Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi.

08/04/201312:51(Xem: 5741)
Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi.


Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi
của Tổ Tông Cáp Ba
[1]

Tsongkhapa's Praise on Dependent Origination

image002


(Tendrel Todpa Zhug So)

Bản dịch Anh ngữ Geshe Thupten Jinpa
Bản dịch Việt ngữ Diệu Hạnh Giao Trinh và Chân Giác Sonam Nyima

1

Ngài là đấng đã thuyết, Trên căn bản tri kiến

Điều đó đưa ngài thành, Bậc trí tuệ Tôn Sư,

Bậc biện tài vô song, Con xin đảnh lễ ngài, Bậc Chiến Thắng, Ngài đã,

Tri kiến thuyết duyên khởi, Và đã giảng dạy thuyết này.

2

Bất cứ những suy đồi, Có ở trong thế gian,

Gốc rễ của tất cả, Đều đến từ vô minh,

Ngài đã giảng dậy rằng, Đó là thuyết duyên khởi,

Khi chứng ngộ thuyết này, Là tiêu trừ vô minh.

3

Làm sao mà nguời trí,

Lại có thể chẳng hiểu,

Con đường đạo duyên khởi,

Chính là điểm tinh tuý, Giáo lý ngài giảng dạy ?

4

Và vì là như thế, Ôi, thưa Đức Độ Sinh,

Ai người có thể tìm, Câu tán thán diệu kỳ

Hơn là [tán thán Ngài], Đã dậy rằng sinh khởi

Vốn tùy thuộc nhân duyên.

5

“Chúng nhân duyên sinh pháp,

Ngã thuyết tức thị không.”

Còn có giáo lý nào, Vô song và kỳ diệu

Hơn được cả hai câu, Đã tuyên thuyết ở trên ?

6

Kẻ vô minh chấp đó,

Kết sử thêm biên kiến,

Nhưng kẻ trí thấy ngay, Đây chính là cửa ngõ,

Thoát khỏi lưới biến kế.

7

Bởi vì giáo pháp này, Chẳng thể thấy nơi khác

Ngài, duy nhất, xứng đáng, Gọi là vị Tôn Sư;

Như chồn mà gọi là, Sư tử, với Ngoại đạo

Thì đó là nịnh hót.

8

Bậc tôn sư kỳ diệu ! Nơi quy y kỳ diệu !

Bậc biện tài kỳ diệu ! Bậc độ sinh kỳ diệu !

Con đảnh lễ tôn sư, Ngài đã khéo tuyên thuyết

Lý duyên khởi nhiệm mầu.

9

Để cứu lành chúng sinh

Ân Sư, ngài đã dạy

Những lý luận vô song

Để xác quyết Tánh Không, Là yếu chỉ Thánh Pháp

10

Những người nào nhận thấy

Con đường duyên khởi này

Là nghịch lý, hư vọng

Thì làm sao hiểu được, Hệ giáo lý của ngài ?

11

Ngài đã khai thị rằng, Ai chứng được tánh Không

Theo nghĩa lý duyên khởi, Thì sẽ thấy rõ ràng :

Điều không có tự tánh, Và tính cách năng tác ,

Cả hai không mâu thuẫn.

12

Nếu ai thấy ngược lại

Chẳng thể có năng tác, ở bên trong Tánh Không,

Năng tác cũng không mang, bản chất của Tánh Không,

Ngài dạy rằng người ấy, Rơi xuống vực hiểm sâu.

13

Nên trong giáo pháp ngài

Người chứng lý duyên khởi, Được ca ngợi tán thán

Nhưng ngay cả lý này, Cũng chẳng phải nói là, Tất cả không hiện hũu

Mà cũng chẳng phải là, Tất cả có tự tánh.

14

Cái chẳng do duyên sinh, Như hoa đốm hư không

Nên chẳng có cái gì, Mà không do duyên khởi

Nếu vật gì hiện hữu, Do chính tự tánh mình, Lại cần nhờ nhân duyên

Để có thể hiện hữu, Thì điều này nghịch lý.

15

Vì không có pháp nào, Lại có thể hiện hữu

Ngoại trừ khởi tùy duyên

Nên không có pháp nào, Hiện hữu khác ra ngoài

Bản thể vô tự tánh, Đó là điều ngài dạy.

16

Vì tự tánh cố định, Nên không thể hủy diệt

Nếu pháp có tự tánh, Chẳng thể đạt Niết Bàn

Các phiền não biến kế, Chẳng thể nào diệt được

Đó là điều ngài dạy.

17

Vì thế ai có thể, Tranh biện nổi với Ngài

Khi Ngài thuyết nhiều lần, Bằng tiếng sư tử hống

Trong pháp hội hữu học:

Rằng tất cả các pháp, Đều không có tự tánh ?

18

Không hề có tự tánh, Và nhất thiết chư pháp,

Năng tác theo nguyên lý: "Cái này khởi thành có, Vì duyên theo cái kia"

Cần gì phải nói thêm, Hai giáo lý nói trên

Đồng quy về một nghĩa, Và không có mâu thuẫn.

19

“Nhờ hiểu rõ duyên khởi,

Nên không kẹt biên kiến;”

Ngài tuyên thuyết như thế, Thật ưu việt tối thắng

Đấng Độ Sinh, Ngài là, Bậc biện tài vô song.

20

“Chư pháp vô tự tánh”

“Nhân này duyên quả kia”

Hai khẳng định như trên, Bổ túc lẫn cho nhau

Mà không hề mâu thuẫn.

21

Còn gì kỳ diệu hơn ?

Còn gì thù thắng hơn ?

Tán thán Ngài như thế

Mới đúng nghĩa tán thán, Ngoài ra không đúng cách.

22

Những người bị nô lệ, Vì vô minh ràng buộc

Mãnh liệt chống đối Ngài

Có gì đáng ngạc nhiên

Khi họ không nghe nổi, Diệu âm "vô tự tánh".

23

Nhưng khi đã nhận hiểu, Lý duyên khởi vô thượng

Từ kim khẩu của ngài

Mà vẫn không chịu nổi, Âm thanh sư tử hống

Của nguyên lý Tánh Không - Thì quả là quái dị!

24

Cửa vào vô tự tánh,

[Cửa] duyên khởi vô song,

Nếu chỉ qua danh tự, Mà chấp trong tự tánh,

Thì chính người đó đã

25

Làm mất cánh cửa vào, Đạo tối thượng thù thắng,

Mà Chư Tôn khéo dùng.

Biết lấy phương tiện nào, Để dẫn dắt kẻ ấy

Đi vào tối thượng đạo, Để làm vui lòng Ngài ?

26

Một bên là tự tánh, Tự sinh, phi duyên khởi

Còn bên này duyên khởi, Giả hợp và duyên sanh –

Hai bên chẳng thể nào, Hội tụ trên căn bản

Mà không có mâu thuẫn ?

27

Những gì do duyên khởi,

Dù bổn vô tự tánh,

Mà dường như là có, [Tự tánh của chính nó];

Do đó Ngài đã giảng, Nhất thiết pháp như huyễn.

28

Do chính sự kiện ấy, Hiểu rõ lời tuyên sau:

Qua giáo lý Ngài dậy

Kẻ vấn nạn, thách thức

Chẳng thể nào tìm ra, Sai lầm nào hợp lý.

29

Tại sao lại như thế ? Vì khi tuyên bố vậy

Cơ hội tô đẹp hơn, Hay là bôi xấu đi

Đối với các sự vật, Thấy, hay không thấy được

Đều xa lìa tâm thức.

30

Bằng chính đạo duyên khởi,

Lời lý luận của ngài, Thật biện tài vô ngại,

Đệ tử khởi tín tâm

[Cũng] tin những điều khác, Ngài dậy đều hữu lý.

31

Ngài thuyết pháp thù thắng, Nhờ tri kiến sự vật,

Y như vậy chẳng khác, Chư vị theo chân Ngài,

Xa lìa mọi thoái hoá;

Vì sẽ nhổ hết cả, Mọi gốc rễ sai lầm.

32

Còn những kẻ bội nghịch, Giáo pháp Ngài giảng dậy,

Cho dù cố hành trì, Khổ hạnh qua ngày tháng,

Sai lầm càng tăng trưởng, Như được triệu thỉnh thêm;

Bởi vì họ kiên cố, Trong tà kiến chấp ngã.

33

Chính thế! Khi người trí, Thấu triệt sự khác biệt

Giữa hai điều nói trên, Làm sao họ lại chẳng

Ngay đó đối với Ngài, Tỏ hết lòng tôn kính

Sâu thẳm từ thân tâm ?

34

Chưa kể còn bao nhiêu, Giáo pháp đến từ Ngài,

Dẫu chỉ một phần nhỏ,

Người nhanh chóng tin hiểu,

Cũng sẽ đạt từ đó, Tâm hỷ lạc tối thượng.

35

Than ôi ! Tâm thức này, Thua bại trước vô minh;

Dù đã tìm quy y, Qua một thời gian dài,

Vào một đấng tối thượng,

Mà vẫn chưa có được. Một phần đức hạnh Ngài.

36

Dù sao, trước khi dứt

Dòng đời đang trôi dạt, Dần dần đến cái chết

Đệ tử đã phát khởi, Chút tín tâm nơi Ngài -

Dẫu chút ít đó thôi, Cũng đã là phúc đức.

37

Sư của các đạo sư, Là bậc sư duyên khởi

Trí của các trí tuệ, Là trí tuệ duyên khởi -

Ngài, chẳng phải ai khác, Là đấng tối thượng nhất,

Như các vua thế gian, Biết chắc rõ như thế.

38

Những điều Ngài đã dậy

Đi theo đường duyên khởi;

Cũng để đạt Niết Bàn;

Ngài chẳng làm hạnh nào, Không mang lại tịch tĩnh.

39

Ôi ! Giáo pháp của Ngài,

Bất cứ ai nghe được

Đều đạt đến tịch tĩnh; Bởi thế chẳng ai lại

Không được tôn kính khi, Bảo trì giáo pháp Ngài ?

40

Giáo pháp đã chiến thắng, Mọi thách thức đối nghịch;

Thoát lìa mọi phi lý, Từ đầu đến sau cùng;

Ban cho các chúng sinh, Thành tựu hai mục đích –

Với hệ giáo lý này, Đệ tử thêm hoan hỷ.

41

Vì lợi ích chúng sinh, Ngài đã từng ban phát

Nhiều lần trong quá khứ, Qua vô lượng đại kiếp,

Khi thì cho thân Ngài, Khi thì cho mạng sống,

Và cho cả người thân, Cùng tài sản của cải.

42

Thấy giá trị giáo pháp

Khởi [mạnh] từ tim Ngài,

Như lưỡi câu mồi cá;

Thật đáng buồn nếu như, Không được nghe Ngài dậy.

43

Lực của nỗi buồn ấy

Khôn nguôi nơi tâm này,

Giống như tâm người mẹ

[Luôn] nghĩ đến con yêu.

44-45

Suy tư về lời Ngài, Đệ tử cũng khởi nghĩ,

"Tướng quý ngời chiếu sáng, Trong muôn ánh hào quang

Tôn sư như linh thánh, Đã thuyết bằng âm điệu

Du dương và thuần khiết"

Ngay khi nghĩ như thế, Về thân đấng Hìền Trí

Thì tâm của đệ tử, Được xoa dịu như là

Ánh trăng mát chữa lành, Khổ đau của bệnh sốt.

46

Hệ giáo pháp vô song, Đệ nhất thù thắng pháp

Những người chưa có trí,

Lúng túng và hỗn loạn

Như vướng trong cỏ rối.[2]

47

Thấy tình thế như vậy,

Đệ tử đã tinh tấn

Với muôn vàn cố gắng, Đi theo bậc hữu học

Để tìm hiểu ý Ngài, Nhiều lần thêm hơn nữa.

48

Lúc đó, đệ tử học, Qua nhiều các trước tác

Của cả hai trường phái, Đạo Phật và Ngoại đạo,

Tâm trí chỉ càng thêm, Liên tục thống khổ trong

Mạng lưới của nghi ngờ.

49

Luận của Tổ Long Thọ[3],

Như rừng huệ trong đêm -

Ngài thọ ký Long Thọ, Làm rạng tối thượng thừa

Lià xa hai biên kiến, Chấp thường và chấp đoạn -

50

Tràng hoa ánh bạch quang, Toả rạng sự chứng ngộ

Toàn vẹn Tổ Nguyệt Xứng[4], Với trí tuệ vô nhiễm

Đã viên mãn tròn đầy,

Và tự tại bay lượn, Trong bầu trời kinh điển.

51

Xua tan ánh đêm đen, Của các tâm biên kiến

Và sáng chói hơn các, Tinh tú luận sư giả –

Khi thấy được điều đó, Nhờ tôn sư từ bi,

Cuối cùng, tâm đệ tử, Đã tìm thấy an hoà.

52

Trong tất cả công hạnh, Giáo pháp [lời giảng] Ngài ,

Là điều tối thượng nhất;

Cũng vậy, trong giáo pháp, Duyên khởi là đệ nhất;

Người trí phải thường hằng, Tưởng niệm đến Đức Phật

[Qua giáo lý Duyên khởi].

53

Theo chân bậc Tôn Sư, Con xả ly thế gian

Học kỹ theo giáo pháp, Lời dạy đấng Chiến Thắng,

Tỳ kheo hành du già, Tinh tiến để bày tỏ

Lòng tôn kính [sâu xa], Với bậc Đại Chánh Tri !

54

Nhờ Tôn Sư từ bi

Đệ tử duyên học pháp, Với Tôn Sư vô tỷ,

Xin hồi hướng công đức, Tạo nhân cho chúng sinh

Được trợ duyên bởi các, Đấng Đạo Sư tối thượng.

55

Đến tận cùng thế giới, Nguyện xin cho giáo pháp

Đấng Lợi Lạc Chúng Sinh, Kiên cố, không lay chuyển

Bởi các gió ác kiến. Và nguyện cho mãi mãi, Đầy người khởi tín tâm, Hiểu chân thể giáo pháp, Từ nơi Đấng Tôn Sư.

56

Nguyện sinh sinh thế thế, Dẫu phải xả thân mạng

Cũng nguyện không sờn lòng, Dù trong một khoảnh khắc

Bảo tồn tối thượng đạo, Rạng ngời lý duyên khởi

Của chư tổ thánh hiền.

57

Xin nguyện cho đệ tử, Suốt cả ngày lẫn đêm

Nghĩ suy kỹ như sau, “Bằng cách nào tuyên dương

Giáo pháp thành tựu bởi, Đấng cứu độ vô thượng

Đã tinh tấn hành trì, Qua vô lượng đại kiếp ?“

58

Do đệ tử cố gắng, Trì nguyện thanh tịnh này

Xin chư vị Phạm Thiên, Đế Thích và hộ thần

Của cõi thế gian này, Và chư hộ pháp như

Đại Hắc luôn hộ trì, Vĩnh viễn không thay đổi.

Dịch từ văn bản Anh ngữ của Geshe Thupten Jinpa. Bản dịch này đã được hoàn thành để sửa soạn cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong tháng 04, 2007. Pháp hội này được tổ chức bởi Trung Tâm Kim Cang Thừa Guyto (Gyuto Vajrayana Center), tại San Jose, California, USA.

© Geshe Thupten Jinpa (bản anh ngữ)

© Giao Trinh Diệu Hạnh & Chân Giác Sonam Nyima (bản việt ngữ)



[1]Tổ Tông Cáp Ba, Tạng ngữ: Tsongkhapa (1357-1419)

[2](cỏ rối: gốc Phạn ngữ là balbaza, )

[3]Nāgārjuna (Tạng ngữ là klu sgrub, 150-250AD)

[4]Tổ Nguyệt Xứng, Phạn ngữ Candrakirti, Tạng ngữ Dawa Drakpa (600-650).

---o0o---

Trình bày: Phổ Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2018(Xem: 6615)
Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã không chính thức giữ chức vụ này từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.
04/09/2018(Xem: 4764)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche Tu Viện Kopan, Nepal Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai, được tổ chức ở Tu Viện Kopan, Nepal, năm 1979. Bài này là trích đoạn trong Bài Thuyết Pháp thứ 9 trong khóa tu. Sandra Smith hiệu đính sơ.
03/09/2018(Xem: 7462)
Lama Zopa Rinpoche đã sáng tác một pháp tu Kim Cang Tát Đỏa ngắn, được ấn tốngtheo khổ sách bỏ túi. Nhờ vậy, bất cứkhi nào phạm giới, hay tạo ra bất kỳ nghiệp xấu ác nào khác thì ta có thểtịnh hóa điều tiêu cựcấy bằng bốn lực đối trị, không hề chậm trễ một phút giây.
15/03/2018(Xem: 14660)
Nhẫn nại là 10 pháp hành Ba la mật cho các vị Bồ Tát có ý nguyện trở thành Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác hoặc Phật Thinh Văn Giác. Những pháp hành đó là : 1- Bố thí 2- Trì giới 3- Xuất gia 4- Trí tuệ 5- Tinh tấn 6- NHẪN NẠI 7- Chân thật 8- Quyết tâm 9- Từ bi 10- Tâm xả
20/02/2018(Xem: 3866)
Đây là pho tượng đồng Tổ Sư Tống Khách Ba do Luật Sư Nguyễn Tân Hải (pháp danh: Thiện Vân) cúng dường Tu Viện Quảng Đức vào chiều ngày 19-02-2018 trong dịp Thượng Tọa Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng ghé nhà thăm Luật Sư vừa về nhà sau thời gian điều trị tại bệnh viện. Luật Sư Tân Hải là đệ tử của Hòa Thượng Chùa Phổ Quang, Phú Nhuận, anh có duyên tiếp cận và nghiên cứu về Phật Giáo Tây Tạng, Nhật Bản… do vậy mà anh sở hữu nhiều tài liệu và pháp khí quý hiếm, mà một trong số đó là pho tượng này (xem văn bản đính kèm). Thành tâm niệm ơn và tán thán công đức bảo vệ và hộ trì Chánh pháp của anh chị Luật Sư Tân Hải – Bích Thi. Nam Mô A Di Đà Phật
12/10/2017(Xem: 15945)
Cầm quyển sách trên tay với độ dày 340 trang khổ A5 do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-Trung Tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang ấn hành và nhà xuất bản Hồng Đức tái bản lần thứ 2 năm 2015. Sách này do Phật Tử Nguyên Đạo Văn Công Tuấn trao tay cho tôi tại khóa tu Phật Thất từ ngày 24 đến 31.09.2017 vừa qua tại chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc. Tôi rất vui mừng được đọc tác phẩm thứ hai của Giáo Sư Lê Tự Hỷ. Ngắm nhìn bìa sách cũng như cách in ấn của Việt Nam trong hiện tại đã tiến được 8 phần 10 so với Đài Loan hay Đức, nên tôi lại càng vui hơn nữa. Bởi lẽ từ năm 1975 đến cuối năm 2000 tất cả những kinh sách được in ấn tại Việt Nam, kể cả đóng bìa cứng cũng rất kém về kỹ thuật và mỹ thuật, nhưng nay sau hơn 40 năm, nghề in ấn Việt Nam đã bắt đầu có cơ ngơi vươn lên cùng với thế giới sách vở rồi và hy vọng rằng nghề ấn loát nầy sẽ không dừng lại ở đây.
20/08/2016(Xem: 11220)
Ai là người trí phải nên khéo điều phục cái tâm của mình phải luôn quán sát Tánh Không (sumyata) và Diệu Hữu (Amogha) của bản tâm và vạn pháp. Không ai có thể cứu chúng ta khỏi cảnh giới khổ đau, phiền não, nếu chính bản thân chúng ta cứ mãi bo bo ôm ấp, nâng niu chìu chuộng cái vỏ Ngã Pháp được tô điểm bởi Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà Kiến, và Đố kỵ.
28/04/2016(Xem: 16350)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
27/09/2015(Xem: 6265)
Phía trước, ở giữa biển mây phẩm vật cúng dường Đức Phổ Hiền, Nơi an trú của chư vị lama, Yidam, Tam Bảo và Hộ Pháp Cùng các đấng hiền thánh đã thành tựu chân lý; Xin hoan hỷ nhận mây cúng dường các phẩm vật này, và ban cho con chân lý tối thượng.
27/08/2015(Xem: 4215)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác: sự suy nghĩ truyền thống của Trung Hoa, và v.v… Có thể có sự hiểu biết sai lầm sinh khởi phổ quát hơn, qua những cảm xúc phiền não của mọi người. Có thể có sự hiểu biết sai lạc sinh khởi chỉ từ sự kiện rằng tài liệu thì khó để hiểu. Sự hiểu biết sai lạc có thể sinh khởi do bởi những vị thầy không giải thích mọi thứ một cách rõ ràng hay để những thứ hoàn toàn không được giải thích gì cả, vì thế chúng ta phóng chiếu vào chúng những gì chúng ta nghĩ chúng là như vậy. Cũng có thể là tự các vị thầy thấu hiểu sai lạc giáo huấn. Điều ấy đôi khi xảy ra. Bởi vì không phải tất cả những vị thầy đều
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567