Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

31. Tứ Diệu đế

24/02/201116:04(Xem: 8250)
31. Tứ Diệu đế

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

31. Tứ Diệu đế

Trong suốt cuộc đời của Đức Phật Thích Ca, Ngài lúc nào cũng nuôi một hoài bảo là làm thế nào để cứu chúng sinh ra khỏi cuộc đời đau khổ. Với tâm niệm này, Ngài đã hy sinh 11 năm của cuộc đời son trẻ để tìm mọi phương cách tu học ngõ hầu có thể đạt đến cứu cánh nầy. Mặc dù mang một ý chí sắt đá, cũng như trải qua không biết bao nhiêu là gian khổ, cuối cùng Ngài đã đạt thành chánh quả và trở thành Phật Thích Ca Mâu-ni. Trong giờ phút lịch sử của đêm mùng 8 tháng chạp đó, Ngài đã liên tiếp chứng được Túc mệnh minh, Thiên nhãn minh, và Lậu tận minh. Chính Lậu tận minh này đã giúp Ngài thấu hiểu nguồn gốc của tất cả những sự khổ đau và phương pháp diệt trừ những đau khổ này đề tìm ra chân hạnh phúc. Mặc dù giáo lý của Ngài thì cao siêu, thâm diệu, còn căn cơ của phần lớn chúng sinh thì thấp kém không thể nào lãnh hội những giáo lý đó dễ dàng được. Nhưng không vì thế mà Ngài không làm tròn trách nhiệm cao cả là hóa độ chúng sanh để dìu dắt họ ra khỏi bể khổ trầm luân và cuối cùng nắm tay đưa họ lên bờ giác ngộ.

Việc đầu tiên sau khi đắc đạo là Ngài tìm đến hai vị thiền sư đã dạy Ngài thủa trước với thiện tâm là đem chân lý mà Ngài vừa mới đạt để truyền cho họ, nhưng tiếc thay họ đã quy thiên. Không nản chí, Ngài liền tìm đến vườn Lộc Uyển (Deer Park) để thuyết pháp cho 5 người bạn đồng tu ngày nọ. Nhóm ông Kiều Trần Như sau khi nghe Ngài thuyết giảng về Tứ Diệu Đế thì tất cả đều khai ngộ và tất cả đều chứng được quả vị A-la-hán và đây chính là 5 vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Tứ Diệu Đế kể từ đó được xem là giáo lý căn bản của Phật giáo dùng để giác ngộ không biết bao nhiêu chúng sinh cho tới ngày nay.

Nếu chúng ta muốn có một kết quả chắc chắn, thì Tứ Diệu Đế là cứu cánh của chúng ta. Pháp môn này, tuy tiến chậm, nhưng khi đạt được bước nào là chắc chắn bước nấy. Nó được xem là nền tảng căn bản trong giáo lý của Đức Phật, bởi vì nếu không thông hiểu nó thì khó lòng mà đạt được những bước cao hơn. Vì tính chất căn bản đó, Tứ Diệu Đế chỉ có thể đưa con người đến quả vị A-la-hán là tối đa. Nhưng một khi đã vượt ra khỏi Lục đạo Luân hồi, cộng thêm với sự tinh tấn và quyết tâm tu hành thêm những pháp môn khác, thì cõi Bồ-tát cũng như cõi Phật cũng không còn xa mấy.

Vậy thế nào là Tứ Diệu Đế?

Tứ là bốn, Diệu là đẹp, là toàn hảo, Đế là sự thật chắc chắn và rõ ràng đứng đắn nhất. Vậy Tứ Diệu Đế là bốn sự thật chắc chắn và toàn hảo nhất. Đức Phật đã cẩn thận chia chân lý nầy ra làn bốn đoạn: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Nhưng tại sao lại phải phân chia ra như vậy? Ngài có dụng ý gì trong vấn đề dạy dổ chúng sinh?

1) Khổ đế (Dukkha) (Suffering): Trong cuộc sống của chúng ta, không một ai là không biết khổ. Đói cũng khổ, no cũng khổ, trẻ thì khổ theo trẻ, còn già thì khổ theo già. Độc thân có cái khổ của những kẻ cô đơn, còn người lập gia đình thì có cái khổ của kẻ thành gia thất. Sinh khổ, tử khổ, bịnh khổ, lão khổ, và cuối cùng đến chết cũng chưa hết khổ. Bởi thế, nếu mà kể hết những nỗi khổ trên thế gian nầy, thì biết chừng nào mà nói cho xong. Do đó, Đức Phật đã gọi thế gian là biển khổ và chúng sinh thì đang lặn hụp trong biển trầm luân này.

2) Tập đế ( Sameda dukkha) ( Arising of Suffering): Sau khi cho chúng sinh biết đời là biển khổ, thì bước kế tiếp mà Đức Phật muốn cho chúng ta thấu hiểu là nguyên nhân nào đã tạo ra những nỗi khổ ở trên. Bất cứ nỗi khổ nào trên thế gian cũng có nguyên nhân phát sinh ra nó và tìm ra những nguyên nhân đó là toàn bộ nội dung của phần Tập đế này.

3) Diệt đế (Nirodha Dukkha) (Cessation of Suffering): Đã biết đời là khổ và chúng ta cũng đã biết lý do mang đến sự đau khổ này thì bây giờ Đức Phật lại chỉ chúng ta làm thế nào để tận diệt những nỗi khổ này đi. Cuộc đời của chúng ta cũng chẳng khác nào như đồng tiền hai mặt, một bên thì chúng ta phải đối diện với đau khổ, những đen tối của cuộc đời, còn mặt kia thì huy hoàng sáng lạng bởi vì một khi đã tận diệt được những khổ đau rồi thì trong chúng ta Niết Bàn sẽ từ từ hiện ra. Đây chính là chân hạnh phúc ở thế gian nầy vậy.

4) Đạo đế (Nirodha Gamadukkha) (The Noble Path): Muốn đạt được chân hạnh phúc này, chúng ta phải theo một số phương pháp để diệt trừ mọi đau khổ. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của Tứ Diệu Đế bởi vì chúng ta một khi đã chán ngán những cảnh khổ đau trên trần thế nầy và đã hiểu rõ nguồn căn của sự khổ đau thì chúng ta tha thiết mong sao được giải thoát khỏi cảnh khổ để đạt đến một cảnh an vui tốt đẹp nhất. Nhưng nếu chúng ta không có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn này thì những hiểu biết và mong muốn kia sẽ trở thành vô nghĩa và dĩ nhiên là chúng ta sẽ khổ đau thêm.

Trong phần Đạo đế, ngoài Ngũ Căn, Ngũ Lực, còn có Thất Bồ-đề và sau cùng là Bát Chánh Đạo có thể giúp chúng ta đạt đến mục tiêu tối hậu là chứng được Niết Bàn cũng như đạt đến quả vị A-la-hán. Chính quả vị A-la-hán này sẽ bảo đảm chúng sinh thoát ra khỏi lục đao luân hồi và từ đấy con người sẽ không còn lo lắng về sự sinh tử nữa. Cứu cánh của người tu Phật là phải hiểu nguồn căn gốc rễ của các chân lý nầy. Tại vì sao? Khi chúng ta muốn tu Phật, trước nhất là chúng ta muốn tạo cuộc sống hiện tiền thêm phần ý nghĩa. Chữ ý nghĩa ở đây là không phải là thêm giàu thêm của mà là phải noi theo đạo pháp để biến cuộc sống này thành an vui, tự tại. Biết dùng trí tuệ để khắc chế tham, sân, si và cuối cùng dùng lòng từ bi để mang hạnh phúc cho mọi người tức là tự đem hạnh phúc cho chính mình vậy.

Sau cùng, Đức Phật chứng minh cho chúng ta là Ngài đã làm tròn nhiệm vụ của kẻ dẫn đường để đưa chúng ta đi từ cõi đời đau khổ đến một cảnh giới an vui tự tại. Vâng, chính Ngài đã đặt vào tay của chúng ta một bản đồ chỉ dẫn rõ ràng về cuộc hành trình và những phương tiện cần thiết để chúng ta có thể đạt được mục đích này.

Trên đây là phần khái lược của Tứ Diệu Đế để giúp chúng sinh có một ý niệm tổng quát về những điều mà Đức Phật muốn dạy cho chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2022(Xem: 8587)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7654)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
23/03/2022(Xem: 6450)
Tác ý là sự quyết định của tâm. Tác ý có thể xấu hay tốt, thiện hay bất thiện. Tác ý sanh lên trong lúc nào? Tác ý có thể sanh lên từ cảm giác nhưng cũng có thể sanh lên từ sự suy tưởng hay suy nghĩ của mình. Như vậy, làm thế nào để biết chắc chắn đó là tác ý? Tác ý là một cảm giác mạnh sinh khởi trong một con người. cảm giác mạnh này thôi thúc người đó phải hành động để giải quyết vấn đề. Cảm giác này được coi là tác ý vậy...
10/12/2021(Xem: 4409)
Trong một kiếp nhân gian, mọi chúng sinh đều khởi đầu từ sinh và kết thúc ở diệt. Có sinh, phải có diệt. Diệt là chấm dứt để trở về với cát bụi, khép kín một vòng sinh lão bệnh tử. Tứ là sự chết, sự kết thúc. Trong Kinh Tử Pháp ( Tạp A Hàm, quyển 6, số 121, 雜阿含經 第6卷,一二一,死法), Phật dạy các đệ tử chánh tư duy về vô thường trong sinh tử để không dính mắc, không chấp giữ mà đạt đến giác ngộ Niết Bàn.
27/11/2021(Xem: 2638)
Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải (1938 – 2003) đã để lại nhiều tác phẩm lớn, vừa có giá trị Phật học, vừa có giá trị văn học. Một tác phẩm trong những tháng cuối của cuộc đời Ni Trưởng là tập thơ Ngọa Bệnh Ca, được sáng tác trong thời gian nằm bệnh vào đầu năm 2003. Rồi cuối năm 2003, Ni Trưởng tử nạn trong một tai nạn giao thông. Bài viết nảy sẽ ghi lại những suy nghĩ về bài thơ “Người Gỗ” trong thi tập Ngọa Bệnh Ca của Ni Trưởng. Trong bài chỉ là các suy nghĩ rời, từ một người không có thẩm quyền nào, cả về Phật học và văn học.
24/11/2021(Xem: 3511)
Tôi nhớ lại có lần Nữ cư sĩ Clair Brown, Giáo sư Tiến sĩ từ Trường đại học California – Berkeley (UC Berkeley) đã đề cập với tôi về một thứ gọi là “Kinh tế học đạo Phật” (Buddhist economics).
23/11/2021(Xem: 5148)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
14/11/2021(Xem: 16482)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11536)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
05/09/2021(Xem: 14901)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567