Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Trang Nghiêm Vương Đà La Ni Chú

08/04/201312:32(Xem: 6176)
Kinh Trang Nghiêm Vương Đà La Ni Chú

              mattong_4Mật Tạng Bộ 4 _ No.1375 (Tr.894 _Tr.895)

PHẬT NÓI KINH

TRANG NGHIÊM VƯƠNG ĐÀ LA NI CHÚ

_MỘT QUYỂN_

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư NGHĨA TỊNHphụng chế dịch

Việt dịch: HUYỀN THANH

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự tại núi Bố Đát Lạc Ca (Potalaka) vì các Người, Trời, tất cả Đại Chúng diễn nói Pháp Yếu, quán khắp mười phương dùng âm thanh màu nhiệm bảo Quán Tự Tại với Diệu Cát Tường Bồ Tát rằng:

“Thiện Nam Tử ! có Kinh tên là Nhất Thiết Như Lai Sở Hộ Quán Sát Chúng Sinh Thị Hiện Phật Sát Trang Nghiêm Vương Đà La Ni . Xưa kia, lúc Ta mới phát tâm thời ở chỗ của Đức Hoa Quang Hiển Hiện Như Lai cùng với 90 câu chi chúng sinh , nghe Pháp này một lần đều được Trí Tuệ Chi Phần của Như Lai, đều được Thọ Ký ở các cõi phật sẽ được làm Phật . Ta cũng ở trong ấy được Phật thọ ký

Này Thiện Nam Tử ! Ta dùng mắt Phật quán thấy ba vạn Như Lai đời quá khứ vì các chúng sinh nói Pháp Yếu này. Các ông, Quán Tự Tại với Diệu Cát Tường vào lúc nói Pháp ấy đều là bậc Đạo Thủ (người dẫn đầu trong Đạo)

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói lời đó xong thời Đại Chúng có mặt, Bồ Tát, Thanh Văn, các người đến nghe đều phát Tín Tâm, cúng dường Đức Phật ấy

Lúc đó vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa chúng sinh đều được Thọ Ký, cũng được Thắng Diệu Đẳng Trì của Bồ Tát, trừ mọi bệnh khổ, tiêu diệt Triền Cái , đầy đủ ước nguyện, thành tựu căn lành, dung nhan đoan chính, tài bảo tràn đầy. Quốc Vương, Đại Thần , các loài chúng sinh nhìn thấy đều vui vẻ. Niệm Tuệ Thần Thông không có gì không tròn đũ. Nơi Phật Pháp Tăng có được niềm tin chẳng hoại. Thọ mệnh, sắc đẹp, sức mạnh có uy thế lớn. Không bị khổ đau vì thương yêu mà phải chia lìa hoặc ghét nhau mà luôn gặp gỡ.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện hay đối với Kinh này, cúi năm vóc sát đất , sinh tâm hiếm có . Đem các hoa, hương, Anh Lạc, vòng hoa, phan, lọng cung kính cúng dường , quy y , khen ngợi, đọc tụng, thọ trì.Hoặc tự mình viết chép, hoặc dạy người viết… thảy đều thành tựu vô lượng Công Đức. Ai nhìn thấy người thọ trì đều sinh tâm tin kính. Cũng ở thân hiện tại này đầy đủ mọi Đức , đều được Thắng Diệu Đẳng Trì của Bồ Tát, trong miện luôn tuôn ra mùi thơm Chiên Đàn, mắt trong sáng như cánh sen xanh. Ở trong ngày đêm nhìn thấy hình tượng của Phật với Đại Bồ Tát

Nếu có tội thuộc nhóm Vô Gián với Nghiệp Chướng thảy đều được tiêu diệt. Chư Thiên vệ hộ. Khi mệnh chung thời được thấy chư Phật Bồ Tát, tâm chẳng thác loạn ắt được vãng sinh về quốc thổ Cực Lạc, Ta thoo ký cho người này được làm Phật. Người ấy thấy thân của Ta liền cung kính cúng dường, tâm chẳng nghi ngờ nơi Diệu Bồ Đề

Nếu lại có người đối với Pháp Môn này đọc tụng, thọ trì, cúng dường, cung kính. Hoặc tự mình viết chép hoặc dạy người chép với có được nghe tên của Kinh này. Nên biết người này tức là Bồ Tát, cần phải cúng dường

Nếu lại người này do nghiệp ác lúc trước mà tiền tài, thọ mệnh, sắc đẹp, sức lực , của cải trong ngoài thảy đều kém thiếu, mong cầu chẳng được, phải ly biệt với kẻ thân yêu, quốc thổ hoang tàn. Bị nạn về vua chúa , giặc cướp, suy kém. Do sức của Kinh này nên thân hiện chỉ chịu nhận nhẹ . Hoặc tạm đau đầu, hoặc mặc quần áo hư xấu, hoặc dùng thức ăn hư thối, hoặc gặp người chửi mắng với hủy nhục khác. Khi trải qua các nghiệp chướng này tức tự tiêu trừ.

Này Thiện Nam Tử ! Người trì Kinh ấy nên sinh niệm này :”Từ Xưa ,con đã lưu chuyển trong biển sinh tử. Đối với các Hữu Tình gây tạo mọi điều ác, ngày đêm tăng trưởng Nghiệp chẳng lành. Ngày nay đã hiểu rõ nên chẳng dám che dấu. Xin bày tỏ nguồn tội, thành tâm sám hối, khởi niềm tin chẳng thể hoại nơi Phật Pháp Tăng

Nếu lại người ấy từng tạo các nghiệp ác đối với 3 báu Phật Pháp Tăng, Độc Giác, Thanh Văn, cha mẹ, sư trưởng… sẽ bị quả báo là: quần áo, thức ăn uống đều bị tán tận. Do sức của Kinh cho nên Nghiệp này đều được trừ . Thực phẩm với quần áo được nhiều đủ.

Nếu lại người kia có nghiệp phải chịu khổ nơi Nại Lạc Ca (Nàraka:Địa Ngục) , đau khổ vì thương yêu mà phải xa lìa, đau khổ vì khi sinh ra đã bị mù, không có căn hoặc có hai căn. …thì mọi nghiệp dị thục ấy cũng đều được tiêu diệt

Lại nữa, vì sức của nghiệp ác, ganh ghét, giận dữ lúc trước sẽ bị đọa trong các nẻo ác, Diễm Ma Giới, Bàng Sinh, Ngạ Quỷ. Do sức của Kinh này cho nên hết thảy nghiệp ác không có gì không tiêu diệt được. Tất cả Phước Đức thảy đều tăng trưởng

Thiện Nam Tử ! Nếu ở nơi chốn nào có Pháp Môn này thì các người ở đó thường được sự ủng hộ của Kinh này, đầy đử Công Đức, viên mãn mong cầu, luôn được giàu vui, tiêu trừ nghiệp ác, cũng không bị chết đột ngột với các mộng ác, không có bệnh khổ, chiến đấu thường thắng, thọ mệnh dài lâu, đầy đủ sắc đẹp với sức mạnh, có uy thế lớn. Tất cả Thế Gian, Người với hàng Trời Rồng, các Quỷ Thần đều tùy ý chuyển. Chẳng gặp tai nạn về nước, lửa, ác độc cho đến do trì sức của Thần Chú này cho nên thường được sự Thọ Ký của chư Phật

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện được nghe Thần Chú như vậy rồi thọ trì đọc tụng. Hoặc tự mình viết hoặc dạy người viết, cung kính cúng dường thì kẻ trai lành, người nữ thiện ấy đều được Công Đức đã nói như vậy

Khi Đức Thế Tôn nói lời này xong thời Đại Địa đột nhiên chấn động theo sáu cách. Các Đại Chúng này đem hoa hương màu nhiệm, hương xoa bôi, vòng hoa, lọng, quần áo thắng diệu dâng lên Đức Thế Tôn, đồng thanh xướng rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Làm sao chúng con được nghe Thần Chú do Đức Như Lai đã nói ?”

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói Chú là:

1_ Nam mô tát bà đát tha yết đa nam

2_ Đãn điệt tha

3_ Bột thê

4_ Tô bột thê

5_ Lô ca tỳ lô kế

6_ Lộ ca phạt đế yết lan đế

7_ Tát đỏa a phạt lô yết nê

8_ Tát bà đát tha yết đa, a đề sắt xỉ đế

9_ Tát bà a xa bát lợi bô lợi nê

10_ Tụ đính đạt lệ

11_ Nại la đế bà bố thị đế

12_ Đát tha yết đa thận nhược na đạt thê

13_ Đát tha yết đa , a đề sắt xá nê na

14_ Tát bà lô ca tốc xí bà bạt đổ

15_ Tát bà yết ma bát lợi sai gia dã

16_ Ma Ma, a mộc yết tả (tự xưng tên mình)

17_ Tát bà tát đỏa nan giả

18_ Hạt lạt xoa, bà bạt đồ

19_ Đát tha yết đa, a đề sắt xá nê na

20_ Sa ha (bên miệng tác chữ đều có thể búng ở đường lưỡi)

Thiện Nam Tử ! Thần Chú này là điều mà ba vạn Như Lai đã tuyên nói và cùng nhau gia hộ. Nay Ta cũng lại nói Thần Chú này vì muốn lợi ích cho tất cả Hữu Tình, khiến cho được an vui, thường làm ủng hộ , trừ bệnh khổ ấy, sinh các cõi Phật

Nếu lại có người tác niệm như vầy:”Như Đức Phật đã nói Công Đức của Thần Chú. Nay ta làm thế nào để có thể thành tựu ?”.

Tức vào lúc sáng sớm, khởi trong sạch. Đối với tất Hữu TÌnh hưng Đại Từ Bi, phát tâm thương xót. Trừ các ganh ghét, kiêu mạn , giận dữ. Một lòng cung kính ở trước Tượng Phật đem hương, hoa, thức ăn uống rộng làm cúng dường, lễ mười phương Phật, tâm khởi ước nguyện, tụng Thần Chú này đủ 108 biến. Ở mỗi một biến đều chú vào một bông hoa rồi đem mỗi một bông hoa cúng dường nơi Phật.

Người này, tức liền tùy theo sự nguyện cầu thảy đều như ý. Cũng ở trong mộng được thấy chư Phật. Khi lâm chung thời nhìn thấy Phật Bồ Tát, sau khi bỏ thân được sinh về Thế Giới Cực Lạc thảy đều đầy đủ thọ mệnh, sắc đẹp, sức mạnh

Lúc nói Chú này thời sáu vạn Hữu Tình được Pháp Vô Sinh

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Kinh này xong thời Quán Tự Tại Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, tất cả Đại Chúng nghe điều Phật nói đều vui vẻ phụng hành

PHẬT NÓI KINH TRANG NGHIÊM VƯƠNG ĐÀ LA NI CHÚ (Hết)

08/07/2007

---o0o---

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/07/2015(Xem: 20055)
Là Đà La Ni ( thần chú ) mậu nhiệm linh diệu do Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Diễn nói trong Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm . Hơn 60 năm về trước chư tôn túc Trưởng Lão ở Thừa Thiên đã kính Tín lời dạy của Phật và cũng vì đem sự an lành cho hàng đệ tử Phật, nên các ngài đã in trọn đủ 5 đệ chú Lăng Nghiêm thu nhỏ để cho Phật tử đeo trên thân thể mình, việc phổ lợi nầy bao năm qua đã đem lại diệu lực an lạc cho những ai tin và kính thọ.
06/07/2015(Xem: 18724)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
10/06/2015(Xem: 8489)
Trong Phật giáo Mật tông Tây tạng có nhiều pháp môn tu tập để đưa hành giả đến Tự chứng ngộ Phật tánh của mình. Được xếp hàng cao nhất trong tất cả các pháp môn đó là Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā) của phái Khẩu Truyền (Kargyu) và Đại Hoàn Thiện (Dzogchen hay Ati-yoga) của phái Cổ Mật (Nyingma). Theo các học giả và hành giả Tây tạng thuộc phái Kargyu – tiêu biểu là Khenchen Thrangu Rinpoche, một trong những đại sư xuất sắc thời hiện đại thuộc dòng Karma Kargyu – thì Mādhyamika (Trung đạo hay Trung quán) là giáo lý dạy về nguyên lý Tánh Không (Shūnyatā) trong hình thức tổng quát và Mahāmudrā (Đại Ấn hay Đại Thủ Ấn) là giáo lý dạy về tu tập và chứng ngộ Tánh Không.
18/05/2015(Xem: 22056)
Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (bản Việt dịch của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn) HT Thích Huyền Tôn dịch Hạ tải bản Kinh này: Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (PDF Liên lạc để thỉnh tập sách này tại: Nhà sách Văn Thành Địa chỉ: 235/53 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P7, Q3. TP.HCM ĐT: 848 82028 – 0909 093 106 – 0908 585 560
05/02/2015(Xem: 7474)
Sách Cúng Dường Mây Cam Lồ (Choden Rinpoche) posted Nov 13, 2014, 10:08 PM by Tam Bao Dan [ updated Nov 20, 2014, 10:56 PM by Pema Zangmo ] Một sưu tầm giáo huấn về pháp luyện tâm và các đề tài khác do Choden Rinpoche luận giảng. Gyalten Deying chuyển Việt ngữ. Thanh Liên và Mai Tuyết Ánh hiệu đính. Viet Nalanda Foundation phát hành lầu đầu vào tháng 12 năm 2014. Sách ấn tống không bán. [Đọc sách] Tại Hoa Kỳ và Canada, xin liên lạc vnfbookrequest@gmail.com để nhận sách. Tại Úc Châu, Tân Tây Lan và Đông Nam Á (không kể Việt Nam), xin liên lạc xitrum70@yahoo.com. Tại Việt Nam, xin liên lạc huyen2307@yahoo.com. Quý vị cũng có thể tìm thấy bản điện tử của sách này ở trang "Giáo Pháp" trong phần "Kinh Sách"
24/01/2015(Xem: 7144)
Nghi Thức Cúng Tsog, Chùa Đại Nhật Như Lai - Maha Vairocana Temple 1631 South White Rd, San Jose, CA 95127 Tel: (408)926-1998 -- Email: ThongDat72@yahoo.com
22/12/2014(Xem: 24046)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
28/11/2014(Xem: 8405)
Thrangu Rinpoche sinh ở Tây tạng. Sau khi thoát khỏi Tây tạng sang Ấn độ, sư đã giúp thành lập chương trình giáo dục cho dòng truyền Karma Kagyu của đức Karmapa thứ 16. Sư là thầy dạy các Tulku chính của dòng truyền như Shamar Rinphoche, Situ Rinphoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche, và Gyaltsab Rinpoche. Sư cũng thành lập nhiều tự viện ở Nepal và Ấn độ, và dựng các trung tâm Phật giáo ở Viễn đông, Đức, Anh, Hoa Kỳ, và Ca-na-đa. Sư được biết đến nhiều vì tài nhận lấy những đề tài khó và làm cho chúng trở thành có thể tiếp cận được cho người tu tập. Sư là tác giả một số sách bằng Tạng ngữ và Hoa ngữ gồm hơn 30 quyển bằng Anh ngữ. Hiện tại sư cũng là một trong những vị thầy chính của Karmapa thứ 17.
27/11/2014(Xem: 7058)
Dù một số học giả cho rằng Mật điển của Phật giáo phát xuất từ Ấn giáo (Hinduism), điều này không đúng. Lý thuyết này thịnh hành trong số những người theo học thuyết Tiểu thừa, dựa trên sự tương đồng bề ngoài của các yếu tố trong hai hệ thống, chẳng hạn như sắc tướng của các Hộ Phật, pháp thiền quán về kinh mạch và khí, nghi lễ lửa, v.v... Tuy một số hành trì như trì tụng mật chú đều phổ biến trong cả hai truyền thống Mật điển Ấn giáo và Phật giáo, sự diễn dịch của chúng, ý nghĩa nội tại, có một sự khác biệt lớn. Hơn nữa, Mật điển Phật giáo cao cấp hơn, bởi vì không như Ấn giáo, nó chứa đựng ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ: tâm xả ly, bồ đề tâm và chánh kiến về tánh Không.
24/11/2014(Xem: 16734)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567