Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

29. Con Người Từ Đâu Đến

24/02/201116:04(Xem: 8612)
29. Con Người Từ Đâu Đến

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

29. Con Người Từ Đâu Đến

Đã là con người sống trong thế gian này, cũng có một giây phút nào đó chúng ta thắc mắc là mình từ đâu mà đến? Và mình sẽ đi về đâu? Tại sao có kẻ thì xinh đẹp, còn có người lại xấu xí? Có người thì khỏe mạnh, sao lại có kẻ bị tật nguyền? Ai là người chịu trách nhiệm cho tất cả những việc này?

Vậy trước hết chúng ta phải tìm hiểu xem con người từ đâu mà có?

Những tôn giáo thờ Thượng đế, thì con người là sản phẩm của Ngài. Chính Thượng đế là đấng Tối cao, Toàn năng, Toàn thiện và Toàn trí, chẳng những đã tạo ra con người, mà còn sáng tạo ra cả thế gian và vũ trụ nữa. Lý luận như vậy mới nghe qua thì thật là hữu lý, nhưng xét cho kỹ thì bất cứ cái gì trên thế gian nầy cũng đều phải có thỉ có chung, có nhân có quả. Nói thế có nghĩa là gì? Nếu nói Thượng đế đã sáng tạo ra con người, thì ai đã sáng tạo ra Thượng đế? Thượng đế từ đâu mà ra? Không có nhân thì làm sao có quả?

Còn Phật giáo thì trả lời như thế nào?

Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi muốn nói đến thuyết “Thập nhị nhân duyên” của Đức Phật. Vậy thế nào gọi là nhân duyên? Nhân có nghĩa là nguyên nhân, dùng để chỉ những vật chính làm nhân và chính nó trực tiếp sinh ra một vật khác. Chẳng hạn như hạt lúa là nhân sinh ra cây lúa. Còn duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật có tính cách trợ giúp dù trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được thành. Chẳng hạn như phân bón, ánh sáng, nước và công vun bón là trợ duyên cho hạt lúa trở thành cây lúa. Mười hai nhân duyên đó là:

1) Vô minh: có nghĩa là không tỏ ngộ chân tâm, hoặc là hiểu biết các pháp không đúng như thật do đó mà sinh ra mê lầm. Cái thật thì cho là giả, giả thì cho là thật, điên đảo hư vọng chấp ngã. Trong 12 nhân duyên, thì vô minh là lợi hại nhất.

2) Hành: là hành động, tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân, khẩu, ý tác tạo ra các nghiệp lành hay dữ.

3) Thức: là thần thức (còn gọi là linh hồn). Vì thân, khẩu, ý tác tạo những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ quả báo khổ hay vui ở đời sau.

4) Danh sắc: là thân tâm. Trong thân thể của con người, thì phần tinh thần (tâm) không có hình sắc nên gọi là Danh, còn phần thể chất có hình sắc thì gọi là Sắc.

5) Lục nhập: mỗi khi lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì lục thức được phát sinh và sự thu nhập lục thức này gọi là lục nhập.

6) Xúc: là sự tiếp xúc của lục căn với lục trần, như tai nghe tiếng nói, thân cảm thấy nóng lạnh…

7) Thọ: là thọ lãnh, khi lục căn tiếp xúc với lục trần, thì thọ lãnh những cảnh vui hay cảnh buồn.

8) Ái: là ưa muốn. khi thọ lãnh cảnh vui, thì sinh lòng tham; khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, buồn rầu. Đây là cái động cơ thúc đẩy thân, khẩu, ý tạo tác ra những nghiệp.

9) Thủ: là giữ lấy. Nếu gặp cảnh tốt thì tham cầu, gặp cảnh xấu thì phát sinh sân, si để lìa bỏ. Đây là nguyên nhân tạo ra nghiệp sinh tử.

10) Hữu: là có. Bởi vì đời này chính mình đã tạo ra nhân lành hay nhân dữ, thì đời sau phải chịu quả khổ hay vui mà mình phải thọ lãnh.

11) Sanh: là sanh ra. Do ái, thủ, hữu làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, vì vậy phải sanh ra đời sau để thọ quả báo.

12) Lão, Tử: già và chết. Đã có sanh, tất phải chịu khổ già rồi chết.

Khi còn ở trên thế gian này, thì vô minh đã làm cho tâm của chúng ta bị mê muội để không còn sáng suốt phân biệt đâu là thật, đâu là giả và nhận biết sai lầm về con người và vạn vật trong vũ trụ nầy. Nhận biết sai lầm chính là cội nguồn phát sinh ra tam độc Tham-Sân-Si để tạo ra nghiệp mà dẫn họ đi lên, đi xuống lang thang lẩn thẩn trong sinh tử Luân hồi. Những nghiệp báo này có khi thiện, có khi ác. Khi chúng ta qua đời, thì những nghiệp báo này đi theo chúng ta như hình với bóng. Tất cả những nghiệp báo này được gom góp lại và được gọi là “nghiệp thức”. Thân tứ đại của chúng ta thì trở về với tứ đại, còn nghiệp thức thì tiếp tục bám theo thần thức (linh hồn của những tôn giáo khác).

Một khi chúng ta chết, ngũ uẩn tan rã và nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái gì? Như chúng ta đã biết Lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức) thì sanh diệt vô thường, biến chuyển không ngừng, thì mặc dầu nghiệp thức còn đó, nhưng lấy cái gì gìn giữ những nghiệp thức đó để chuyển qua đời tương lai?

Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chính Đức Phật đã khẳng định rằng một khi con người gây ra bất cứ một nghiệp thức nào thì nó sẽ được bắt lấy và gìn giữ mãi mãi trong Tàng thức từ đời nầy sang đời khác, không bao giờ mất. Thí dụ chúng ta vừa tạo một ác nghiệp thì Mạt-Na thức tức thì ghi nhận hiện tượng nầy và sau đó chuyển cái ác nghiệp nầy vào lưu giữ lại trong A-Lại-Da thức (Tàng thức). Duy thức luận gọi Mạt-Na thức là thức thứ bảy và A-Lại-Da thức là thức thứ tám sau lục thức. Có một điểm khác biệt là lục thức: nhãn thức, nhỉ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức thì sinh diệt tức là nay có mai không, không có gì quan trọng. Còn Mạt-Na thức và A-Lại-Da thức thì không bao giờ mất.

Hễ con người còn tạo nghiệp thì nó còn giữ tất cả những chủng tử nầy đến khi hội đủ nhân duyên thì nó sẽ phát khởi tạo thành quả báo và nó chính là cái vui hay cái khổ của con người trong đời nầy. Vì thế tiến trình nầy còn được gọi là “kết nối đời sau”. Tại sao? Con người do phiền não mà tạo nên nghiệp và vì tạo nghiệp nên mới tiếp nối đời sau để thọ khổ. Nếu không có A-Lại-Da thức nầy để nắm giữ việc “kết nối đời sau” thì chúng ta một khi chết rồi thì mất luôn, không còn gì cả. Chính Mạt-Na thức và A-Lại-Da thức tự nó mang tính chất của cái ngã. Cái ngã vô hình để gìn giữ lấy tất cả những nghiệp thức mà chúng ta đã tạo ra. Thêm nữa Mạt-Na thức và A-Lại-Da thức có khả năng chất chứa những chủng tử của nghiệp thức đến vô tận và kéo từ đời này sang đời khác, tiếp diễn không ngừng.

Nó chính là nền móng của nhân quả luân hồi, mà cũng là căn nguyên của giải thoát. Bởi vì trong A-Lại-Da thức có đủ chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu tức là phần phước đức chính là những hạt giống phát sinh ra những hiện tượng vui khổ của con người. Còn chủng tử vô lậu tức là phân công đức có khả năng không để cho tâm vọng động tức là thanh tịnh tâm và giúp cho chúng ta tìm đến sự giải thoát.

Vậy con người từ đâu mà có?

Khi có sự giao hợp giữa nam và nữ, thì Thân Trung Ấm (thần thức) của người chết được thác sinh vào thai mẹ để làm người. Trong thai mẹ, gom góp tinh huyết làm nhục thể và sau đó tâm thức cùng nhục thể hòa hợp với nhau gọi là Danh Sắc (Danh là tâm thức, sắc là nhục thể). Với thời gian, Danh Sắc lần lần tượng đủ lục căn (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý). Khi thai nhi được sanh ra, thì lục căn của hài nhi bắt đầu tiếp xúc với lục trần, do đó hài nhi biết nóng, lạnh, đau, êm…Bởi vì sự xúc chạm này, mà tâm của hài nhi dần dần phát sanh ra sự phân biệt rồi từ đó có những cảm giác thọ vui, hay khổ…Chính sự cảm thọ vui, khổ này mà phát sinh ra những khởi niệm ưa ghét. Cũng chính vì sự tham ái đó nên nó cố bám vào cái hay cái tốt, cái nó ưa thích và dĩ nhiên vì muốn thỏa mãn những chỗ ưa thích đó, nên nó tạo ra nghiệp căn. Mà tạo nghiệp thì phải chịu quả báo.

Đã có sanh, thì chúng sẽ già và sau cùng là chết. Như thế, một khi chúng ta tạo nhân trong quá khứ, thì nó sẽ là quả của hiện tại và quả của hiện tại sẽ là nhân cho quả của tương lai. Con người cứ như thế mà xoay vần mãi mãi không ngừng, đời nầy tan thì đời khác đến. Từ đấy mà suy ra thì chúng ta thấy rằng con người chẳng những sống một đời trong hiện tại này, mà trong quá khứ đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc đời rồi. Và sau nầy, trong tương lai chúng ta sẽ còn nối tiếp biết bao cuộc sống khác.

Nói một cách khác, chết là để thay đổi thân mới và sanh là để thế thân cũ. Nó xoay vần nối vòng sanh và chết, chết và sanh, thay thân cũ lấy thân mới, rồi lấy thân mới để thế thân cũ, như chúng ta thay đổi áo quần hàng ngày. Vậy thân thể của chúng ta ngày nay chỉ là một thân trong số vô lượng thân. Chúng ta đã thay bỏ không biết bao nhiêu thân về trước và sau này chúng ta cũng sẽ thay đổi không biết bao nhiêu thân nữa.

Khi đã hiểu sanh tử như thế thì chúng ta, đối với sự sanh không tham cầu bởi vì nó là vô thường không lâu không bền và đối với cái chết không sợ hãi bởi vì chết không phải mất hẳn đi, mà chỉ là sự thay cũ đổi mới mà thôi.

Sự sanh hiện tại, chỉ là một lần sanh trong vô lượng lần sanh, và sự chết ngày nay chỉ là một cái chết trong vô lượng lần chết mà thôi. Chúng ta đã thấy mười hai nhân duyên chẳng khác nào như mười hai vòng xích nối liền nhau làm thành một chuỗi xích, không biết đâu là đầu, đâu là cuối. Nếu cắt được một vòng xích, thì chúng ta sẽ phá được chuỗi xích nầy. Theo giáo lý nhà Phật thì sanh tử luân hồi là hiện tiền của nghiệp báo, là oan gia, là thê lương đối với con người. Nhưng làm thế nào để trừ phá cái vòng xích oan nghiệt kia? Trong mười hai nhân duyên, thì chữ “Ái” là quan trọng nhất. Ái là luyến ái, là cội nguồn của tham dục. Vì luyến ái nên chúng ta làm mọi thứ để giữ lấy (thủ) cho mình, rồi sau đó thủ sẽ sanh ra hữu (có). Vậy nếu không có ái thì không có hữu, không có hữu thì không có sanh, không có sanh thì không có lão tử và cuối cùng thì không còn đau khổ luân hồi.

Nhưng tại sao chúng ta lại đầu thai vào làm con của cha mẹ chúng ta mà không vào gia đình của người khác?

Sự quan hệ giữa cha mẹ và chúng ta có bốn loại: Báo ơn, Báo oán, Đòi nợ, và Trả nợ.

Trong đời quá khứ, nếu chúng ta kết duyên với cha mẹ của chúng ta, thì đời này chúng ta sẽ gặp lại họ. Nếu là ác duyên, thì chúng ta đến để đòi nợ và đôi khi còn tệ hại hơn nữa là chúng ta đến để báo oán bởi vì kiếp trước họ đã gây ra đau khổ cho chúng ta. Nợ càng lớn thì chúng ta đòi càng nhiều. Vì thế cổ nhân thường nói đây là oan gia nghiệp báo. Thật là chí lý. Còn nếu là phước duyên, thì chúng ta đến để báo ơn, để đền đáp lại những gì họ đã giúp đỡ cho chúng ta trong tiền kiếp. Đây chính là cảnh”phụ từ, tử hiếu”.

Có người lại thắc mắc là tại sao ở đời có người thì đẹp đẽ, còn có kẻ bị tật nguyền?

Trong kinh Thiên Sanh, Đức Phật đã dạy rằng: ”Khi còn sanh tiền, thân, khẩu, ý thì thọ điều lành hay gây ra điều dữ. Nếu tạo nghiệp lành, thì cảm thân tốt đẹp; nhân dữ chiêu cảm quả xấu xa, do từ tâm tạo ra rồi tự thọ. Nếu chúng sanh muốn được thân thể tốt đẹp khỏe mạnh để hưởng hạnh phúc, thì phải lấy năm giới cấm làm căn bản”.

Muốn được thân thể khỏe mạnh, sống lâu trong tương lai, thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói điều hòa trong trẻo, thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẻ, thì đừng đụng đến việc tà dâm. Muốn gia đình được ấm no thì đừng trộm cắp, gian tham.

Lúc bình sinh, thì thân, khẩu, ý của chúng ta tạo tác lắm điều ác nghiệp, thì quả tương lai chúng ta phải gánh chịu những hậu quả này. Một trong những quả báo nhản tiền là thân thể của chúng ta trở thành xấu xí. Và đôi khi nếu ác nghiệp này thuộc loại nặng, thì chúng ta có thể bị tật nguyền. Còn kẻ kia thì họ biết giữ gìn trì giới, làm lành tránh dữ, thì đời sau chắc chắn họ sẽ được giàu sang phú quý, và thân thể thì xinh đẹp. Nên nhớ rằng chúng ta tạo nghiệp nhân gì thì tự tâm sẽ gìn giữ nghiệp nhân ấy và sẽ chuyển hiện ra quả đời sau.

Con người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp. Con người chỉ là một cái tên, là một giả danh để gọi cái kết hợp của ngũ uẩn. Khi đủ nhân duyên chúng nó tập hợp lại thì gọi là sống, khi nó tan rã thì là chết. Chính ngũ uẩn cũng vô thường và không thuần nhất.

Vô thường mà tưởng là thường, không ngã mà tưởng là có ngã. Đó là sự si mê lớn nhất của con người và chính do cái si mê này đã làm cho con người đang đau khổ lại càng khổ đau thêm.

Sau cùng, chúng ta thấy luật nhân quả đóng một vai trò tối quan trọng trong vấn đề sinh tử của con người. Thậy vậy, thân hiện giờ của chúng ta chính là cái quả của nghiệp thân mà mình đã tạo ra từ trườc. Và thân sẽ có sau này là tùy theo sự tạo nghiệp bây giờ. Khi mà đã hiểu như thế, thì cuộc đời của chúng ta hiện tại dầu có khổ đau hay sung sướng thì cũng chỉ là cái quả của cái nhân đời trước mà thôi. Có than khóc hay vui buồn cũng chỉ thế, không thể thay đổi được gì. Có thay đổi chăng là chúng ta phải cố gắng giữ gìn trì giới, phát huy tâm Bồ-đề, tạo dựng thập thiện nghiệp, thì chúng ta đã tạo được cái nhân lành hiện tại. Do đó cái quả tương lai chắc chắn sẽ vô cùng khả quan và viên mãn.

Phật dạy rằng: “Niết Bàn là đối với sanh tử mà có, trong tánh Phật, sanh tử đã không, cho nên Niết Bàn cũng như mộng”.

“Người phàm phu nhìn nhận tứ đại sắc thân cho là của Ta và tham sống sợ chết thì gọi là ngã tướng. Lòng còn thương ghét, ý chẳng bình đẳng thì gọi là nhân tướng. Niệm tưởng theo cái lòng muốn của phàm phu nó dẫn dắt chẳng cần giải thoát thì gọi là chúng sanh tướng. Tâm thức chưa diệt trừ, nghiệp chướng thường phát động, chẳng ngộ được cái pháp vô sanh chân không thật tánh thì gọi là thọ giả tướng”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2013(Xem: 4314)
Luận Phật Thừa Tông Yếu là tùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bản và cương yếu của Phật pháp. Thế nên bộ luận này cũng có tên là Khái Luận Về Phật Pháp Hiện Đại.
16/02/2013(Xem: 4994)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến: Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này. Hán dịch Pratīya là Duyên và Anh dịch là Condition. Trong Māhyamika, Ngài Nāgārjuna giải thích chữ Pratīya như sau: Utpadyate pratītyemān itīme pratyayaḥ kīla (1). Nghĩa là, do làm điều kiện cho cái kia sinh khởi, những cái này người ta gọi là Duyên. Samutpāda có nghĩa là tập khởi, đồng khởi, sinh khởi, tương khởi, cộng khởi… Do những ý nghĩa trên, mà Pratīya-samutpāda được các nhà Hán dịch là Duyên khởi hay Duyên sinh, tức là sự khởi sinh của vạn pháp cần phải có điều kiện (pratīya), nếu không có điều kiện, thì các pháp không thể sinh khởi.
31/12/2012(Xem: 4958)
Theo nghĩa hẹp, nhẫn nhục là nhịn chịu mọi nhục nhã và mọi khó khăn trở ngại, và vượt qua chúng một cách bình ổn. Nhà Phật gọi những chướng duyên làm ngăn trơ ûsự tiến tu là ma chướng, gồm ngoại ma (trở ngại do người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài gây ra)và nội ma (trở ngại từ chính thân tâm mình)
28/12/2012(Xem: 25007)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng. Mặc dù đạo Phật có bề dày lịch sử phong phú, đầy những giá trị, điều cần thiết đối với người học Phật ngày nay vẫn là làm thế nào để ứng dụng lời đức Phật dạy vào đời sống hàng ngày. Quyển 100 điều đạo đức tại gia này giúp tôi hiểu tầm ảnh hưởng của đạo Phật đối với cuộc sống thường nhật của con người. Nó có thể được xem như quyển sổ tay hướng dẫn chúng ta sống cuộc đời theo chánh pháp.
09/12/2012(Xem: 13318)
Người ta thường nói rằng tác giả 14 điều Phật dạy là Hòa thượng Kim Cang Tử. Thực tế không phải như vậy. Hòa thượng Kim Cang Tử chỉ có công phiên dịch 14 điều này ra từ chữ Hán. Vào những năm 1998-1999, ta mới thấy 14 câu này được lưu hành. Gần đây, chúng tôi có đọc được bản nguyên tác chữ Hán có ghi rõ xuất xứ là chùa Thiếu Lâm ở Trung Quốc tặng cho các phái đoàn Việt Nam.
08/11/2012(Xem: 8776)
Cách đây ít lâu - chính xác là ngày 14 tháng 9 - một bài viết được đăng lên trang Phật giáo Thư viện Hoa sen có nhan đề “Kinh Vu Lan Bồn thực hay giả?”của tác giả Đáo Bỉ Ngạn. Ngay hôm sau đó, bài viết này cũng xuất hiện trên trang Văn hóa Phật giáo và gợi lên một loạt những tranh biện kéo dài đến hơn một tháng sau. Ý kiến cuối cùng được đăng bên dưới bài viết này là vào ngày 20 tháng 10.
31/07/2012(Xem: 6660)
Chúng tôi viết quyển sách này cho nhữngngười mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quantrọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được. Người học Phật khimới vào đạo không hiểu đúng tinh thần Phật giáo, về sau sẽ hỏng cả một đời tu.Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xâydựng có một căn bản vững chắc, đi đúng đường hướng của Phật dạy. Hiểu Phật giáomột cách đúng đắn, mới mong thành một Phật tử chân chánh.
27/05/2012(Xem: 12533)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Đức Đạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn. Những đệ tử được Thế Tôn hóa độ, do căn cơ trình độ, tuổi tác, giới tính bất đồng, vì thế được chia thành 7 nhóm và được gọi là 7 chúng đệ tử của Phật. Trong đó, hai nhóm đầu là Ưu bà tắc và Ưu bà di thuộc hàng đệ tử tại gia; năm nhóm sau là Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Tỷ kheo và Tỷ kheo ni thuộc hàng đệ tử xuất gia. Trong bài này, chúng tôi sẽ tuần tự trình bày những giới pháp mà mỗi chúng đệ tử phải lãnh thọ, hành trì trên lộ trình tiến đến giải thoát.
12/02/2012(Xem: 5098)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
21/01/2012(Xem: 14702)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567