Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi.

08/04/201312:51(Xem: 5800)
Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi.


Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi
của Tổ Tông Cáp Ba
[1]

Tsongkhapa's Praise on Dependent Origination

image002


(Tendrel Todpa Zhug So)

Bản dịch Anh ngữ Geshe Thupten Jinpa
Bản dịch Việt ngữ Diệu Hạnh Giao Trinh và Chân Giác Sonam Nyima

1

Ngài là đấng đã thuyết, Trên căn bản tri kiến

Điều đó đưa ngài thành, Bậc trí tuệ Tôn Sư,

Bậc biện tài vô song, Con xin đảnh lễ ngài, Bậc Chiến Thắng, Ngài đã,

Tri kiến thuyết duyên khởi, Và đã giảng dạy thuyết này.

2

Bất cứ những suy đồi, Có ở trong thế gian,

Gốc rễ của tất cả, Đều đến từ vô minh,

Ngài đã giảng dậy rằng, Đó là thuyết duyên khởi,

Khi chứng ngộ thuyết này, Là tiêu trừ vô minh.

3

Làm sao mà nguời trí,

Lại có thể chẳng hiểu,

Con đường đạo duyên khởi,

Chính là điểm tinh tuý, Giáo lý ngài giảng dạy ?

4

Và vì là như thế, Ôi, thưa Đức Độ Sinh,

Ai người có thể tìm, Câu tán thán diệu kỳ

Hơn là [tán thán Ngài], Đã dậy rằng sinh khởi

Vốn tùy thuộc nhân duyên.

5

“Chúng nhân duyên sinh pháp,

Ngã thuyết tức thị không.”

Còn có giáo lý nào, Vô song và kỳ diệu

Hơn được cả hai câu, Đã tuyên thuyết ở trên ?

6

Kẻ vô minh chấp đó,

Kết sử thêm biên kiến,

Nhưng kẻ trí thấy ngay, Đây chính là cửa ngõ,

Thoát khỏi lưới biến kế.

7

Bởi vì giáo pháp này, Chẳng thể thấy nơi khác

Ngài, duy nhất, xứng đáng, Gọi là vị Tôn Sư;

Như chồn mà gọi là, Sư tử, với Ngoại đạo

Thì đó là nịnh hót.

8

Bậc tôn sư kỳ diệu ! Nơi quy y kỳ diệu !

Bậc biện tài kỳ diệu ! Bậc độ sinh kỳ diệu !

Con đảnh lễ tôn sư, Ngài đã khéo tuyên thuyết

Lý duyên khởi nhiệm mầu.

9

Để cứu lành chúng sinh

Ân Sư, ngài đã dạy

Những lý luận vô song

Để xác quyết Tánh Không, Là yếu chỉ Thánh Pháp

10

Những người nào nhận thấy

Con đường duyên khởi này

Là nghịch lý, hư vọng

Thì làm sao hiểu được, Hệ giáo lý của ngài ?

11

Ngài đã khai thị rằng, Ai chứng được tánh Không

Theo nghĩa lý duyên khởi, Thì sẽ thấy rõ ràng :

Điều không có tự tánh, Và tính cách năng tác ,

Cả hai không mâu thuẫn.

12

Nếu ai thấy ngược lại

Chẳng thể có năng tác, ở bên trong Tánh Không,

Năng tác cũng không mang, bản chất của Tánh Không,

Ngài dạy rằng người ấy, Rơi xuống vực hiểm sâu.

13

Nên trong giáo pháp ngài

Người chứng lý duyên khởi, Được ca ngợi tán thán

Nhưng ngay cả lý này, Cũng chẳng phải nói là, Tất cả không hiện hũu

Mà cũng chẳng phải là, Tất cả có tự tánh.

14

Cái chẳng do duyên sinh, Như hoa đốm hư không

Nên chẳng có cái gì, Mà không do duyên khởi

Nếu vật gì hiện hữu, Do chính tự tánh mình, Lại cần nhờ nhân duyên

Để có thể hiện hữu, Thì điều này nghịch lý.

15

Vì không có pháp nào, Lại có thể hiện hữu

Ngoại trừ khởi tùy duyên

Nên không có pháp nào, Hiện hữu khác ra ngoài

Bản thể vô tự tánh, Đó là điều ngài dạy.

16

Vì tự tánh cố định, Nên không thể hủy diệt

Nếu pháp có tự tánh, Chẳng thể đạt Niết Bàn

Các phiền não biến kế, Chẳng thể nào diệt được

Đó là điều ngài dạy.

17

Vì thế ai có thể, Tranh biện nổi với Ngài

Khi Ngài thuyết nhiều lần, Bằng tiếng sư tử hống

Trong pháp hội hữu học:

Rằng tất cả các pháp, Đều không có tự tánh ?

18

Không hề có tự tánh, Và nhất thiết chư pháp,

Năng tác theo nguyên lý: "Cái này khởi thành có, Vì duyên theo cái kia"

Cần gì phải nói thêm, Hai giáo lý nói trên

Đồng quy về một nghĩa, Và không có mâu thuẫn.

19

“Nhờ hiểu rõ duyên khởi,

Nên không kẹt biên kiến;”

Ngài tuyên thuyết như thế, Thật ưu việt tối thắng

Đấng Độ Sinh, Ngài là, Bậc biện tài vô song.

20

“Chư pháp vô tự tánh”

“Nhân này duyên quả kia”

Hai khẳng định như trên, Bổ túc lẫn cho nhau

Mà không hề mâu thuẫn.

21

Còn gì kỳ diệu hơn ?

Còn gì thù thắng hơn ?

Tán thán Ngài như thế

Mới đúng nghĩa tán thán, Ngoài ra không đúng cách.

22

Những người bị nô lệ, Vì vô minh ràng buộc

Mãnh liệt chống đối Ngài

Có gì đáng ngạc nhiên

Khi họ không nghe nổi, Diệu âm "vô tự tánh".

23

Nhưng khi đã nhận hiểu, Lý duyên khởi vô thượng

Từ kim khẩu của ngài

Mà vẫn không chịu nổi, Âm thanh sư tử hống

Của nguyên lý Tánh Không - Thì quả là quái dị!

24

Cửa vào vô tự tánh,

[Cửa] duyên khởi vô song,

Nếu chỉ qua danh tự, Mà chấp trong tự tánh,

Thì chính người đó đã

25

Làm mất cánh cửa vào, Đạo tối thượng thù thắng,

Mà Chư Tôn khéo dùng.

Biết lấy phương tiện nào, Để dẫn dắt kẻ ấy

Đi vào tối thượng đạo, Để làm vui lòng Ngài ?

26

Một bên là tự tánh, Tự sinh, phi duyên khởi

Còn bên này duyên khởi, Giả hợp và duyên sanh –

Hai bên chẳng thể nào, Hội tụ trên căn bản

Mà không có mâu thuẫn ?

27

Những gì do duyên khởi,

Dù bổn vô tự tánh,

Mà dường như là có, [Tự tánh của chính nó];

Do đó Ngài đã giảng, Nhất thiết pháp như huyễn.

28

Do chính sự kiện ấy, Hiểu rõ lời tuyên sau:

Qua giáo lý Ngài dậy

Kẻ vấn nạn, thách thức

Chẳng thể nào tìm ra, Sai lầm nào hợp lý.

29

Tại sao lại như thế ? Vì khi tuyên bố vậy

Cơ hội tô đẹp hơn, Hay là bôi xấu đi

Đối với các sự vật, Thấy, hay không thấy được

Đều xa lìa tâm thức.

30

Bằng chính đạo duyên khởi,

Lời lý luận của ngài, Thật biện tài vô ngại,

Đệ tử khởi tín tâm

[Cũng] tin những điều khác, Ngài dậy đều hữu lý.

31

Ngài thuyết pháp thù thắng, Nhờ tri kiến sự vật,

Y như vậy chẳng khác, Chư vị theo chân Ngài,

Xa lìa mọi thoái hoá;

Vì sẽ nhổ hết cả, Mọi gốc rễ sai lầm.

32

Còn những kẻ bội nghịch, Giáo pháp Ngài giảng dậy,

Cho dù cố hành trì, Khổ hạnh qua ngày tháng,

Sai lầm càng tăng trưởng, Như được triệu thỉnh thêm;

Bởi vì họ kiên cố, Trong tà kiến chấp ngã.

33

Chính thế! Khi người trí, Thấu triệt sự khác biệt

Giữa hai điều nói trên, Làm sao họ lại chẳng

Ngay đó đối với Ngài, Tỏ hết lòng tôn kính

Sâu thẳm từ thân tâm ?

34

Chưa kể còn bao nhiêu, Giáo pháp đến từ Ngài,

Dẫu chỉ một phần nhỏ,

Người nhanh chóng tin hiểu,

Cũng sẽ đạt từ đó, Tâm hỷ lạc tối thượng.

35

Than ôi ! Tâm thức này, Thua bại trước vô minh;

Dù đã tìm quy y, Qua một thời gian dài,

Vào một đấng tối thượng,

Mà vẫn chưa có được. Một phần đức hạnh Ngài.

36

Dù sao, trước khi dứt

Dòng đời đang trôi dạt, Dần dần đến cái chết

Đệ tử đã phát khởi, Chút tín tâm nơi Ngài -

Dẫu chút ít đó thôi, Cũng đã là phúc đức.

37

Sư của các đạo sư, Là bậc sư duyên khởi

Trí của các trí tuệ, Là trí tuệ duyên khởi -

Ngài, chẳng phải ai khác, Là đấng tối thượng nhất,

Như các vua thế gian, Biết chắc rõ như thế.

38

Những điều Ngài đã dậy

Đi theo đường duyên khởi;

Cũng để đạt Niết Bàn;

Ngài chẳng làm hạnh nào, Không mang lại tịch tĩnh.

39

Ôi ! Giáo pháp của Ngài,

Bất cứ ai nghe được

Đều đạt đến tịch tĩnh; Bởi thế chẳng ai lại

Không được tôn kính khi, Bảo trì giáo pháp Ngài ?

40

Giáo pháp đã chiến thắng, Mọi thách thức đối nghịch;

Thoát lìa mọi phi lý, Từ đầu đến sau cùng;

Ban cho các chúng sinh, Thành tựu hai mục đích –

Với hệ giáo lý này, Đệ tử thêm hoan hỷ.

41

Vì lợi ích chúng sinh, Ngài đã từng ban phát

Nhiều lần trong quá khứ, Qua vô lượng đại kiếp,

Khi thì cho thân Ngài, Khi thì cho mạng sống,

Và cho cả người thân, Cùng tài sản của cải.

42

Thấy giá trị giáo pháp

Khởi [mạnh] từ tim Ngài,

Như lưỡi câu mồi cá;

Thật đáng buồn nếu như, Không được nghe Ngài dậy.

43

Lực của nỗi buồn ấy

Khôn nguôi nơi tâm này,

Giống như tâm người mẹ

[Luôn] nghĩ đến con yêu.

44-45

Suy tư về lời Ngài, Đệ tử cũng khởi nghĩ,

"Tướng quý ngời chiếu sáng, Trong muôn ánh hào quang

Tôn sư như linh thánh, Đã thuyết bằng âm điệu

Du dương và thuần khiết"

Ngay khi nghĩ như thế, Về thân đấng Hìền Trí

Thì tâm của đệ tử, Được xoa dịu như là

Ánh trăng mát chữa lành, Khổ đau của bệnh sốt.

46

Hệ giáo pháp vô song, Đệ nhất thù thắng pháp

Những người chưa có trí,

Lúng túng và hỗn loạn

Như vướng trong cỏ rối.[2]

47

Thấy tình thế như vậy,

Đệ tử đã tinh tấn

Với muôn vàn cố gắng, Đi theo bậc hữu học

Để tìm hiểu ý Ngài, Nhiều lần thêm hơn nữa.

48

Lúc đó, đệ tử học, Qua nhiều các trước tác

Của cả hai trường phái, Đạo Phật và Ngoại đạo,

Tâm trí chỉ càng thêm, Liên tục thống khổ trong

Mạng lưới của nghi ngờ.

49

Luận của Tổ Long Thọ[3],

Như rừng huệ trong đêm -

Ngài thọ ký Long Thọ, Làm rạng tối thượng thừa

Lià xa hai biên kiến, Chấp thường và chấp đoạn -

50

Tràng hoa ánh bạch quang, Toả rạng sự chứng ngộ

Toàn vẹn Tổ Nguyệt Xứng[4], Với trí tuệ vô nhiễm

Đã viên mãn tròn đầy,

Và tự tại bay lượn, Trong bầu trời kinh điển.

51

Xua tan ánh đêm đen, Của các tâm biên kiến

Và sáng chói hơn các, Tinh tú luận sư giả –

Khi thấy được điều đó, Nhờ tôn sư từ bi,

Cuối cùng, tâm đệ tử, Đã tìm thấy an hoà.

52

Trong tất cả công hạnh, Giáo pháp [lời giảng] Ngài ,

Là điều tối thượng nhất;

Cũng vậy, trong giáo pháp, Duyên khởi là đệ nhất;

Người trí phải thường hằng, Tưởng niệm đến Đức Phật

[Qua giáo lý Duyên khởi].

53

Theo chân bậc Tôn Sư, Con xả ly thế gian

Học kỹ theo giáo pháp, Lời dạy đấng Chiến Thắng,

Tỳ kheo hành du già, Tinh tiến để bày tỏ

Lòng tôn kính [sâu xa], Với bậc Đại Chánh Tri !

54

Nhờ Tôn Sư từ bi

Đệ tử duyên học pháp, Với Tôn Sư vô tỷ,

Xin hồi hướng công đức, Tạo nhân cho chúng sinh

Được trợ duyên bởi các, Đấng Đạo Sư tối thượng.

55

Đến tận cùng thế giới, Nguyện xin cho giáo pháp

Đấng Lợi Lạc Chúng Sinh, Kiên cố, không lay chuyển

Bởi các gió ác kiến. Và nguyện cho mãi mãi, Đầy người khởi tín tâm, Hiểu chân thể giáo pháp, Từ nơi Đấng Tôn Sư.

56

Nguyện sinh sinh thế thế, Dẫu phải xả thân mạng

Cũng nguyện không sờn lòng, Dù trong một khoảnh khắc

Bảo tồn tối thượng đạo, Rạng ngời lý duyên khởi

Của chư tổ thánh hiền.

57

Xin nguyện cho đệ tử, Suốt cả ngày lẫn đêm

Nghĩ suy kỹ như sau, “Bằng cách nào tuyên dương

Giáo pháp thành tựu bởi, Đấng cứu độ vô thượng

Đã tinh tấn hành trì, Qua vô lượng đại kiếp ?“

58

Do đệ tử cố gắng, Trì nguyện thanh tịnh này

Xin chư vị Phạm Thiên, Đế Thích và hộ thần

Của cõi thế gian này, Và chư hộ pháp như

Đại Hắc luôn hộ trì, Vĩnh viễn không thay đổi.

Dịch từ văn bản Anh ngữ của Geshe Thupten Jinpa. Bản dịch này đã được hoàn thành để sửa soạn cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong tháng 04, 2007. Pháp hội này được tổ chức bởi Trung Tâm Kim Cang Thừa Guyto (Gyuto Vajrayana Center), tại San Jose, California, USA.

© Geshe Thupten Jinpa (bản anh ngữ)

© Giao Trinh Diệu Hạnh & Chân Giác Sonam Nyima (bản việt ngữ)



[1]Tổ Tông Cáp Ba, Tạng ngữ: Tsongkhapa (1357-1419)

[2](cỏ rối: gốc Phạn ngữ là balbaza, )

[3]Nāgārjuna (Tạng ngữ là klu sgrub, 150-250AD)

[4]Tổ Nguyệt Xứng, Phạn ngữ Candrakirti, Tạng ngữ Dawa Drakpa (600-650).

---o0o---

Trình bày: Phổ Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2024(Xem: 255)
Cư sĩ Huyền Thanh, thế danh là Nguyễn Vũ Tài, sinh ngày 01/04/1958 tại Thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Thân phụ tên là Nguyễn Vũ Nhan, nguyên quán tại làng Xối Đông, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Thân mẫu tên là Vũ Thị Ni, nguyên quán tại làng Lịch Diệp, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ Nguyễn Vũ Tài đã Quy Y với Hòa Thượng Thích Thanh Chiên, Trụ trì chùa Hải Vân ở khu Ấp Chợ, xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định và được Thầy ban cho Pháp Danh là Huyền Thanh. Năm 1978, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm khoa Toán Lý và đi dạy môn Toán cấp II từ năm 1979 cho đến năm 2003 thì chuyển qua làm công tác Giám Thị ở các trường Trung học Cơ sở Ngô Quyền quận Tân Bình, trường Trung học Cơ Sở Hoàng Hoa Thám quận Tân Bình, và trường Trung học Cơ Sở Nguyễn Gia Thiều quận Tân Bình cho đến khi chấm dứt công tác vào năm 2010.
25/03/2022(Xem: 5039)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 16620)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 31503)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 16944)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 38699)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8198)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 6475)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4438)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
24/05/2019(Xem: 5472)
Sau 12 năm học tập và làm việc tại nước Nga, năm 1995 tôi về Việt Nam và vào làm việc tại công ty FPT. Chân ướt chân ráo chưa hiểu nhiều về công việc và cuộc sống trong nước, may thay tôi được anh Phan Ngô Tống Hưng, lúc đó là phó Chủ tịch HĐQT kiêm phó Tổng giám đốc dẫn đi đảnh lễ Thượng tọa Thích Viên Thành. Và thế là Thượng tọa trở thành người thầy sơ tâm đầu tiên của tôi cho đến ngày Thầy viên tịch năm Nhâm Ngọ -2002. Thượng tọa Thích Viên Thành là Tổ thứ 11 của Tùng Lâm Hương Sơn và luôn là người thầy tôn kính của tôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567