Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Nhẫn nhục

24/02/201116:04(Xem: 8337)
18. Nhẫn nhục

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

18. Nhẫn nhục

Trên con đường tu đạo chúng ta sẽ gặp rất nhiều thử thách, nhưng trước khi nói về những chông gai trắc trở mà chúng ta có thể sẽ đối diện, chúng ta hãy quay về khoảng 2500 năm trước đây khi Đức Phật quyết định xuất gia xả thân cầu đạo, thì Ngài phải đương đầu với không biết bao nhiêu là trở ngại. Ngài bắt đầu tu thiền rồi cũng không đạt được những điều Ngài muốn, nếu không kiên nhẫn thì Ngài đã bỏ cuộc. Ngài tiếp tục tu theo lối khổ hạnh, hành thân hoại thể trong sáu năm trời cũng không đem lại kết quả thích đáng nào.

Thử hỏi ở trường hợp của một người thường, chúng ta có còn đủ kiên nhẫn để tiếp tục con đường mà chúng ta muốn đi đến nữa không? Sau đó, Ngài tham thiền nhập định trong suốt 49 ngày trước khi Ngài chứng quả Bồ-đề. Sự thành công của Đức Phật không phải là một sự tự thiên mà có, nhưng đây là một thử thách cực độ đức tính kiên nhẫn của một vĩ nhân khi muốn đạt được một chân lý tối thượng để giải thoát cho nhân loại thoát khỏi cảnh sinh tử khổ đau.

Khi đã hiểu sự kiên nhẫn đưa đến thành công lớn như thế, thì chúng ta tự hỏi nhẫn nhục có ý nghĩa gì?

Nhẫn có nghĩa là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt, nghịch lòng.

Nhục là điều sĩ nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.

Nhưng trong kinh Phạn không có chữ “nhục”, mà chữ nhục ở đây là do những vị Đại sư khi họ dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa mà ra. Họ đã ghép thêm chữ nhục vào cho nó thêm ý nghĩa. Tại sao mà họ làm vậy?

Chúng ta còn nhớ trước khi Đạo Phật du nhập vào Trung quốc, thì Đạo Khổng đã phát triển rộng rãi trong xã hội này. Đức Khổng Tử đã lấy Hiếu, Để, Trung,Thư làm gốc và lấy sự sửa mình làm căn bản để mà dạy người. Bởi vậy, người Trung quốc có câu: ”Sĩ khả sát, bất khả nhục”, có nghĩa là người trí thức thà chết chứ không chịu nhục. Quý vị thử nghĩ rằng: “thà chết vinh còn hơn sống nhục” thì cái giá trị của chữ “nhục” còn nặng hơn cái chết.

Bởi vậy, khi dịch kinh sách thì những vị Đại sư ngày xưa đã ghép hai chữ này lại với nhau cho ý nghĩa của nó thật sâu sắc để chúng sinh ngẩm nghĩ mà tu hành.

Vậy nhẫn nhục là chịu nhục đến chỗ tột cùng không còn ai có thể nhẫn nhục hơn thế nữa.

Nói như thế thì người tu Phật tại sao lại cần phải nhẫn nhục?

Con đường tu đạo mà muốn đạt thành viên mãn thì không phải là dễ, chẳng hạn như tu thiền không thể nào một sớm một chiều mà đạt được”minh tâm kiến tánh”, và niệm Phật cũng cần thời gian mới đạt được “nhất tâm bất loạn”. Nhưng trên đời này chúng ta nhẫn cái mà người khác không nhẫn được thì mới thành công được. Muốn thành công nhỏ thì nhẫn nhỏ, nhưng nếu muốn thành công lớn thì chúng ta cần phải nhẫn nhiều hơn. Hơn thế nữa, cổ nhân cũng có câu:”Tiểu bất nhẫn, bất thành đại sự”, có nghĩa là việc nhỏ mà mình không thể nhẫn nhục được, thì việc lớn không mong chi thành công.

Chúng ta hằng ngày phải đương đầu với rất nhiều cảnh trái tai gai mắt, đó là chưa kể người đời thì ăn ngược nói ngạo, gian tham quỷ quyệt, thay trắng đổi đen. Nếu không có tâm nhẫn nhục thì Tham, Sân, Si sẽ nỗi dậy khiến cho Thân, Khẩu, Ý của chúng ta vọng động và từ đó chúng ta sẽ tạo cho mình những ác nghiệp mà có thể làm trở ngại cho việc vãng sinh sau này. Khi đối diện với nghịch cảnh, chúng ta nên nhớ rằng tất cả mọi việc trên thế gian này đều là vô thường, ngay cả chính cái bản thân của chúng ta cũng vậy, thì dầu cho chúng ta có tranh dành, chiếm đoạt, đánh đập, hay sĩ vả người khác cũng chẳng có ích lợi gì.

Nói như thế không phải chúng ta chọn con đường nhu nhược để sống. Mà con đường chúng ta đi là con đường nhân đạo dựa trên căn bản thêm bạn bớt thù và lấy phương châm là tạo hạnh phúc cho người tức là tự tạo hạnh phúc cho chính mình vậy. Nếu có người chửi mắng mình, thì mình phải bình tỉnh tự nghĩ rằng: Ta có làm gì sai quấy không? Nếu có thì họ sĩ nhục ta là thích đáng rồi, ta không nên cải lại mà chỉ cám ơn họ thôi. Còn nếu ta trong trắng, thì những lời chửi mắng kia đâu có dính líu gì với ta đâu mà phải bận tâm! Ta nhẫn nhục là vì ta có lòng Từ Bi Hỷ Xã, thương người, và không muốn làm người phải đau thương.

Nhẫn nhục của lòng từ bi thì khác hẳn với nhẫn nhục do tham vọng, sân si, ái dục thúc đẩy. Bởi vì những nhẫn nhục do ái dục sinh ra, thì họ cố cắn răng chịu nhục một thời, rồi sau đó sẽ tìm phương hại người để trả thù. Đây là đại ác. Khi nói về chuyện nhẫn nhục để trả thù thì trong truyện Đông Châu Liệt Quốc vào khoảng năm 26 đời Châu Kinh Vương, tức là cùng một thời với Đức Khổng Tử tại nước Lổ, giữa vua Việt là Câu Tiển và vua Ngô là Phù Sai.

Quý vị còn nhớ là Ngủ Tử Tư vì chạy trốn vua Sở Bình Vương đã giết hại toàn gia đình của mình, phải nghĩ cách trốn qua ải, chỉ một đêm mà đầu bạc phơ. Sau ông gặp được vua Ngô là Hạp Lư, cùng với Tôn Vủ đem binh về báo thù nhà, nhưng lúc bây giờ vua Sở mới chết. Lòng thù hận đã khiến ông sai lính quật mồ vua Sở Bình Vương để bằm tử thi nát ra như cám cho hả giận. Khi vua Việt là Doản Thường nghe tin nước Ngô đang bỏ trống, định đánh lén bất ngờ, nhưng Tôn Tử đã giúp vua Ngô lui binh về kịp. Từ đó giữa Việt và Ngô lại tạo thù kết oán.

Khi vua Ngô là Hạp Lư chuẩn bị kéo quân sang báo thù, thì vua Việt là Doản Thường bị bệnh chết, con là Câu Tiển lên thay. Vì không nghe lời can gián của Ngủ Tử Tư là đang lúc người ta có tang mà đánh là bất nhân, vua Ngô bị thảm bại mà chết, cháu là Phù Sai lên thay và thề sẽ trả mối hận này. Khi quân đã hùng mạnh thì vua Phù Sai đánh thắng vua Câu Tiển. Nhưng thay vì giết đi, lại nghe lời nịnh hót của Thái Tể Bá Hi để cho Câu Tiển được hàng.

Trong thời gian bị giam cầm, vì chí lớn, Câu tiển nghe lời Phạm Lải đi nếm phân của vua Phù Sai để lấy lòng trong khi ông ta đang bệnh. Quý vị có thấy là khi con người đã quyết chí báo thù thì họ chấp nhận làm bất cứ việc gì để có cơ hội phục thù. Vì nghĩ rằng Câu Tiển đã ăn năn nên Phù Sai thả “cọp” Câu Tiển về nước. Sau đó Câu Tiển nghe lời Phạm Lải đem mỹ nhân kế Tây Thi, Trịnh Đán cống sang làm cho Phù Sai say đắm mà quên đi phòng bị. Cuối cùng Câu Tiển đã diệt được Phù Sai.

Cái nhẫn nhục của Câu Tiển thì trên đời nầy khó có ai bì kịp bởi vì ở địa vị cao sang tột đỉnh của một vì chúa tể một nước mà cam lòng làm tên giữ ngựa, hốt phân, giữ chuồng mà bề ngoài không tỏ ý oán hận. Việc nếm phân cho Phù Sai càng chứng tỏ sự nhẫn nhục đến tột độ và cho thấy chí phục thù mảnh liệt đã giúp cho Câu Tiển đến chỗ thành công. Nhưng sự thành công nào mà không phải trả giá. Cái giá ở đây là từ khi Câu Tiển nếm phân, ông ta sinh ra bệnh hôi miệng cho nên dù cao lương mỹ vị ông ta ăn cũng không biết ngon. May thay, Phạm Lải tìm được một thứ rau gọi là “rau chấp” dâng cho vua ăn để trừ bịnh nầy. Rau này ăn có mùi hôi nhưng rất hạp với Câu Tiển nên nhà vua cho đặt tên ngọn núi có rau này là Chấp sơn.

Có nhẫn nhục thì lòng từ bi mới chan chứa, tính thanh tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người người quý trọng, và dĩ nhiên đạo quả viên thành.

Vì nhận thấy công đức lớn lao và quý báu của nhẫn nhục, nên cổ nhân đã có câu nhắn nhủ với người đời một cách mạnh mẻ như sau:

Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận.

Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn hóa nhất tề tiêu.

Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc.

Hưu hưu hưu, cái thế công danh bất tự do.

Tạm dịch là:

Nhẫn nhẫn nhẫn (thân nhẫn, khẩu nhẫn, tâm nhẫn) thì điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.

Nhịn nhịn nhịn (thân nhịn, khẩu nhịn, tâm nhịn) thì ngàn tai muôn họa đều tan biến.

Nín nín nín (thân nín, khẩu nín, tâm nín) thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.

Thôi thôi thôi (thân thôi, khẩu thôi, tâm đều thôi) thì những công danh cái thế không còn tự do.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2022(Xem: 8674)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7701)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
23/03/2022(Xem: 6465)
Tác ý là sự quyết định của tâm. Tác ý có thể xấu hay tốt, thiện hay bất thiện. Tác ý sanh lên trong lúc nào? Tác ý có thể sanh lên từ cảm giác nhưng cũng có thể sanh lên từ sự suy tưởng hay suy nghĩ của mình. Như vậy, làm thế nào để biết chắc chắn đó là tác ý? Tác ý là một cảm giác mạnh sinh khởi trong một con người. cảm giác mạnh này thôi thúc người đó phải hành động để giải quyết vấn đề. Cảm giác này được coi là tác ý vậy...
10/12/2021(Xem: 4442)
Trong một kiếp nhân gian, mọi chúng sinh đều khởi đầu từ sinh và kết thúc ở diệt. Có sinh, phải có diệt. Diệt là chấm dứt để trở về với cát bụi, khép kín một vòng sinh lão bệnh tử. Tứ là sự chết, sự kết thúc. Trong Kinh Tử Pháp ( Tạp A Hàm, quyển 6, số 121, 雜阿含經 第6卷,一二一,死法), Phật dạy các đệ tử chánh tư duy về vô thường trong sinh tử để không dính mắc, không chấp giữ mà đạt đến giác ngộ Niết Bàn.
27/11/2021(Xem: 2651)
Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải (1938 – 2003) đã để lại nhiều tác phẩm lớn, vừa có giá trị Phật học, vừa có giá trị văn học. Một tác phẩm trong những tháng cuối của cuộc đời Ni Trưởng là tập thơ Ngọa Bệnh Ca, được sáng tác trong thời gian nằm bệnh vào đầu năm 2003. Rồi cuối năm 2003, Ni Trưởng tử nạn trong một tai nạn giao thông. Bài viết nảy sẽ ghi lại những suy nghĩ về bài thơ “Người Gỗ” trong thi tập Ngọa Bệnh Ca của Ni Trưởng. Trong bài chỉ là các suy nghĩ rời, từ một người không có thẩm quyền nào, cả về Phật học và văn học.
24/11/2021(Xem: 3523)
Tôi nhớ lại có lần Nữ cư sĩ Clair Brown, Giáo sư Tiến sĩ từ Trường đại học California – Berkeley (UC Berkeley) đã đề cập với tôi về một thứ gọi là “Kinh tế học đạo Phật” (Buddhist economics).
23/11/2021(Xem: 5165)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
14/11/2021(Xem: 16565)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11590)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
05/09/2021(Xem: 14931)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567