Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương Phổ Hiền

02/05/201313:57(Xem: 18164)
Chương Phổ Hiền


Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

Bài thứ hai

II. Chương Phổ Hiền

1. Ngài Phổ Hiền hỏi Phật

2. Phật Khen Ngài Phổ Hiền

3. Phật trả lời cho ngài Phổ Hiền 

4. Phật dạy pháp tu để nhập “Viên Giác”

5. Phật dạy pháp tu ly huyễn

6. Phật dạy “Giác ngộ” không có tuần tự, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện.

7.Phật nói bài kệ tóm lại nghĩa trên


II. Chương Phổ Hiền

1.Ngài Phổ Hiền hỏi Phật:

Khi ấy Ngài Phổ HIền Bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:

- Bạch Ðức Ðại bi Thế Tôn, xin Ngài vì các vị Bồ Tát ở trong hội này và tất cả chúng sanh đời sau tu Ðại thừa, từ bi chỉ dạy phương pháp tu hành để vào cảnh giới Viên Giác thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn, nếu chúng sanh biết các pháp đều như huyễn, thân và tâm này cũng huyễn, thì cần gì phải tu? Tại sao còn dùng cái “huyễn” trợ lại tu “pháp huyễn” làm gì?

Lại nữa, nếu các pháp hư huyễn đều diệt hết, thì thân tâm này cũng diệt; nếu thân tâm đều diệt thì lấy ai tu hành mà gọi là “tu pháp như huyễn”?

Bạch Thế Tôn, nếu các chúng sanh không tu hành, vẫn ở mãi trong cảnh sanh tử huyễn hóa mà chẳng tự biết, thì làm sao dẹp trừ các tâm vọng tưởng, để giải thoát được sanh tử luân hồi?

Xin Phât vì chúng sanh đời sau, chỉ dạy phương tiện tu tập và thứ lớp tu hành như thế nào, để cho chúng sanh khi nghe đến cảnh giới Viên Giác thanh tịnh này, y theo đó tu hành, vĩnh viễn xa lìa được các vọng huyễn.

Ngài Phổ Hiền Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.

Lược Giải

Ðại ý đoạn này là Ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi Phật:

1.Nếu tất cả chúng sanh biết các pháp đều như huyễn thì cần gì phải tu, vì nó là huyễn. Tại sao còn dùng cái huyễn (thân tâm) tu pháp như huyễn làm gì?

2.Nếu chúng sanh chấp là huyễn mà không tu, thì vẫn ở mãi trong sanh tử luân hồi, làm sao được giải thoát?

Xin Phật từ bi chỉ dạy phương tiện tu hành và phải tu tuần tự như thế nào, mới nhập được cảnh giới Viên Giác thanh tịnh?

2. Phật khen Ngài Phổ Hiền

Khi đó Ðức THế Tôn khen Ngài Phổ HIền Bồ tát và dạy rằng:

Này thiện nam, quý lắm! Ông vì vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, hỏi về phương tiện và thứ lớp tu tập pháp môn “như huyễn Tam muội”(1) của Bồ Tát, khiến cho chúng sanh xa lìa các huyễn. Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông khai thị.

___________ 

(1)Chữ “Tam muội” Tàu dịch là “Ðịnh” hay “chánh thọ”. Vi nhiếp tâm chuyên chú một chỗ, không co xao lãng, nên dọi là “Ðịnh” – Ngài Tôn Mật nói: “Rõ thấu thân và tâm đều như huyễn, thầm hiệp với chơn như, như thế gọi là “chánh thọ”.

Nghĩa bóng bóng của chữ “Tam muội”, là chỉ cho công việc làm đã quán thuần thục. Nhưng người niệm Phật, có khi niệm mà có lục lại quên, còn bị các vọng niệm xen tạp, như thế là chưa được tam muội. Bao giờ người niệm Phật, chỉ ròng rặc một niệm Phật thôi (nhứt tâm bất loạn) không có một niệm gì khác xen vào, đi đứng nằm gnồi, bất luận chỗ nào hay lúc này, từ năm này cho đến tháng nọ, cũng vẫn nhớ niệm Phật, như thế gọi là được “niệm Phật tam muội”.

Khi đó, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát và đại chúng đều hoan hỷ, kín cẩn và chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo.

Lược Giải

Văn Thù và Phổ Hiền là hai vị đại Bồ tát, ngài Văn Thù tiêu biểu cho đại trí. Ngài Phổ HIền tiêu biểu cho đại hạnh. Có Ðại trí (căn bản trí) mới phá trừ được căn bản vô minh. Có Ðại hạnh mới hoàn thành được công hạnh của Phật. Người tu hành lúc nào cũng phải đủ cả “Trí và Hạnh”. Có “Trí” mới phá đưọc vô minh và thấu rõ chơn lý. Có “hạnh” mới đạt được chơn lý, hoàn thành quả Phật.

Ðoạn này Phật khen ngài Phổ Hiền bồ tát, vì chúng sanh mà hỏi pháp tu “như huyễn tam muội”

Chúng ta quán các vật đều hư huyễn; nhưng có khi lại thấy là thiệt, như thế chưa đduợc “như huyễn Tam muội”. Bao giờ đi đứng nằm ngồi bất luận gioiò phút nào hay nơi nào cũng đều thấy các pháp hoàn toàn hư huyễn, như thế là chúng ta được pháp “Như huyễn tam muội”. 

3. Phật trả lời cho ngài Phổ Hiền

-Này thiện nam! tất cả các cảnh vật huyễn hóa (thế giới, chúng sanh) của chúng sanh, đều sanh trong tâm Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai. CÁc pháp hư huyễn có diêẹt, mà tánh Viên Giác vẫn không diệt. Cũng như đốm sanh trong hư không, các hoa đốm hư huyễn kia có hoại diệt, mà tánh hư không chẳng hề hoại diệt.

Lược Giải

Hoa đốm là dụ cảnh vật, hư không là dụ Viên Giác. Ðại ý đoạn này là nói các pháp giả dối hư huyễn giữa này, đều sanh trong Viên Giác (chơn tâm). Các pháp hư huyễn diệt mà tâm Viên Giác không diệt. Cũng như cá choa đốm sanh trong hư không, các đốm có diệt mà hư không không diệt. 

4. Phật dạy Pháp Tu để nhập Viên Giác

Khi các huyễn cảnh diệt rồi, thì cái huyễn tâm của hành giả cũng theo đó mà diệt luôn. Ðến khi các huyễn (năng và sở) đều diệt hết, thì cái tâm Viên Giác không vọng động tự hiện.

Bởi đối với vọng huyễn mà nói “Viên Giác” nên Viên Giác cũng trở thành vọng huyễn, vì còn ở trong vòng đối đãi vậy. Ðến cảnh giới này, nếu nói “có viên Giác” thì chưa rời vọng huyễn đã đành, mà nói là “không Viên Giác” thì cũng chẳng rời được vọng huyễn.

Thế nên, các vọng huyễn (có và không) đều phải bị diệt hết rồi, mới gọi là Viên Giác.

Lược Giải

Ðoạn này lý lẽ uyên thâm, có 5 từng:

1.Huyễn cảnh diệt

2.Huyễn tâm cũng diệt

3.Các huyễn (năng, sở) diệt hết, tâm “Viên giác hiện bày.

4.Bởi đối vọng huyễn mà gọi “viên giàc” nên Viên Giác cũng trở thành hư huyễn. Vì còn ở trong vòng dối đãi phân biệt, nên chưa phải là “Viên Giác”.

5.Nếu “chấp có Viên Giác” thì ở trong vòng vọng huyễn mà “chấp không Viên Giác” cũng còn ở trong vòng vọng huyễn. Các vọng huyễn: có, không sanh, diệt, phải chẳng v..v.. đều phải diệt hết rồi, thế mới đúng là “Viên Giác”.

Ðại ý đoạn này nói: “Tánh Viên Giác” (Chơn tâm) không thể dùng lời nói mà luận bàn được, cũng không dùng ý nghĩ mà suy nghĩ được. Nếu vừa móng tâm động niệm, nghĩ thánh nói phàm, cho thế này là vọng, thế kia là chơn, như thế là hãy còn trogn vòng đối đãi, hễ còn đối đãi phân biệt, thì đều là vọng huyễn cả: phải rời hết các vọng huyễn mới đúng là “viên Giác”.

5. Phật dạy Phương pháp ly huyễn

Này Thiện Nam! Tất cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, cần phải xa lìa các việc như sau:

1.Xa lìa các cảnh giới huyễn hóa hư vọng. Nhưng còn cái “Tâm biết xa lìa”

2.Cái “Tâm biết xa lìa” đó cũng là huyễn, nên cũng xa lìa luôn.

3.Cái “xa lìa” đó cũng là huyễn, nên cũng phải xa lìa

4.Cái “lìa cái xa lìa” cũng là huyễn nên cũng phải xa lìa luôn

5.Phải không còn cái gì để “xa lìa” nưa, như t hế mới gọi là trừ được các huyễn.

Tỷ như người kéo lấy lửa, dùng hai miếng củi tre cọ xát nhau; cọ cho đến khi lửa phát ra, trở lại cháy hai miếng tre; cháy đến lúc củi hết, lửa tàn tro bay, bấy giờ chỉ còn đất trống.

Dùng “cái huyễn” tu các “pháp huyễn” cũng thế. Khi các huyễn diệt hết rồi, không phải là dodạn diệt mà lúc bấy giờ tánh Viên Giác tự hiện bày.

Lược Giải

Ðại ý đoạn này nói: người tu hành trước hết phải lìa các huyễn cảnh, sau lìa huyễn tâm; lìa cho đến không còn cái gì để lìa nữa, thế mới là lìa được hết các huyễn. Lúc bấy giờ cái phi huyễn là “viên giác tánh” hiện ra. Như t hế thì “Viên Giác tánh” không phải là đoạn diệt.

Như người kéo lửa (dụ cho tu như huyễn) ban đầu dùng hai miếng củi tre cọ nhau (dụ cho tâm và cảnh), khi lửa phát ra trở lại cháy hết củi đến lúc lửa tàn tro bay (tâm cảnh đều hết), bấy giờ chỉ còn đất trống (dụ cho Viên Giác). 

6. Phật dạy: “Giác Ngộ” không có tuần tự, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện

-Này thiện nam! Khi biết được các pháp hư huyễn, tức là lìa được các huyễn, chớ không cần phải có phương tiện gì khác. Lìa được các huyễn tứ clà “giác” cũng không có lớp lang tuần tự gì.

Tất cả Bồ tát và chúng sanh đời sau, y như thế mà tu hành, mới xa lìa được các huyễn

Lược Giải

Phật dạy người biết được các pháp là hư huyễn thì không còn cố chấp và tham luyến các pháp nữa, tức là lìa được các huyễn rồi, chớ không có phương pháp tu tập nào khác.

Câu này giống như câu trong Kinh Lăng Nghiêm: “Giác mê, mê diệt” (Giác ngộ được cái mê, thì cái mê ấy hết) Cũng như người khi biết mình là chiêm bao, thì không còn chiêm bao nữa.

Lìa được các vọng huyễn, tức thì “Vien Giác” hiện bày, thế nên không có lớp lang từng bực. Dụ như khi ánh sáng đến, thì cái tối liền diệt; tối vừa diệt thì sáng vừa hiện, không có lớp lang từ tự chi hết.

Ðoạn trước Ngài Phổ Hiền có hỏi thức lớp tu pháp môn như huyễn thế nào. Ðến đoạn này Phật trả lời đã xong.

7. Phật Nói Bài kệ Tóm lại các nghĩa

Khi ấy Ðức Thế Tôn muốn tóm lại nghĩa này, nên nói bài kekẹ rằng:

Phổ Hiền! Ông nên biết

Các vô minh huyễn hóa

Của tất cả chúng sanh,

Từ vô thỉ đến giờ,

Ðều sanh trong Viên Giác

Củă các Ðức Như Lai

Cũng như các hoa đốm

Sanh trong thái hư không

Hoa đốm diệt hết rồi,

Hư không vẫn trong tịnh,

Các huyễn từ “Giác” sanh,

Huyễn diệt, “Giác” viên mãn

Viên Giác không vọng động

Các Bồ tát hiện tại

Và chúng sanh đời sau

Thường phải xa lia huyễn.

Xa lìa cho hết huyễn

Như lửa từ cây sanh

Trở lại cháy hết cây;

Lửa tàn tro bay tận.

“Giác ngộ” không tuần tự

“Phương tiện” cũng không cần.

Lược Giải

Ðại ý bài kệ này Phật dạy: Các vôminh vọng huyễn của chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, đều sanh trong tâm Viên Giác của Như Lai. Ðến khi các vô minh vọng huyễn diệt rồi, thì tâm “Viên Giác” hiện ra, khôngc ó tuần tựvà cũng không cần có phương tiện gì khác.

Dụ như hoa đốm sanht rong hư không, khi hoa đốm diệt hết thì hư không tự trong tịnh. Và như lửa từ trong cây sanh, trở lại đốt cháy cây, đến khi củi hết lửa tàn, khói tan tro tận, lúc bấy giờ chỉ còn bầu trời trong suốt.

Lưu Ý

Trong chương Phổ Hiền này, chúng ta nên lưu ý về câu hỏi của Ngài Phổ Hiền và lời đáp của Phật, vì rất quan hệ đến đời tu hành của chúng ta.

Ngài Phổ Hiền hỏi rằng: “Ðã là huyễn thì cần gì phải tu? Tại sao còn dùng thân tâm như huyễn để tu hành như huyễn?” - Ðoạn này chúng ta hiểu lầm, thì không sao khỏi sanh ra những vọng chấp: “Thân huyễn, cảnh huyễn, tu học cũng huyễn v.v...” rồi trăm việc lành đều bỏ xuôi, thật là nguy hiểm vô cùng.

Vậy ta cần phai xét kỹ về đoạn trả lời của Phật. Ðại ý Phật dạy rằng: Tuy biết các pháp là “huyễn” nhưng cần phải tu mới đạt đến chỗ “phi huyễn” (Chơn). Cũgn như: vẫn biết “tiếng gõ bảng” của thầy giáo thì không sao dẹp được hết tiếngồn ào của học trò. Ðến khi hết tiếng ồn ào của học trò thì tiếng gõ bảng cũng không cần nữa.

Tổ sư đã dạy: “hữu vị tuy nguy, xả chi tắc Phật đạo nan thành”; nghĩa là các việc tu hành đều thuộc về hữu vi phá, tuy biết là vọng, nhưng nếu bỏ đi không tu thi khó thành đạo Phật. Cổ nhơn dạy: “Ðạp gai lấy gai mà lể” hay là “phải dùng giặc để dẹp giặc” cũng là nghĩa ấy.

Vẫn biết “Viên Giác” tánh “Không phải huyễn, nhưng muốn nhập viên giác thì phải dùng huyễn để trừ huyễn. Khi các huyễn diệt hết, thì tánh “Viên Giác” mới hiện

Cổ Ðức dạy: “thật tế lý địa bất thọ nhứt trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”, nghĩa là: về chỗ lý tánh chơn thật (Viên Giác) thì khôgn thọ một mảy trần; nhưng về sự tướng tu hành, thì không bỏ một việc nhỏ.

Ðây là một quy tắc từ nghìn xưa. Những vị tu hành được thành đạo quả, không một ai vượtg qua ngoài quy tắc này.

--- o0o ---


Vi tính: Trúc Oanh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2024(Xem: 239)
Cư sĩ Huyền Thanh, thế danh là Nguyễn Vũ Tài, sinh ngày 01/04/1958 tại Thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Thân phụ tên là Nguyễn Vũ Nhan, nguyên quán tại làng Xối Đông, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Thân mẫu tên là Vũ Thị Ni, nguyên quán tại làng Lịch Diệp, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ Nguyễn Vũ Tài đã Quy Y với Hòa Thượng Thích Thanh Chiên, Trụ trì chùa Hải Vân ở khu Ấp Chợ, xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định và được Thầy ban cho Pháp Danh là Huyền Thanh. Năm 1978, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm khoa Toán Lý và đi dạy môn Toán cấp II từ năm 1979 cho đến năm 2003 thì chuyển qua làm công tác Giám Thị ở các trường Trung học Cơ sở Ngô Quyền quận Tân Bình, trường Trung học Cơ Sở Hoàng Hoa Thám quận Tân Bình, và trường Trung học Cơ Sở Nguyễn Gia Thiều quận Tân Bình cho đến khi chấm dứt công tác vào năm 2010.
25/03/2022(Xem: 5029)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 16603)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 31446)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 16925)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 38678)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8195)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 6467)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4435)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
24/05/2019(Xem: 5463)
Sau 12 năm học tập và làm việc tại nước Nga, năm 1995 tôi về Việt Nam và vào làm việc tại công ty FPT. Chân ướt chân ráo chưa hiểu nhiều về công việc và cuộc sống trong nước, may thay tôi được anh Phan Ngô Tống Hưng, lúc đó là phó Chủ tịch HĐQT kiêm phó Tổng giám đốc dẫn đi đảnh lễ Thượng tọa Thích Viên Thành. Và thế là Thượng tọa trở thành người thầy sơ tâm đầu tiên của tôi cho đến ngày Thầy viên tịch năm Nhâm Ngọ -2002. Thượng tọa Thích Viên Thành là Tổ thứ 11 của Tùng Lâm Hương Sơn và luôn là người thầy tôn kính của tôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567