Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi.

08/04/201312:51(Xem: 5705)
Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi.


Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi
của Tổ Tông Cáp Ba
[1]

Tsongkhapa's Praise on Dependent Origination

image002


(Tendrel Todpa Zhug So)

Bản dịch Anh ngữ Geshe Thupten Jinpa
Bản dịch Việt ngữ Diệu Hạnh Giao Trinh và Chân Giác Sonam Nyima

1

Ngài là đấng đã thuyết, Trên căn bản tri kiến

Điều đó đưa ngài thành, Bậc trí tuệ Tôn Sư,

Bậc biện tài vô song, Con xin đảnh lễ ngài, Bậc Chiến Thắng, Ngài đã,

Tri kiến thuyết duyên khởi, Và đã giảng dạy thuyết này.

2

Bất cứ những suy đồi, Có ở trong thế gian,

Gốc rễ của tất cả, Đều đến từ vô minh,

Ngài đã giảng dậy rằng, Đó là thuyết duyên khởi,

Khi chứng ngộ thuyết này, Là tiêu trừ vô minh.

3

Làm sao mà nguời trí,

Lại có thể chẳng hiểu,

Con đường đạo duyên khởi,

Chính là điểm tinh tuý, Giáo lý ngài giảng dạy ?

4

Và vì là như thế, Ôi, thưa Đức Độ Sinh,

Ai người có thể tìm, Câu tán thán diệu kỳ

Hơn là [tán thán Ngài], Đã dậy rằng sinh khởi

Vốn tùy thuộc nhân duyên.

5

“Chúng nhân duyên sinh pháp,

Ngã thuyết tức thị không.”

Còn có giáo lý nào, Vô song và kỳ diệu

Hơn được cả hai câu, Đã tuyên thuyết ở trên ?

6

Kẻ vô minh chấp đó,

Kết sử thêm biên kiến,

Nhưng kẻ trí thấy ngay, Đây chính là cửa ngõ,

Thoát khỏi lưới biến kế.

7

Bởi vì giáo pháp này, Chẳng thể thấy nơi khác

Ngài, duy nhất, xứng đáng, Gọi là vị Tôn Sư;

Như chồn mà gọi là, Sư tử, với Ngoại đạo

Thì đó là nịnh hót.

8

Bậc tôn sư kỳ diệu ! Nơi quy y kỳ diệu !

Bậc biện tài kỳ diệu ! Bậc độ sinh kỳ diệu !

Con đảnh lễ tôn sư, Ngài đã khéo tuyên thuyết

Lý duyên khởi nhiệm mầu.

9

Để cứu lành chúng sinh

Ân Sư, ngài đã dạy

Những lý luận vô song

Để xác quyết Tánh Không, Là yếu chỉ Thánh Pháp

10

Những người nào nhận thấy

Con đường duyên khởi này

Là nghịch lý, hư vọng

Thì làm sao hiểu được, Hệ giáo lý của ngài ?

11

Ngài đã khai thị rằng, Ai chứng được tánh Không

Theo nghĩa lý duyên khởi, Thì sẽ thấy rõ ràng :

Điều không có tự tánh, Và tính cách năng tác ,

Cả hai không mâu thuẫn.

12

Nếu ai thấy ngược lại

Chẳng thể có năng tác, ở bên trong Tánh Không,

Năng tác cũng không mang, bản chất của Tánh Không,

Ngài dạy rằng người ấy, Rơi xuống vực hiểm sâu.

13

Nên trong giáo pháp ngài

Người chứng lý duyên khởi, Được ca ngợi tán thán

Nhưng ngay cả lý này, Cũng chẳng phải nói là, Tất cả không hiện hũu

Mà cũng chẳng phải là, Tất cả có tự tánh.

14

Cái chẳng do duyên sinh, Như hoa đốm hư không

Nên chẳng có cái gì, Mà không do duyên khởi

Nếu vật gì hiện hữu, Do chính tự tánh mình, Lại cần nhờ nhân duyên

Để có thể hiện hữu, Thì điều này nghịch lý.

15

Vì không có pháp nào, Lại có thể hiện hữu

Ngoại trừ khởi tùy duyên

Nên không có pháp nào, Hiện hữu khác ra ngoài

Bản thể vô tự tánh, Đó là điều ngài dạy.

16

Vì tự tánh cố định, Nên không thể hủy diệt

Nếu pháp có tự tánh, Chẳng thể đạt Niết Bàn

Các phiền não biến kế, Chẳng thể nào diệt được

Đó là điều ngài dạy.

17

Vì thế ai có thể, Tranh biện nổi với Ngài

Khi Ngài thuyết nhiều lần, Bằng tiếng sư tử hống

Trong pháp hội hữu học:

Rằng tất cả các pháp, Đều không có tự tánh ?

18

Không hề có tự tánh, Và nhất thiết chư pháp,

Năng tác theo nguyên lý: "Cái này khởi thành có, Vì duyên theo cái kia"

Cần gì phải nói thêm, Hai giáo lý nói trên

Đồng quy về một nghĩa, Và không có mâu thuẫn.

19

“Nhờ hiểu rõ duyên khởi,

Nên không kẹt biên kiến;”

Ngài tuyên thuyết như thế, Thật ưu việt tối thắng

Đấng Độ Sinh, Ngài là, Bậc biện tài vô song.

20

“Chư pháp vô tự tánh”

“Nhân này duyên quả kia”

Hai khẳng định như trên, Bổ túc lẫn cho nhau

Mà không hề mâu thuẫn.

21

Còn gì kỳ diệu hơn ?

Còn gì thù thắng hơn ?

Tán thán Ngài như thế

Mới đúng nghĩa tán thán, Ngoài ra không đúng cách.

22

Những người bị nô lệ, Vì vô minh ràng buộc

Mãnh liệt chống đối Ngài

Có gì đáng ngạc nhiên

Khi họ không nghe nổi, Diệu âm "vô tự tánh".

23

Nhưng khi đã nhận hiểu, Lý duyên khởi vô thượng

Từ kim khẩu của ngài

Mà vẫn không chịu nổi, Âm thanh sư tử hống

Của nguyên lý Tánh Không - Thì quả là quái dị!

24

Cửa vào vô tự tánh,

[Cửa] duyên khởi vô song,

Nếu chỉ qua danh tự, Mà chấp trong tự tánh,

Thì chính người đó đã

25

Làm mất cánh cửa vào, Đạo tối thượng thù thắng,

Mà Chư Tôn khéo dùng.

Biết lấy phương tiện nào, Để dẫn dắt kẻ ấy

Đi vào tối thượng đạo, Để làm vui lòng Ngài ?

26

Một bên là tự tánh, Tự sinh, phi duyên khởi

Còn bên này duyên khởi, Giả hợp và duyên sanh –

Hai bên chẳng thể nào, Hội tụ trên căn bản

Mà không có mâu thuẫn ?

27

Những gì do duyên khởi,

Dù bổn vô tự tánh,

Mà dường như là có, [Tự tánh của chính nó];

Do đó Ngài đã giảng, Nhất thiết pháp như huyễn.

28

Do chính sự kiện ấy, Hiểu rõ lời tuyên sau:

Qua giáo lý Ngài dậy

Kẻ vấn nạn, thách thức

Chẳng thể nào tìm ra, Sai lầm nào hợp lý.

29

Tại sao lại như thế ? Vì khi tuyên bố vậy

Cơ hội tô đẹp hơn, Hay là bôi xấu đi

Đối với các sự vật, Thấy, hay không thấy được

Đều xa lìa tâm thức.

30

Bằng chính đạo duyên khởi,

Lời lý luận của ngài, Thật biện tài vô ngại,

Đệ tử khởi tín tâm

[Cũng] tin những điều khác, Ngài dậy đều hữu lý.

31

Ngài thuyết pháp thù thắng, Nhờ tri kiến sự vật,

Y như vậy chẳng khác, Chư vị theo chân Ngài,

Xa lìa mọi thoái hoá;

Vì sẽ nhổ hết cả, Mọi gốc rễ sai lầm.

32

Còn những kẻ bội nghịch, Giáo pháp Ngài giảng dậy,

Cho dù cố hành trì, Khổ hạnh qua ngày tháng,

Sai lầm càng tăng trưởng, Như được triệu thỉnh thêm;

Bởi vì họ kiên cố, Trong tà kiến chấp ngã.

33

Chính thế! Khi người trí, Thấu triệt sự khác biệt

Giữa hai điều nói trên, Làm sao họ lại chẳng

Ngay đó đối với Ngài, Tỏ hết lòng tôn kính

Sâu thẳm từ thân tâm ?

34

Chưa kể còn bao nhiêu, Giáo pháp đến từ Ngài,

Dẫu chỉ một phần nhỏ,

Người nhanh chóng tin hiểu,

Cũng sẽ đạt từ đó, Tâm hỷ lạc tối thượng.

35

Than ôi ! Tâm thức này, Thua bại trước vô minh;

Dù đã tìm quy y, Qua một thời gian dài,

Vào một đấng tối thượng,

Mà vẫn chưa có được. Một phần đức hạnh Ngài.

36

Dù sao, trước khi dứt

Dòng đời đang trôi dạt, Dần dần đến cái chết

Đệ tử đã phát khởi, Chút tín tâm nơi Ngài -

Dẫu chút ít đó thôi, Cũng đã là phúc đức.

37

Sư của các đạo sư, Là bậc sư duyên khởi

Trí của các trí tuệ, Là trí tuệ duyên khởi -

Ngài, chẳng phải ai khác, Là đấng tối thượng nhất,

Như các vua thế gian, Biết chắc rõ như thế.

38

Những điều Ngài đã dậy

Đi theo đường duyên khởi;

Cũng để đạt Niết Bàn;

Ngài chẳng làm hạnh nào, Không mang lại tịch tĩnh.

39

Ôi ! Giáo pháp của Ngài,

Bất cứ ai nghe được

Đều đạt đến tịch tĩnh; Bởi thế chẳng ai lại

Không được tôn kính khi, Bảo trì giáo pháp Ngài ?

40

Giáo pháp đã chiến thắng, Mọi thách thức đối nghịch;

Thoát lìa mọi phi lý, Từ đầu đến sau cùng;

Ban cho các chúng sinh, Thành tựu hai mục đích –

Với hệ giáo lý này, Đệ tử thêm hoan hỷ.

41

Vì lợi ích chúng sinh, Ngài đã từng ban phát

Nhiều lần trong quá khứ, Qua vô lượng đại kiếp,

Khi thì cho thân Ngài, Khi thì cho mạng sống,

Và cho cả người thân, Cùng tài sản của cải.

42

Thấy giá trị giáo pháp

Khởi [mạnh] từ tim Ngài,

Như lưỡi câu mồi cá;

Thật đáng buồn nếu như, Không được nghe Ngài dậy.

43

Lực của nỗi buồn ấy

Khôn nguôi nơi tâm này,

Giống như tâm người mẹ

[Luôn] nghĩ đến con yêu.

44-45

Suy tư về lời Ngài, Đệ tử cũng khởi nghĩ,

"Tướng quý ngời chiếu sáng, Trong muôn ánh hào quang

Tôn sư như linh thánh, Đã thuyết bằng âm điệu

Du dương và thuần khiết"

Ngay khi nghĩ như thế, Về thân đấng Hìền Trí

Thì tâm của đệ tử, Được xoa dịu như là

Ánh trăng mát chữa lành, Khổ đau của bệnh sốt.

46

Hệ giáo pháp vô song, Đệ nhất thù thắng pháp

Những người chưa có trí,

Lúng túng và hỗn loạn

Như vướng trong cỏ rối.[2]

47

Thấy tình thế như vậy,

Đệ tử đã tinh tấn

Với muôn vàn cố gắng, Đi theo bậc hữu học

Để tìm hiểu ý Ngài, Nhiều lần thêm hơn nữa.

48

Lúc đó, đệ tử học, Qua nhiều các trước tác

Của cả hai trường phái, Đạo Phật và Ngoại đạo,

Tâm trí chỉ càng thêm, Liên tục thống khổ trong

Mạng lưới của nghi ngờ.

49

Luận của Tổ Long Thọ[3],

Như rừng huệ trong đêm -

Ngài thọ ký Long Thọ, Làm rạng tối thượng thừa

Lià xa hai biên kiến, Chấp thường và chấp đoạn -

50

Tràng hoa ánh bạch quang, Toả rạng sự chứng ngộ

Toàn vẹn Tổ Nguyệt Xứng[4], Với trí tuệ vô nhiễm

Đã viên mãn tròn đầy,

Và tự tại bay lượn, Trong bầu trời kinh điển.

51

Xua tan ánh đêm đen, Của các tâm biên kiến

Và sáng chói hơn các, Tinh tú luận sư giả –

Khi thấy được điều đó, Nhờ tôn sư từ bi,

Cuối cùng, tâm đệ tử, Đã tìm thấy an hoà.

52

Trong tất cả công hạnh, Giáo pháp [lời giảng] Ngài ,

Là điều tối thượng nhất;

Cũng vậy, trong giáo pháp, Duyên khởi là đệ nhất;

Người trí phải thường hằng, Tưởng niệm đến Đức Phật

[Qua giáo lý Duyên khởi].

53

Theo chân bậc Tôn Sư, Con xả ly thế gian

Học kỹ theo giáo pháp, Lời dạy đấng Chiến Thắng,

Tỳ kheo hành du già, Tinh tiến để bày tỏ

Lòng tôn kính [sâu xa], Với bậc Đại Chánh Tri !

54

Nhờ Tôn Sư từ bi

Đệ tử duyên học pháp, Với Tôn Sư vô tỷ,

Xin hồi hướng công đức, Tạo nhân cho chúng sinh

Được trợ duyên bởi các, Đấng Đạo Sư tối thượng.

55

Đến tận cùng thế giới, Nguyện xin cho giáo pháp

Đấng Lợi Lạc Chúng Sinh, Kiên cố, không lay chuyển

Bởi các gió ác kiến. Và nguyện cho mãi mãi, Đầy người khởi tín tâm, Hiểu chân thể giáo pháp, Từ nơi Đấng Tôn Sư.

56

Nguyện sinh sinh thế thế, Dẫu phải xả thân mạng

Cũng nguyện không sờn lòng, Dù trong một khoảnh khắc

Bảo tồn tối thượng đạo, Rạng ngời lý duyên khởi

Của chư tổ thánh hiền.

57

Xin nguyện cho đệ tử, Suốt cả ngày lẫn đêm

Nghĩ suy kỹ như sau, “Bằng cách nào tuyên dương

Giáo pháp thành tựu bởi, Đấng cứu độ vô thượng

Đã tinh tấn hành trì, Qua vô lượng đại kiếp ?“

58

Do đệ tử cố gắng, Trì nguyện thanh tịnh này

Xin chư vị Phạm Thiên, Đế Thích và hộ thần

Của cõi thế gian này, Và chư hộ pháp như

Đại Hắc luôn hộ trì, Vĩnh viễn không thay đổi.

Dịch từ văn bản Anh ngữ của Geshe Thupten Jinpa. Bản dịch này đã được hoàn thành để sửa soạn cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong tháng 04, 2007. Pháp hội này được tổ chức bởi Trung Tâm Kim Cang Thừa Guyto (Gyuto Vajrayana Center), tại San Jose, California, USA.

© Geshe Thupten Jinpa (bản anh ngữ)

© Giao Trinh Diệu Hạnh & Chân Giác Sonam Nyima (bản việt ngữ)



[1]Tổ Tông Cáp Ba, Tạng ngữ: Tsongkhapa (1357-1419)

[2](cỏ rối: gốc Phạn ngữ là balbaza, )

[3]Nāgārjuna (Tạng ngữ là klu sgrub, 150-250AD)

[4]Tổ Nguyệt Xứng, Phạn ngữ Candrakirti, Tạng ngữ Dawa Drakpa (600-650).

---o0o---

Trình bày: Phổ Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/05/2014(Xem: 8471)
Để giải thích về giá trị của Kalachakra - Thời Luân, Đức Dalai Lama đã nhấn mạnh tiềm năng vĩ đại về lợi ích Kalachakra đem lại như sau: “Quán đảnh Thời Luân là một trong những điểm đạo quan trọng nhất … vì chúng ta sẽ vận dụng được tất cả các yếu tố như thân và tâm của con người bên trong, cùng với toàn thể môi trường bên ngoài gồm có vũ trụ và thiên văn. Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng đại lễ Thời Luân có năng lực giúp giảm thiểu các xung đột và chúng ta cũng tin tưởng rằng Thời Luân còn có khả năng kiến tạo niềm an lạc tinh thần, và qua đó, mang lại hòa bình cho thế giới.” - His Holiness the Dalai Lama in C. Levenson’s “The Dalai Lama, A Biography”
14/06/2013(Xem: 4425)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni. Điều nầy được nói đến đầu tiên trong chương “Mạng sống của Như lai (Tathāgata)” trong kinh Liên Hoa (Lotus Sūtra), một tác phẩm được hoàn thành cuối cùng vào khoảng năm 200 trước Công nguyên. Ở đây, Đức Phật giải t
06/06/2013(Xem: 8781)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
04/06/2013(Xem: 21717)
Phật giáo có nguồn gốc lâu đời từ Ấn Độ, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Lịch sử, truyền thuyết, và nhân loại đều công nhận Phật giáo được khai sáng bởi Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha). Truyện kể về cuộc đời của Đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi lập gia đình là năm 16 tuổi; năm 29 tuổi thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) quyết chí xuất gia tu hành tìm đường diệt khổ; đến năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, đắc đạo và trở thành Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh rồi cuối cùng viên tịch nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.
28/04/2013(Xem: 29794)
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
18/04/2013(Xem: 7437)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thương và lòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
18/04/2013(Xem: 6912)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
18/04/2013(Xem: 6582)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệ và từ bi...
09/04/2013(Xem: 5740)
Thuở xưa, trú xứ của những người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình thường là khu rừng, vách núi, hang động, đồng hoang… Ngay cả Đức Thế Tôn, khi đã có những tu viện do các cư sĩ xây dựng cúng dường như Trúc Lâm, Kỳ Viên… thì Ngài cũng chỉ cư trú trong ba tháng an cư mùa mưa, còn phần lớn thời gian Ngài đi hoằng pháp và nghỉ lại trong những khu rừng trên lộ trình du hóa.
08/04/2013(Xem: 5344)
Vì nội dung và hình thức của bộ sách rất sâu sắc, chi tiết và thâm diệu nên chúng tôi chỉ xin có ít lời mô tả sơ lược. Người đọc chỉ có thể đánh giá được hay tự mình định giá của nó qua các nghiên cứu cụ thể, chi tiết và thật sự vận dụng các giảng dạy trong sách.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567