Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đưa vào Mật Tông.

08/04/201312:55(Xem: 7593)
Đưa vào Mật Tông.

duavaomattong

ĐƯA VÀO MẬT TÔNG

Nguyên tác:Introduction to Tantra

Tác giả:Lama Thubten Yeshe
Biên tập: Jonathan Landaw

Chuyển ngữ: Thích nữ Trí Hải

---o0o---

Lời nói đầu

Tài liệu làm nên tập sách nhỏ này để giới thiệu Phật giáo mật tông - một đề tài thường bị ngộ nhận - được biên tập từ những bài giảng trong khoảng thời gian 1975-1983 của Thubten Yeshe, vị sư Tây tạng đã quá cố, người được môn đệ khắp thế giới trìu mến gọi là Lama Yeshe (Thầy).

Tiểu sử ngài đã được nói trong cuốn Dẫn nhập vào Năng lực Trí tuệ, một loạt bài chọn lọc từ những buổi giảng nhân dịp ngài viếng thăm Bắc Mỹ cùng với Lama Thubten Zopa Rinpoche. Ở đây chỉ xin nhắc lại vài điểm vắn tắt. Lama Yeshe ra đời ở Tolung gần Lhasa vào năm 1935, sáu tuổi đã vào tu viện Sera, ở đấy ngài được hấp thụ một nền giáo dục rộng rãi về thế học và phật học. Sau khi Tây tạng bị chiếm năm 1959, ngài hoàn tất việc học ở trại tị nạn Buxaduar đông nam Ấn, và đi định cư gần tháp Boudhanath, ngoại biên Kathmandu, Nepal. Ở đây ngài khởi sự tiếp xúc nhiều người tây phương. Năm 1971 ngài cùng Lama Zopa sáng lập trung tâm Tu viện Đại thừa trên đỉnh đồi Kopan, tổ chức những khóa giảng hàng năm lôi cuốn học viên ngày càng đông. Những học viên này về sau đã mở thêm hơn ba mươi trung tâm tu học. Trong mười năm cuối đời, Lama Yeshe thường lui tới những trung tâm này để diễn giảng, tổ chức các khóa huấn luyện lãnh đạo, và quan trọng hơn cả, gây cảm hứng cho mọi người, làm tấm gương thân giáo về hạnh lợi tha không mỏi mệt. Cuối cùng, vào ngày 3 tháng 3 năm 1984, tại bệnh viện Cedars-Sinai ở Los-Angeles, vào sáng sớm đầu năm âm lịch, ngài viên tịch vì chứng suy tim trầm trọng đã trên 12 năm đe dọa mạng sống ngài.

lamayeshe


Lạt Ma Yeshe

Ý nghĩ viết sách này đã manh nha từ 1981, khi Lama Yeshe thấy cần có một tác phẩm giới thiệu mật tông Phật giáo một cách dễ hiểu, không quá nặng thuật ngữ chuyên môn. Mặc dù các truyền thống Phật giáo Tây tạng đều xem mật điển là giáo lý sâu sắc và cao siêu nhất của Phật, Lama Yeshe vẫn cho rằng thông điệp cốt tủy của mật tông vốn vô cùng giản dị trong sáng, và hết sức phù hợp với đời sống hiện nay. Như ngài đã nhiều lần nói, người ta tìm cách khai thác bao nhiêu nguồn năng lượng hữu hiệu trong thiên nhiên, nhưng vẫn chưa hề biết đến cái năng lượng còn ghê gớm hơn tất cả, mãnh liệt hơn cả nguyên tử năng ẩn tàng trong mỗi người. Bao lâu năng lượng này chưa được khám phá, thì đời ta vẫn còn bị phân hóa vô mục đích, và ta vẫn làm nạn nhân cho những thế lực tinh thần cảm xúc đã tạo nên bi kịch thời đại.

Thực hành mật tông cốt là để động đến tài nguyên nội tâm đang tàng ẩn ấy, và sử dụng nó tối đa. Sự thực hành ấy đem lại cho ta cơ hội tốt nhất để thoát khỏi những áp lực nói trên, và chuyển hóa đời mình thành một cái gì toàn vẹn, có ý nghĩa, điều mà ai cũng khát khao đạt đến.

Theo Lama Yeshe, mật tông rất phù hợp với thế giới hiện nay vì nó đầy tính "khoa học." Nói cách khác, đây không phải là một hệ thống giáo điều phải được chấp nhận bằng đức tin, được xem là thẩm quyền tối thượng. Kỳ thực đây là một cuộc thăm dò từng bước thực tiễn thân phận con người, để tự khám phá thực chất của mình. Những kết quả của sự thám hiểm ấy có thể kiểm chứng được bằng quan sát và thực nghiệm. Nhờ nhấn mạnh kinh nghiệm trực tiếp mà mật tông hấp dẫn được đa số người tây phương lâu nay bị vỡ mộng vì theo những tôn giáo đòi hỏi đức tin mù quáng. Hơn nữa, như những chương sau sẽ chứng minh, mật tông là một đường lối tu tập đầy tính hỉ lạc và xác quyết - những đức tính hoàn toàn vắng bóng trong nhiều hình thức tín ngưỡng hiện nay, vốn là những biến tướng của các truyền thống tôn giáo đã có một thời oanh liệt.

Vào mùa đông 1982-83, một cuộc nhập thất tập thể được tổ chức gần Cecina ở Ý, mục đích là duyệt lại những bài ghi các buổi giảng mật tông của Lama Yeshe để xuất bản. Những thành viên tham dự nhập thất được cung cấp hàng trăm bài giảng mật tông mà Lama Yeshe đã giảng bằng Anh ngữ trong thập niên trước đấy. Mỗi thành viên tập trung vào một số đề tài liên hệ đến một pháp tu mật tông. Kết quả công trình của họ cũng như của những người biên tập về sau, là một số bài ghi đã được xuất bản dưới hình thức và ngôn ngữ không khác mấy với ngôn ngữ mà chính Lama Yeshe đã sử dụng lúc đầu.

Song song với việc tập trung vào một loạt bài giảng đặc biệt, những người biên tập còn xem kỹ mỗi bài ghi để tìm những thể tài chính yếu mà Lama Yeshe thường đề cập bằng nhiều cách, mỗi khi giảng. Bằng cách ấy một số lớn tư liệu đã được chọn lọc từ nhiều nguồn, và xếp đặt lại theo chủ đề. Ở đây những biên tập viên tập trung chú ý vào các tư liệu đề cập đến chủ đề "Mật tông" nói chung, mà để qua một bên những giải thích chi tiết về những pháp tu đặc biệt. Những chi tiết này sẽ được biên tập và xuất bản riêng.

Sau đó, người biên tập tác phẩm này đã xếp đặt lại các tư liệu đã được chọn lọc, ngõ hầu trình bày một tác phẩm có tính cách liên kết, nhất thống. Khi hoàn tất, bản sơ thảo đã được đọc lại cho Lama Yeshe nghe tại Dharamsala, Ấn độ, vào tháng tư năm 1983. Ngài đã cho nhiều hiệu đính, giải thích và gợi ý để cải thiện về nội dung cũng như hình thức, cách trình bày vấn đề. Trong năm đó ngài cũng tiếp tục vòng quanh thế giới để diễn giảng, và những bài tuyển chọn từ các buổi giảng này - nhất là những buổi giảng tại Pomaia, Ý và Boulder Creek, California- đã được in vào bản thảo.

Tôi những hi vọng toàn bộ bản thảo này sẽ được Lama Yeshe duyệt lại một lần nữa, song sự thực đã không được như thế. Nhiều tháng sau khi ngài viên tịch, công việc tôi trên bản thảo hầu như hoàn toàn ngưng trệ, vì với tôi thực vô cùng cam go để biên tập trong khi phải chấp nhận sự kiện đau buồn là kể từ đây không bao giờ còn được nghe lại giọng nói tiếng cười ngọt ngào khi ngài thốt lên những lời dạy ấy. Tuy nhiên, nhờ sự hỗ trợ tử tế và kiên trì của nhiều bạn hữu, cuối cùng bản thảo cũng đã hoàn tất để cống hiến bạn đọc như tình trạng của nó hiện nay.

Nhưng tôi không thể làm sự cống hiến này mà không kèm theo vài lời xin lỗi hay ít nhất, giải thích. Ai đã từng nghe Lama Yeshe giảng cũng đều đồng ý không thể nào ghi lên máy in cái hiệu lực phi thường của ngài đối với thính giả. Như nhiều bậc thầy vĩ đại, chính sự hiện diện của ngài đã khai thị rất nhiều, đã là tia lửa đem lại vô biên năng lực và hiệu quả cho những gì ngài dạy, hơn là thứ ngôn ngữ hoàn toàn không chính thống và thường sai văn phạm, mà ngài sử dụng. Tuyển tập những lời dạy truyền khẩu của ngài mà bạn đang xem - đã được trau chuốt lại thành một thứ Anh ngữ khá chuẩn- vì thế đối với những người đã từng nghe Lama Yeshe nói, sẽ có vẻ không giống gì mấy với nguyên văn. Lại nữa, không thể nào nói rằng một tác phẩm như thế này có thể tự hào đại diện được cho quan điểm của Lama Yeshe về mật điển. Cũng như ngày xưa, bao nhiêu người nghe Phật là bấy nhiêu trình độ tiếp nhận, những lời dạy của Lama Yeshe cũng vậy. Bởi thế nếu ai nghĩ giáo lý ấy chỉ có một lối giải thích khả dĩ chấp nhận, thì thực là hợm hĩnh. Tất cả những gì mà một biên tập viên như tôi có thể làm là, lắng nghe buổi giảng hoặc băng giảng, cẩn thận đọc các bài ghi, rồi cố trình bày rõ những gì mình nghe được bằng tâm khảm trong khi làm quen với giáo lý. Do thế, nếu có người cùng đọc một bài ghi hoặc cùng nghe một băng giảng rồi viết lại, thì họ có thể cho ra một tác phẩm với nội dung và lời lẽ khác hẳn sách này.

Về tính đa diện của lời dạy Lama Yeshe, Lama Zopa Rinpoche cũng nói: "Phần đông giảng sư chỉ giảng những gì mình biết, có khi không hợp với nhu cầu thính giả. Nhưng với Thầy tôi, mỗi khi ngài giảng, không có gì cố định. Ngài không chỉ giảng một đề tài duy nhất. Thính chúng mỗi người kẹt một cách khác - vấn đề tâm linh, vấn đề cá nhân, vấn đề gia đình - nhưng cùng lúc Thầy có thể nói với tất cả. Và sau khi nghe Thầy, mỗi người đều tìm được giải đáp cho vấn đề riêng tư. Có người đến nghe vì muốn tìm thanh thản tâm hồn, nhưng cũng có người chỉ để xem một ông tu sĩ Tây tạng trông ra làm sao. Nhưng sau khi nghe ngài nói, tất cả đều ra về với một tâm trạng vui vẻ, cảm thấy đã tìm được một giải đáp nào đó cho những vấn đề của mình.

Nói theo ngôn ngữ mật tông - đề tài sách này - thì Lama Yeshe có cái năng lực kỳ diệu là đánh động được trọng tâm của sự bình an, trí tuệ và phúc lạc nơi những người ngài tiếp xúc. Có lẽ lời dạy sâu sắc nhất của ngài là, mỗi người có sẵn trong tâm không những giải đáp cho vấn đề mình, mà còn tiềm năng sống một cuộc đời cao cả hơn mình tưởng. Bằng tấm gương xả kỷ, bất chấp bệnh tim trầm trọng, Lama Yeshe chứng tỏ bản thân ngài đã đạt đến tiềm năng ấy. Ngài đã làm một nguồn cảm hứng cho tất cả những người quen biết, đem lại cho họ niềm tin vững chắc chính mình cũng có cái tiềm năng vô giới hạn đang sẵn sàng được khơi mở.

Từ đầu chí cuối tác phẩm này, một dẫn nhập vào đề tài mật tông sâu rộng, thể theo ước muốn của Lama Yeshe, chúng tôi đã cố tránh dùng những thuật ngữ chuyên môn và những chi tiết liên hệ đến lịch sử: Lama Yeshe muốn trao truyền hương vị của giáo lý mật tông một cách càng giản dị càng hay. Nhưng mỗi khi thuật ngữ mật tông được xử dụng, dù bằng Anh ngữ, Phạn ngữ hay Tạng ngữ, thì những từ ngữ này sẽ được giải thích ở cuối sách. Với những ai muốn khám phá thêm về những đề tài nêu trong sách, có một bảng liệt kê những sách nên đọc, cùng với ghi chú vắn tắt, cũng ở cuối sách.

Tác phẩm này không thể xuất hiện nếu không nhờ sự cọng tác của rất nhiều người, ở đây chỉ có thể ghi nhận một số ít trong đó. Lời cảm ơn sâu xa nhất của tôi xin gửi đến trước tiên là những thành viên trong ban nhập thất để biên tập, tài liệu của họ đã được tuyển chọn đầu tiên để viết sách này: Hermes Brandt, Lee Bray, Robyn Brentano, Stehen Carlier, Sharon Gross và Nick Ribush. Ở giai đoạn biên tập tài liệu về sau, gia đình Aryatara ở Jaegendorf và Munich đã dành cho tôi nhiều thì giờ và ưu ái của họ, như gia đình Philipsen ở Dronten, Hà lan, Geoff Jukes ở Luân đôn. Đối với sự nâng đỡ tử tế của họ, tôi thật khó lòng diễn tả cho hết niềm tri ân. Tôi còn phải đặc biệt tri ân Yeshe Khandro về sự khích lệ và giúp đỡ vô giá. Và cuối cùng, xin cảm ơn tất cả những vị liên hệ nhà XB Wisdom về sự kiên trì sâu xa của họ qua nhiều tháng trời để hoàn tất sách này từ dạng bản thảo cho đến hình thức cuốn sách hiện tại; nhất là Robina Coutrin, người đã đóng góp công sức cho tác phẩm này trong mọi giai đoạn phát triển của nó.

---o0o---

Nguồn: www.thuvienhoasen.org

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/03/2022(Xem: 4845)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 16078)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 30476)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 16593)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 38287)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8028)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 6335)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4333)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
24/05/2019(Xem: 5361)
Sau 12 năm học tập và làm việc tại nước Nga, năm 1995 tôi về Việt Nam và vào làm việc tại công ty FPT. Chân ướt chân ráo chưa hiểu nhiều về công việc và cuộc sống trong nước, may thay tôi được anh Phan Ngô Tống Hưng, lúc đó là phó Chủ tịch HĐQT kiêm phó Tổng giám đốc dẫn đi đảnh lễ Thượng tọa Thích Viên Thành. Và thế là Thượng tọa trở thành người thầy sơ tâm đầu tiên của tôi cho đến ngày Thầy viên tịch năm Nhâm Ngọ -2002. Thượng tọa Thích Viên Thành là Tổ thứ 11 của Tùng Lâm Hương Sơn và luôn là người thầy tôn kính của tôi.
04/09/2018(Xem: 6598)
Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã không chính thức giữ chức vụ này từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567