Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật Tạng Việt Nam số 54

02/05/201320:28(Xem: 8303)
Mật Tạng Việt Nam số 54

MẬT TẠNG

PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TẬP II

Ban phiên dịch:

Thích Viên Đức, Thích Thiền Tâm

Thích Quảng Trí, Thích Thông Đức

Cư sĩ Huỳnh Thanh, Như Pháp Quân

---o0o---

MẬT TẠNG VIỆT NAM SỐ 54

BẢO TẠNG THIÊN

Thiên Bảo Tạng, còn xưng là Thiên Nữ Bảo Tạng. Đây là vị Thần chủ về phước đức, cho nên được xem như đồng với nhóm Cát Tường và Biện Tài Thiên…

Thiên Bảo Tạng có tên Phạn là Tra La Khư, nhưng không phải được dịch âm từ chữ Phạn Bảo Tạng ( Ratna garbha ) lại do Pháp Thiên Nữ Bảo Tạng Đà La Ni, xưng Thiên Vương Bảo Tạng là Tra La Khư mà có.

Phạn ngữ Tra La Khư thì chẳng rõ.Nhưng Phạn Ngữ có chữ Tàrakha mang nghĩa là “Người cứu trơ”ïvà đây cũng là tên gọi của một loài Quỷ ác.Ngoài ra, trong Đồ Tượng quyển 3 có ghi câu Phạn Chú là: OM- DARAGADARAGAVIDARADI SVÀHÀ và được dịch âm là : “Án, tra la khư, tra la khư, tỳ đa la nễ, sa-phạ ha”. Như vậy Tra La Khưdịch Âm của Phạn ngữ Daraga.

Nay theo sự khảo cứu của chúng tôi, thì Phạn Ngữ Daraga không biết rõ nghĩa mà chỉ có Phạn ngữ Dàraka mang ý nghĩa là :bẻ gẫy, đập phá, hủy diệt, từ bỏ thói quen, tạo nên sự gián đoạn, cắt đứt quan hệ, chia ly, xé rách, xé nát, tàn phá, khiển tráchNgoài ra trong Đàn Pháp Quán Tưởng của Pháp Tra La Khư, thì lại quán chữ Tra ( ) biến thành viên ngọc báu, rồi viên ngọc báu biến thành Thiên Nữ.Như vậy chữ Tra La Khư có thể là Phạn ngữ Tàraka Và câu Chú: “Án, tra la khư, tra la khư, tỳ đa la nễ, sa-phạ ha“ cóthể được phục hồi là :

OM- TÀRAKATÀRAKAVIDARADI SVÀHAØ

( HỡiĐấng Cứu Độ ! Hãy giúp cho con.Khiến cho con xa lìa sự nguy hiểm sợ hãi, thành tựu điều tốt lành ).

Pháp Đà la ni Thiên Nữ Bảo Tạng ghi là: “Vị Thiên này có đủ uy đức lớn ,thần lực không gì sánh, hay ở Thế gian hành các việc thù thắng như : Lay trời động đất, dời núi lấp biển, việc hơn thua trong binh qua đều theo ý chí mà thành. Tiền của, lụa là, vàng, báu chất cao như núi.Hay mãn các nguyện mong cầu về :quan vị, kỹ nghệ, phòng giặc cướp, trị bệnh…. Hình tựợng Thiên Nữ, thân khoác áo bào đỏ tía, thắt dây lưng bằng vàng, đi giày ủng màu đen.Tay phải cầm hoa sen, tay trái cầm Bảo Châu Như Ý, diện mạo đoan chánh sáng tỏ”.

Thầy truyền là :“Thiên Nữ có Chủng Tử Hùm ( ) , Tam Ma Gia Hình là Viên Ngọc Báu ”.

PHÁP THÊN NỮ BẢO TẠNG

Thắng Câu Chi Viện ghi là: Tượng Thiên Nữ Bảo Tạng dài 2 thước 5 thốn. Quán Tưởng như sau :

Trên Đàn có cái Tòa bằng lụa ngũ sắc, bên trên có chữ Tra ( ) biến thành viên ngọc báu.Viên ngọc báu biến thành Thiên Nữ: đầu đội mão hoa, trang điểm bằng hoa đoan chánh, thân khoác áo bào đỏ tía, thắt dây lưng bằng vàng, đi giày ủng màu đen. Tay phải cầm hoa sen, taytrái cầm viên ngọc Như Ý, tỏa ánh hào quang, có uy đức không gì sánh bằng.

Tay trái co ngón giữa, ngón vô danh, đem ngón cái đè lên móng 2 ngón, duỗi thẳng ngón trỏ và ngón út để ngang trái tim. Tay phải cầm tràng hạt.Niệm Chân Ngôn :

- Án, tra la khư, tra la khư, tỳ đa la nễ, sa-phạ ha.

Tụng đủ một ngàn biến, các Nguyện sẽ như ý.

BÀI TÁN THIÊN NỮ BẢO TẠNG

Vidiệu thù thắng khó luận bàn

Sáng như mặt trời tỏa hương thơm

Dung nhan đoan chánh thật hiếm có

Da mềm láng mịn tựa Đâu La ( LoạiGấm Lụa quý )

Hơi thơm từ miệng tràn nhân thế

Khiến ai gặp gỡ cũng nhìn trông ( chiêmngưỡng)

Một lòng mong cầu người như vậy

Thường thêm cung kính, Tâm chẳng nghi

Tuy đây là việc của Thế Gian

Rốt ráo mau thành Đạo Thanh Tịnh

Hay khiến người Trì đến Bồ Đề

Cùng nhau tu tập Vô Thượng Giác

Chọn ngày mồng năm tháng năm.Trước đó 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày, 100 ngày hoặc 39 ngày tính đến ngày mồng năm tháng năm thì vừa vặn đủ, ắt Pháp ấy đều thành.

Riêng 8 câu Chú, tụng mỗi câu 21 biến trước khi tác Pháp thì Đồ Tượng 3 ghi nhận hơi khác với Kinh Bản:

1- Án, hưng bà la đế tra, cấp cấp cấp, sa-phạ ha.

2- Án, chiết la đế tra ma gia, sa-phạ ha.

3- Án, lặc xoa nađế tra, sa-phạ ha.

4- Án, bà bà lệ nhạ đế, sa-phạ ha.

5- Án, bột nhạ la đế tra, sa-phạ ha.

6- Án, dược xoa, dược xoa tế na, sa-phạ ha.

7- Án, già đế tỳ chiết duệ, hồng phấn, sa-phạ ha.

8- Án, chiết lặc nagia đáo bà đế tra, sa-phạ ha.

Nay phối hợp với phần dịch âm của Kinh Bản, chúng tôi xin phục hồi 8 câuChútrên là :

1- OM( Cảnh giác ) HAVAH( Lời kêu gọi ) RASITA( Hương vị đem lại tâm tư tình cảm ) JAH JAH( Câu triệu, kêu gọi khiến cho mau đến ) SVÀHAØ ( Quyết định thành tựu ).

2- OM( Quy mạng ) ‘SVA( Tự tánh ) RASITA( Hương vị đem lại tâm tư tình cảm ) MÀYÀ ( Huyễn hóa ) SVÀHAØ ( Quyết định thành tựu ).

3- OM( Quymạng ) LAKSANA( Hình tướng ) ‘SITA( Thon thả mảnh mai ) SVÀHÀ( Thành tựu tốt lành ).

4- OM( Quy mạng ) BHAVA( Hữu, sự có, sự được ) ALA( Đấng Tối Cao, Thánh Thần ) JATI( Phát sanh ) SVÀHAØ ( Quyết định thành tựu ).

5- OM( Cảnh giác ) BHUJA( Chi phối , lãnh đạo, thưởng thức ) RASITA( Hương vị đem lại tâm tư, tình cảm ) SVÀHAØ ( Quyết định thành tựu ).

6- OM( Quymạng ) YAKSA( Dược Xoa ) YAKSASENA( Dược Xoa Quân ) SVÀHÀ( Thành tựu tốt lành ).

7- OM( Quy mạng ) GATE( Thú hướng, lối nẻo ) VI’SVAYE( Nhóm xảo diệu ) HÙM( Khủng bố ) PHAT( Phá bại ) SVÀHÀ( Thành tựu tốt lành ).

8- OM( Quymạng ) SVARA( Âm thanh ) NAYA( Lý thú ) RASITA( Hương vị đem lại tâm tư tình cảm ) SVÀHÀ(Thành tựu tốt lành).

Ấn của 8 câu Chú trên là Ấn Ngọc Hoàn:Tay trái co ngón giữa, ngón vô danh. Đem ngón cái đè lên móng 2 ngón tayấy. Duỗi thẳng ngón trỏ và ngón út, đặt ngang trái tim.

25/10/1999


MẬT TẠNG VIỆT NAM SỐ 54

PHÁP THIÊN NỮ BẢO TẠNG ĐÀ LA NI

Mật Tạng Bộ 4 .No 1282 ( Tr342 - Tr 343 )

Việt dịch :Huyền Thanh

Bấy giờ Tam Thập Tam Thiên chủ, Thiên Vương Ma Hê Thủ La, cùng với các chúng Thiên nữ khen ngợi Thiên Vương Bảo Tạng tên là “ TraLa Khư ” có uy đức lớn, sắc đẹp, sức lực không thể sánh, hay ở thế gian làm các việc thù thắng như lay trời, động đất, nghiêng núi, lấp biển, binh qua ý chí thắng lợi mà thành. Tiền của, tơ lụa, vàng bạc tích chứa như núi cao, là chỗ thọ dụng của thế gian.Liền nói chú là:

- Án – Tra La KhưTraLa Khư Tỳ Đa La Nể Sa Phạ ha .

( OM- DARAGA DARAGA VIDARADI SVÀHA ).

Nếu muốn thọ trì Pháp này.Trước tiên, vẽ một hình Thiên Nữ.Pháp Nê Dàn, thì trước ngày mồng 5 tháng 5 cho đến ngày mồng 7, ăn loại cháo hiếm có, trường trai, ý muốn đến nơi nào thì nên tĩnh khiết.

Phàm hành Pháp này thì chẳng kêu gọi mà Thiên Nữ tự đến, xong nên chí thành gìn giữ tư tưởng và biểu hiện ra bên ngoài.Pháp này ắt nên ở đêm mồng 5 tháng 5 thọ trì liền thành tựu quả.Đêm ngày 5 tháng 5 tập trung tư tưởng, gìn giữ suy nghĩ, luôn luôn tụng Chú 1008 biến, chẳng được gấp gáp, cho đến canh ba thì tâm liền hôn ám giống như ngủ. Thiên nữ sai các Thị nữ đến khiến cho cùng thử chơi đùa, ắt đừng nói chuyện.Đến lần thứ hai, thì vị Thiên Nữ Tra La Khư ấy tự đến tương kiến.Người tác pháp nầy, chẳng được đứng lên, mà qùy dài chắp tayđỉnh lễ hai lạy.

Thiên Nữ ấy liền hỏi: “ Ngươicần điều gì ? ”

Người tác pháp đó tùy miệng đáp: Cầu xin hảo lạc, trường sinh bất tử, thông linh, tình cảm thuộc vạn sự của thế gian, suốt đời phụng sự Thiên Nữ, sanh ý muốn làm vợ chồng.

Thiên Nữ nghe xong, rất là hoan hỷ.Ngay đêm đó liền cùng giao hợp, các nguyện như ý.Nếu muốn làm chị em thì sự việc ắt phải rõ ràng, đừng sinh hồ nghi.

Đàn Pháp ấy rộng 2 khuỷu tay, mặt bằng phẳng, dùng phân bò xoa đất, liền dùng bột hương tô đất. Dùng 5 màu vẽ, lại lụa 5 màu đều dài 2 thước 1 tấc ( Đơnvị đo lường của Trung Hoa ). Ở bên trong Đàn, đặt toà ngồi cho Thiên Nữ.Đem các loại như, mật, sữa, trái cây vào một cái bát. Hoa, bánh 5 màu đều có 5 cây.Gom chunghạt dẻ, luá mạch thiêu đốt hoa tùy ý cúng dường.

Về Pháp vẽ Tượng.Thân Thiên Nữ dài 2 thước 5 tấc, đầu đội mão hoa, tô điểm hoa cực diệu đoan chính.Thân mặc áo bào màu đỏ thẩm, giây lưng vàng, giày ủng màu đen.Tay phải cầm hoa sen, taytrái cầm trái châu Như Ý. Thiên Nữ đó có hào quang đoan chính mà họa sư ở thế gian chẳng có thể vẽ được, ắt cần có hảo thủ, chẳng được tranh luận trả giá.Lúc tương ứng thì tâm thông linh tự tại, tiền của lụa là dư thừa, liễu đạt tất cả họa phước, trong Quan vị cao tuân, nam nữ qúy tiện thảy đều vui vẻ.

Phàm có di động, thì tất cả qủy thần đều đến nghinh đón như kính Thiên Quan; sợ hãi chiêm ngưỡng, liền được vô ngại cho đến nghề nghiệphảodiệu của thế gian đều tùy ý mà thành.

Khi có người ác đến hãm hại, liền hô lên: “Giặc cướp” thảy đều được tự trói tự đánh. Nói “thả”, liền thả.Sự chết chóc, mất mát của thế gian đều như nghiệm.Vạn bệnh trước mắt, khởi ý trì thì đều khỏi bệnh.

Lại có 8 chân ngôn sau, phải nên thanh tịnh, tắm gội, mặc áo mới sạch.Ở trước hình tượng Phật, đều tụng 21 biến, sau đó tác pháp.

1- Chân ngôn thứ nhất :

- Án- Dữ bà la đế tra cấp cấp saphạ ha.

2- Chân ngôn thứ hai :

- Án- Phạt la đế tra lợi ma nala Sa phạ ha. 

3- Chân ngôn thứ ba :

- Án- Lặc xoa nađế tra sa tra Sa phạ ha.

4- Chân ngôn thứ tư :

- Án- Bà bà lệ nhạ đế tra Saphạ ha.

5- Chân ngôn thứ năm :

- Án- Bột nhạ la đế tra Saphạ ha.

6- Chân ngôn thứ sáu :

-Án- Dược xoa dược xoa đế nabà Sa phạ ha.

7- Chân ngôn thứ bảy :

- Án- Già đế tỳ phạt duệ hồng phấn tra Saphạ ha.

8- Chân ngôn thứ tám :

- Án- Phạt lặc nagia lợi bà đế tra Sa phạ ha.

Đem ngón giữa, ngón vô danh co lại, để ngón cái đè móng hai ngón, duỗi ngón trỏ với ngón út antrên trái tim.Tay phải cầm tràng hạt niệm chân ngôn. Đây gọi là Ấn Ngọc Hoàng .

23/ 5 / 1996

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/11/2014(Xem: 17916)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
10/11/2014(Xem: 5794)
Diễm, từ Việt Nam gửi một tin nhắn cho tôi qua Yahoo Messenger để hỏi về Mật Tông. Cô bảo sáng nay vào paltalk nghe thiên hạ nói về hai chữ đó mà phút cuối vẫn mù mờ. Tôi hỏi sao cô không hỏi trực tiếp trong Room, cô nói giọng Huế của mình trọ trẹ khó nghe, nói ra lỡ người ta không hiểu thì dị òm (mắc cỡ chết). Tôi cứ băn khoăn không biết phải nói sao về một chuyện không phải sở trường của mình. Không nói thì kẹt cho cả đôi bên: Diễm tiếp tục mù tịt về một chuyện kể cũng nên biết và tôi mang tiếng ăn quẩn cối xay. Dù thiệt ra thiên hạ có nghĩ sao thì trái đất vẫn quay mà.
31/05/2014(Xem: 9198)
Để giải thích về giá trị của Kalachakra - Thời Luân, Đức Dalai Lama đã nhấn mạnh tiềm năng vĩ đại về lợi ích Kalachakra đem lại như sau: “Quán đảnh Thời Luân là một trong những điểm đạo quan trọng nhất … vì chúng ta sẽ vận dụng được tất cả các yếu tố như thân và tâm của con người bên trong, cùng với toàn thể môi trường bên ngoài gồm có vũ trụ và thiên văn. Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng đại lễ Thời Luân có năng lực giúp giảm thiểu các xung đột và chúng ta cũng tin tưởng rằng Thời Luân còn có khả năng kiến tạo niềm an lạc tinh thần, và qua đó, mang lại hòa bình cho thế giới.” - His Holiness the Dalai Lama in C. Levenson’s “The Dalai Lama, A Biography”
14/06/2013(Xem: 5007)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni. Điều nầy được nói đến đầu tiên trong chương “Mạng sống của Như lai (Tathāgata)” trong kinh Liên Hoa (Lotus Sūtra), một tác phẩm được hoàn thành cuối cùng vào khoảng năm 200 trước Công nguyên. Ở đây, Đức Phật giải t
06/06/2013(Xem: 9372)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
04/06/2013(Xem: 22674)
Phật giáo có nguồn gốc lâu đời từ Ấn Độ, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Lịch sử, truyền thuyết, và nhân loại đều công nhận Phật giáo được khai sáng bởi Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha). Truyện kể về cuộc đời của Đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi lập gia đình là năm 16 tuổi; năm 29 tuổi thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) quyết chí xuất gia tu hành tìm đường diệt khổ; đến năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, đắc đạo và trở thành Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh rồi cuối cùng viên tịch nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.
28/04/2013(Xem: 31986)
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
18/04/2013(Xem: 7972)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thương và lòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
18/04/2013(Xem: 7412)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
18/04/2013(Xem: 7181)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệ và từ bi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]