Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III. Tại sao nhà thiền nhấn mạnh chỗ chẳng biết?

20/04/201113:17(Xem: 8952)
III. Tại sao nhà thiền nhấn mạnh chỗ chẳng biết?

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

MỘT CÁI BIẾT SUỐT CẢ XƯA NAY

III. TẠI SAO NHÀ THIỀN NHẤN MẠNH CHỖ CHẲNG BIẾT?

Qua những điểm trình bày trên đây cho thấy rõ, từ kinh đến thiền đều không chối bỏ cái Biết hiện hữu, nhưng tại sao trong nhà Thiền có lúc lại không cho biết ? Hoặc chê trách Hiểu Biết ?

  • MẮT PHẬT CŨNG CHẲNG THẤY

Chẳng hạn nhà thiền bảo rằng: “Chỗ đó mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy”. Mắt Phật còn nhìn chẳng thấy, chúng ta làm sao thấy biết?
Như ngài Đơn Hà đến Quốc sư Huệ Trung, gặp thị giả Đam Nguyên liền hỏi:
- Quốc sư có ở nhà chăng?
Thị giả đáp:
- Ở thì có ở mà chẳng thấy khách.
Đơn Hà bảo:
- Rất là sâu xa thay!
Thị giả nói:
- Mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy.
Hỏi: “Quốc sư có ở nhà chăng?” Đáp: “Ở thì có ở mà chẳng thấy khách.” là sao? Đây là một câu hỏi mà hai ý. Tức Quốc sư đang ngủ, ngủ thì đâu tiếp khách, tiếp duyên. Nhưng chính chỗ không đối duyên, không tiếp khách, đó là gì ? Đó là chủ trong chủ, chỗ đó đâu có dấu vết gì thấy được ? Nên Đơn Hà bảo: “Rất sâu xa thay!”, tức thật khó thấy. Song ông thấy sao mà khen? Thị giả này đâu dễ dàng để cho ông dòm thấy được, vì đó không phải là chỗ bị thấy, có thấy được tức có khách rồi. Do đó thị giả nói: “Mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy”, nói gì sâu cạn! Tuy nhiên trong đây vẫn còn ló đuôi. Đã bảo mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy, sao ông biết mà nói là: “Ở thì có ở mà chẳng thấy khách”? Và sao ông biết mà trả lời: “Chỗ đó mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy”? Người học thiền phải thấu qua chỗ này, chớ không thể dừng ở trên lời “chẳng thấy” kia.

  • NGÀN THÁNH CHẲNG BIẾT

Hoặc có lúc trong nhà thiền bảo rằng: “Chỗ đó ngàn Thánh cũng chẳng biết?”
Như Dược Sơn một hôm ngồi trên tảng đá, Hòa thượng Thạch Đầu trông thấy hỏi:
- Ông ở đây làm gì?
Sư thưa:
- Tất cả chẳng làm.
Thạch Đầu hỏi:
- Tại sao ngồi yên?
Sư đáp:
- Nếu ngồi yên tức làm.
Thạch Đầu hỏi:
- Ông nói chẳng làm, là chẳng làm cái gì?
Dược Sơn đáp:
- Ngàn Thánh cũng chẳng biết.
Hòa thượng Thạch Đầu hỏi: “Làm gì?” là muốn gạn xem Dược Sơn có niệm gì chăng? Trong lòng Sư còn có vấn đề gì không? Nếu chúng ta đáp làm cái này, làm cái nọ là nguy rồi! Dược Sơn quả thực trong lòng rỗng rang vô sự nên đáp: “Tất cả chẳng làm”, tức không một niệm gì khác chen vào trong ấy. Tuy nhiên Thạch Đầu chưa chịu còn gạn lại: “Tại sao ngồi yên?” Đã vô sự thì ngồi yên để làm gì? Đó là ngồi rỗng suông vô ích chăng? Ở đây Dược Sơn có chỗ sống chân thật nên đáp rõ ràng: “Ngồi yên tức làm”. Chính chỗ ngồi yên dứt hết mọi duyên đó, là chỗ sống chân thật, không phải ngồi suông. Tuy vậy cũng chưa xong, Thạch Đầu còn gạn tiếp: “Chẳng làm cái gì?” Chỗ này dễ chết như chơi. Ông nói ngồi yên chẳng làm là chỗ sống chân thật của ông, nhưng trong đó đâu là chỗ chẳng làm? Nếu còn thấy một chỗ chẳng làm, tức bị người thấy rồi, Dược Sơn đã thực sự sống trong ấy, không để hở cho người ngoài dòm lén nên đáp chắc nịch: “Ngàn Thánh cũng chẳng biết”. Song đã bảo ngàn Thánh cũng chẳng biết, sao ông lại biết mà trả lời ? Cũng ló đuôi nữa rồi! Người mắt sáng phải thấy thấu qua lời chẳng biết đó, không thể một bề nghe nói chẳng biết, hiểu là chẳng biết, thì vẫn còn ở ngoài cửa.

Một dịp khác ngài Đạo Ngộ hỏi Hòa thượng Thạch Đầu:
- Ý chỉ Tào Khê người nào được?
Thạch Đầu đáp:
- Người lãnh hội Phật pháp được.
Đạo Ngộ hỏi:
- Thầy được chăng?
Thạch Đầu đáp:
- Ta chẳng hội Phật pháp.

Lạ chưa ?Tại sao ở người lãnh hội thì được, còn Sư lại chẳng lãnh hội ? Bởi, với người chưa lãnh hội nên cần lãnh hội, còn Sư đã lãnh hội rồi, lại lãnh hội thêm cái Phật pháp gì nữa? Còn thấy có cái Phật pháp để lãnh hội, tức y nguyên chưa lãnh hội. Tuy nhiên Sư bảo chưa lãnh hội, song cái gì biết chẳng hội? Thế là Sư cũng hết giấu giếm được!

Hoặc như vua Lương hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma:
- Đối trẩm là ai?
Tổ đáp:
- Chẳng biết.
Nói chẳng biết vậy ai đáp đó? Chính đây là chỗ thầm kín, nếu người đừng ngoài cửa mà phê bình, chỉ trích thế nào chăng nữa vẫn không dính dáng. Đây là muốn đưa người thẳng vào chứng nghiệm. Cho nên, nói chẳng biết mà không phải là không biết gì, là phá bỏ cái biết thành như gỗ đá. Vì thể biết thì ai phá được? Đem cái gì phá? Chính Tổ Huệ Khả đã xác nhận với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma:
- Con từ đây dứt hết các duyên.
Tổ Đạt Ma bảo:
- Chớ rơi vào đoạn diệt!
Sư thưa:
- Chẳng rơi.
Tổ Đạt Ma bảo:
- Con làm thế nào?
Sư thưa:
- Rõ ràng thường biết nói không thể đến.
Tổ Đại Ma bảo:
- Chính đây là chỗ truyền của chư Phật, chớ nên nghi ngờ!

Quả thực, tuy dứt hết các duyên không chỗ bám, nhưng trong ấy không phải ngu ngơ không biết gì, trái lại vẫn sáng ngời: “RÕ RÀNG THƯỜNG BIẾT, chỉ là NÓI KHÔNG THỂ ĐẾN ”. Bởi vì chỗ đó ngôn ngữ không thể nói tới, thức tình suy nghĩ cũng không thể thể suy tới, nghĩ tới. Đơn giản: vì nó không phải là cái Bị Biết !

Đây chính là chỗ đồng tử Thiện Tài lên ngọn Diệu Phong tìm Tỳ kheo Đức Vân suốt bảy ngày mà không thấy. Qua bảy ngày liền thấy Tỳ kheo Đức Vân ở bên Biệt Phong, tức ngọn núi khác. Song Tỳ kheo Đức Vân từ lâu vẫn chưa từng xuống núi. Đó là điểm thực khó hiểu! Tại sao đã lên Diệu Phong mà không thấy Đức Vân? Đức Vân chưa từng xuống núi bao giờ, sao lại thấy ở Biệt Phong? Chỗ này đem thức tình suy nghĩ để hiểu được chăng? Bởi Diệu Phong là chỉ chỗ chân thật cứu cánh không hai. Trên đó vốn không có hai kẻ cùng lúc. Có Đức Vân thì không có Thiện Tài. Có Thiện Tài thì không có Đức Vân. Nếu ở trên đó Thiện Tài gặp Đức Vân thì thành có hai người, có chủ có khách đối đãi, tức bị người ngoài trong thấy rồi, đâu còn gọi là Diệu Phong? Nhận thấu chỗ này, chính là chỗ sống vĩnh viễn, còn bao nhiêu thứ ở thế gian đều có lúc phải bỏ lại, không phải là chỗ nương tựa lâu nay. Người học Phật phải mở con mắt này. Chưa mở con mắt này, dù lý luận cao siêu cách mất, vẫn còn xa với đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2012(Xem: 3687)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 5725)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 8454)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 14137)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 12471)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8342)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 11597)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 13958)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3015)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
19/06/2012(Xem: 8733)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567