J. Krishnamurti THIỀN ĐỊNH 1969 Nguyên bản tiếng Anh: Meditations 1969 - Lời dịch: Ông Không 2008
THIỀN ĐỊNH – Phần 1
Trong không gian mà tư tưỏng tạo ra quanh chính nó không có tình yêu. Không gian này phân chia con người khỏi con người, và trong nó là tất cả sự trở thành, trận chiến của cuộc sống, nỗi khốn khổ và sợ hãi. Thiền định là kết thúc không gian này, kết thúc cái tôi lệ thuộc. Rồi thì sự liên hệ có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn, bởi vì trong không gian đó mà không bị tạo ra bởi tư tưởng, người khác không hiện hữu, do bởi bạn không hiện hữu. Lúc đó thiền định không là sự theo đuổi của ảo tưởng nào đó, dù được biến thành thiêng liêng bởi truyền thống bao nhiêu chăng nữa. Trái lại nó là không gian bao la nơi tư tưởng không thể thâm nhập. Đối với chúng ta, cái không gian nhỏ xíu bị tạo ra bởi tư tưởng quanh chính nó, mà là cái tôi lệ thuộc, lại rất quan trọng, bởi vì đây là tất cả mà cái trí biết rõ, gắn kết chính nó vào mọi thứ trong không gian đó. Và sự sợ hãi không hiện hữu bị sinh ra trong không gian đó. Nhưng trong thiền định, khi điều này được hiểu rõ, cái trí có thể thâm nhập vào một kích thước của không gian nơi hành động không là hành động. Chúng ta không biết tình yêu là gì, bởi vì trong không gian bị tạo ra bởi tư tưởng quanh chính nó như cái tôi lệ thuộc, tình yêu là sự xung đột của cái tôi lệ thuộc và cái không là cái tôi lệ thuộc. Sự xung đột này, sự hành hạ này, không là tình yêu. Tư tưởng chính là sự phủ nhận tình yêu, và nó không thể thâm nhập vào không gian đó nơi cái tôi lệ thuộc không hiện diện. Trong không gian đó là phước lành mà con người tìm kiếm và không thể tìm ra. Anh ấy tìm kiếm nó trong những biên giới của tư tưởng; và tư tưởng hủy diệt ngây ngất của phước lành này.
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
Trong hiện tại con thấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vui thích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những người không liên hệ. Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến - Lamrim [1]
Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm, chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của người khác trở nên không thể chịu nổi. Vì từ ái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúng sinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũi hay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác.
Phật đã bỏ loài người…(1)
Điệp khúc ấy lâu lâu lại thấy đâu đó trên những đoạn đường đi qua. Nó đếnvà đi như bao chuyện khác trong đời. Chuyện phiếm trong đời quá nhiều, đâu đángbận tâm. Cho đến cái ngày, nó được thổi vào trong thơ của một ai đó như một bài“Thiền ca”… Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng ta ở trình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
Chúng tôi muốn trình bày vài điều để giớithiệu cách thực hành thiền. Như đa số mọi người, từ người phương Tây đến ngườiÁ châu, đều rất hâm mộ thiền định, bởi vì bị lôi cuốn bởi sự thực hành và đạtđược nhiều lợi lạc từ đó. Tuy nhiên, dù rất nhiều người áp dụng thiền trong đờisống, nhưng chỉ có một số ít là hiểu được sâu xa mục đích của thiền.
Chúng ta sống, quay cuồng trong cuộc đời, cuối đời còn muốn kéo dài tuổi thọ. Nhưng có khi nào chúng ta dừng lại , suy nghĩ, bình tỉnh lại để tự hỏi mình sống để làm gì ? Ý nghĩa cuộc đời là gì ?
Nhiều người nói thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa học và Thiền quán.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.