/12/2012(Xem: 26535)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng. Mặc dù đạo Phật có bề dày lịch sử phong phú, đầy những giá trị, điều cần thiết đối với người học Phật ngày nay vẫn là làm thế nào để ứng dụng lời đức Phật dạy vào đời sống hàng ngày. Quyển 100 điều đạo đức tại gia này giúp tôi hiểu tầm ảnh hưởng của đạo Phật đối với cuộc sống thường nhật của con người. Nó có thể được xem như quyển sổ tay hướng dẫn chúng ta sống cuộc đời theo chánh pháp.
09/12/2012(Xem: 16267)
Người ta thường nói rằng tác giả 14 điều Phật dạy là Hòa thượng Kim Cang Tử. Thực tế không phải như vậy. Hòa thượng Kim Cang Tử chỉ có công phiên dịch 14 điều này ra từ chữ Hán. Vào những năm 1998-1999, ta mới thấy 14 câu này được lưu hành. Gần đây, chúng tôi có đọc được bản nguyên tác chữ Hán có ghi rõ xuất xứ là chùa Thiếu Lâm ở Trung Quốc tặng cho các phái đoàn Việt Nam.
08/11/2012(Xem: 9648)
Cách đây ít lâu - chính xác là ngày 14 tháng 9 - một bài viết được đăng lên trang Phật giáo Thư viện Hoa sen có nhan đề “Kinh Vu Lan Bồn thực hay giả?”của tác giả Đáo Bỉ Ngạn. Ngay hôm sau đó, bài viết này cũng xuất hiện trên trang Văn hóa Phật giáo và gợi lên một loạt những tranh biện kéo dài đến hơn một tháng sau. Ý kiến cuối cùng được đăng bên dưới bài viết này là vào ngày 20 tháng 10.
31/07/2012(Xem: 7217)
Chúng tôi viết quyển sách này cho nhữngngười mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quantrọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được. Người học Phật khimới vào đạo không hiểu đúng tinh thần Phật giáo, về sau sẽ hỏng cả một đời tu.Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xâydựng có một căn bản vững chắc, đi đúng đường hướng của Phật dạy. Hiểu Phật giáomột cách đúng đắn, mới mong thành một Phật tử chân chánh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]