Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật Thừa Tây Tạng

23/10/201018:02(Xem: 13856)
Mật Thừa Tây Tạng

MẬT THỪA TÂY TẠNG

Tantra in Tibet
Tsongkapa, Đức Dalai Lama và Jeffrey Hopkins
Dịch và biên tập bởi Jeffrey Hopkins.(*)
Việt dịch: 1999 Thiện Tri Thức.
Người dịch : An Phong.

Đồng biên tập bản văn của Tsongkapa và bản văn của Dalai Lama: Lati Rinpochay. Phụ tá biên tập bản văn của Tsongkapa : Geshe Gedušn Lodroš. Phụ tá biên tập bản văn của Dalai Lama : Barbara Frye. Nhà xuất bản Snow Lion - Ithaca, New York USA 1987.

Tantra in Tibet: In lần thứ nhất : 1977 George Allen & Unwin, London 1987 Snow Lion - Việt dịch : 1999 Thiện Tri Thức. Người dịch : An Phong.

Xuất bản dưới sự bảo trợ của Thư viện những Tác Phẩm và Văn Thư Tây Tạng với sự cho phép của Đức Dalai Lama như là để phát lộ truyền thống truyền miệng. Nguyện bất kỳ công đức nào trong việc giới thiệu cuốn sách về tantra này phụng sự cho sự lợi lạc của mỗi một chúng sanh khắp cả không gian.


Ghi chú của người biên tập

Đảnh lễ Vajradhara.

Đại Diễn giải về Mật thừa của Tsongkapa (1357-1419), nhà sáng lập phái Gelukpa của Phật giáo Tây Tạng, trình bày những đặc trưng chính của tất cả những hệ thống của tantra Phật giáo cũng như sự khác biệt giữa Kinh và Tantra, hai bộ phận của lời Phật dạy. Năm 1972 khi tôi ở Dharamsala, Bắc Ấn, với học bổng nghiên cứu Fulbright, Đức Dalai Lama yêu cầu tôi dịch Đại Diễn giải về Mật thừa, phần thứ nhất của nó chính là phần hai của cuốn sách này. Phần thứ nhất cuốn sách là bình giải của riêng Đức Dalai Lama, ngài đã bằng lòng đưa một cách khả ái vào tháng Tám năm 1974, khi tôi trở lại Dharamsala. Bình giải của ngài được thâu âm, dịch và xuất bản, cung cấp một cái nhìn vô giá vào tantra nói chung và công trình của Tsongkapa nói riêng. Trình bày truyền thống truyền miệng phong phú của Tây Tạng, lời nói của ngài phát lộ sự sử dụng thực tế và bi mẫn cao siêu thứ khoa học xưa cổ của việc phát triển tâm linh này.

Phần thứ ba của cuốn sách là một bổ sung ngắn mà tôi hy vọng sẽ làm sáng tỏ ba điểm then chốt của giáo lý của Tsongkapa. Phần bổ sung được rút từ những lời dạy truyền miệng của Kemsur Lekden (1900-71), trụ trì Trường Mật giáo của Lhasa Hạ, và của Giáo sư Geshe Gedušn Lodroš Đại học Hamburg cũng như từ những giải thích tổng quát về tantra được tìm thấy trong mỗi phái của bốn phái Phật giáo Tây Tạng :

Nyingma

Kho Tàng quý báu của Tối Thượng thừa và Kho Tàng những Yếu Chỉ của Longchenrapjam.

Kagyu

Trình Bày tổng quát những Bộ Tantra, Hấp Dẫn Người Trí của Padmakarpo.

Sakya

Trình Bày tổng quát những Bộ Tantra của Sošnam-tsemo ;
Trình Bày tổng quát những Bộ Tantra – những thuyết giải rút gọn, trung bình và giảng rộng của Butošn.

Geluk

Trình Bày về Giáo lý tổng quát và Bốn Bộ Tantra của Losangchoškygyetsen ;
Thuật ngữ học khởi sanh trong Mật thừa, Bộ phận kinh điển của những Vị Mang Giữ Tri Thức của Longdol Ngak-wanglosang ;
Những ghi chú linh tinh từ Giải nghĩa Đại Diễn Giải về Mật thừa của Pháp sư Jonay của Pabongkapa.

Hai phần đầu được dịch lại bằng miệng thành tiếng Tây Tạng cho Lati Rinpochay, một giáo sư triết học và lama về tantra từ tu viện của Dalai Lama ở Dharamsala, để sửa chữa và hiệu đính. Geshe Gedušn Lodroš, một học giả Tây Tạng lúc ấy đang dạy ở Đại học Hamburg, đã cung cấp thông tin và thuyết giải vô giá cho việc dịch bản văn của Tsongkapa. Barbara Frye, một sinh viên về Phật giáo Tây Tạng trong nhiều năm, đã cung cấp những giúp đỡ trọng yếu trong việc biên tập bình giải của Dalai Lama.

Một hướng dẫn cho bản văn của Tsongkapa, theo cách chia riêng của ngài về các nội dung, được làm thành bản sơ đồ mục lục trong phần phụ lục. Những bộ phận tám chương và tên trong bình giải của Dalai Lama và trong bản văn của Tsongkapa được thêm vào cho dễ hiểu. Sự phiên âm cho chữ Sanskrit được nhắm đến sự dễ dàng cho phát âm, dùng sh, sïh và ch hơn là sù, sï, và c. Với lần đầu mỗi tên Ấn, chữ Sanskrit được đưa vào, nếu dùng được. Thường thường Tsongkapa chỉ nhắc đến tên hay tác giả của một công trình, trong khi cả hai đều được đưa ra trong bản dịch để dự phòng nhu cầu kiểm tra lại. Những tiêu đề Sanskrit và Tây Tạng đầy đủ được tìm thấy trong bản thống kê sách tham thảo, nó được sắp xếp theo vần chữ cái theo tên kinh và tantra bằng tiếng Anh và theo những tác giả của các công trình khác. Những ngữ nguyên của những từ then chốt được đưa ra trong một bảng thuật ngữ ở phần chót.

JEFFREY HOPKINS .(*)
Charlottesville, Virginia

Tạ ơn
Chúng tôi muốn được cám ơn Ông Gerald Yorke bởi nhiều gợi ý
đã làm hoàn mỹ thêm phần dịch ra Anh ngữ của chương II.


NỘI DUNG

Ghi chú của người biên tập
I TINH TÚY CỦA TANTRA
bởi Tenzin Gyatso, Đức Dalai Lama thứ mười bốn
Tantra cho thực hành
Quy y
Tiểu thừa và Đại thừa
Kim Cương thừa
Tịnh Quang
Sự Vĩ Đại của Mật thừa
Làm sáng tỏ
Quán đảnh
II ĐẠI DIỄN GIẢI VỀ MẬT THỪA
bởi Tsongkapa
Những Lý Do cho đức tin
Những con đường đi đến Phật tánh
Kim Cương thừa
Yoga Hóa thần Bổn tôn
Phương Tiện trong Bốn Tantra
Một Mục Tiêu
Nhận dạng Bốn Tantra
Chuẩn bị cho Mật thừa
III PHỤ LỤC
bởi Jeffrey Hopkins
Tánh Không
Chuyển hóa
Mục đích của Bốn Tantra
Những điểm tinh yếu
Chú thích
Thuật ngữ


(*) Jeffrey Hopkins is Professor Emeritus of Tibetan and Buddhist Studies at the University of Virginia, where he has taught Tibetan Studies and Tibetan language since 1973. At the University of Virginia he served as Director of the Center for South Asian Studies for twelve years and founded a program in Buddhist Studies. His more than twenty-five books include Emptiness in the Mind-Only School (1999), Cultivating Compassion (2001), and, as translator-editor, His Holiness the Dalai Lama's How to Practice (2002). From 1979 to 1989 he served as His Holiness's chief interpreter into English.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2011(Xem: 5102)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
25/08/2011(Xem: 8004)
Trì tụng minh chú Om mani padme hum [Án ma ni bát di hồng] là một việc rất tốt. Tuy vậy, khi tụng chú cần phải nhớ nghĩ đến ý nghĩa của lời chú, vì sáu âm này mang ý nghĩa thâm sâu quảng đại vô cùng. Âm thứ nhất, OM, là tổng hợp của ba mẫu tự A, U và M, tượng trưng cho thân miệng ý ô nhiễm của người tụng chú, đồng thời cũng tượng trưng cho thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà...Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
22/08/2011(Xem: 4700)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
31/05/2011(Xem: 12370)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
22/05/2011(Xem: 4908)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
06/05/2011(Xem: 10436)
Khi truyền bá rộng rãi sang châu Á, Phật giáo thành công khi vượt qua một số vấn đề nổi bật từ những giới hạn về ngôn ngữ trong một số trường hợp phải phiên chuyển thành một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ nói của Ấn Độ. Giáo lý đạo Phật được truyền đạt bằng lời nói qua vô số ngôn ngữ và tiếng nói địa phương. Còn Kinh tạng, khi đã được viết ra, lại được phiên dịch thành hàng tá ngôn ngữ ngay cả trước thời kỳ hiện đại. Do vì nguồn gốc lịch sử không cho phép các học giả dùng ngôn ngữ nói trong việc giảng dạy, bài viết này sẽ tập trung vào những ý tưởng được viết ra, nhằm khảo sát việc truyền dạy qua lời nói chỉ trong thời kỳ Phật giáo Ấn Độ.
24/03/2011(Xem: 4571)
Mật tông hoặc Mật giáo có gốc từ chữ Sanskrit Tantra, phiên âm Hán Việt là Đát-đặc-la. Đôi khi Tantra cũng được dịch là Mật pháp và kinh sách Tantra được gọi là Mật kinh. Nguyên nghĩa của Tantra là “mở rộng, nối tiếp, kéo ra từ khung dệt, liên tục trong một thể thống nhất”. Đây là một thuật ngữ trừu tượng, khó dịch nên trong ngôn ngữ Tây phương, hầu hết các tác giả để nguyên chữ Tantra.
13/03/2011(Xem: 10056)
Trong tác phẩm “Một đời người, một câu thần chú” này, người viết cố gắng thể hiện những quan kiến Mật giáo về pháp môn trì niệm thần chú Mani từ nhiều khía cạnh khác nhau.
19/01/2011(Xem: 10592)
Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ chủ trì Pháp Hội Karachakra tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 07 năm 2011. Pháp hội bao gồm các nghi thức chuẩn bị, trì tụng cho hòa bình thế giới, quán đảnh Thời Luân và các nghi lễ thiết lập và hủy mạn-đà-la Thời Luân bằng cát. Đây là một Pháp hội 12 năm mới tổ chức 1 lần ở Hoa Kỳ, dưới sự chủ trì của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhân dịp này, BBT TVHS xin giới thiệu hai bài viết về pháp hội này. Bài viết dưới đây của thầy thầy Thích Nguyên Tạng nói về pháp hội này diễn ra tại Tây Ban Nhavà một bài khác của thầy Thích Nguyên Hiền nói về pháp hội Karachkra tại Ấn Độ.
14/01/2011(Xem: 4226)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]