Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Một mùi vị duy nhất

02/04/201101:41(Xem: 4081)
4. Một mùi vị duy nhất

KINH NGHIỆM THIỀN QUÁN
Tác giả: Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

I. Con đường tu tập

Một mùi vị duy nhất

Giác ngộ đến chậm (tiệm) hay nhanh (đốn)? Có biết bao trường phái Phật giáo khác nhau đã phát sinh vì vấn đề này. Nhưng theo tôi thì sự giác ngộ vừa chậm mà cũng vừa nhanh, vì cả hai hoàn toàn không hề đối nghịch nhau.

Giác ngộ bao giờ cũng xảy ra nhanh và đột ngột. Khi điều kiện đầy đủ, nhân duyên thuận lợi, nó sẽ xảy ra. Nhưng con đường tu tập dẫn đến giây phút ấy thì bao giờ cũng chậm chạp và đều đặn. Chúng ta thực hành, chúng ta vun xới, bón phân cho thửa đất tâm, rồi một ngày bỗng nhiên tự nó sẽ bừng mở. Và rồi sau giây phút đốn ngộ, một lần nữa ta lại tiếp tục con đường tiệm tu để tâm giác ngộ được thêm chín muồi.

Đức Phật đã nói rõ với chúng ta rằng, tự tính của tâm là thanh tịnh nhưng vì mải mê chạy theo vọng cảnh bên ngoài mà nó trở thành nhơ uế. Đức Phật dạy: “Tâm ta lúc nào cũng sáng chói, rực rỡ và toả chiếu, nhưng nó bị vẩn đục vì những bợn nhơ đến từ bên ngoài. Nhờ dẹp sạch và bứng nhổ hết gốc rễ của những bợn nhơ này mà tâm ta được giải thoát.”

Trong mọi truyền thống Phật giáo, phương pháp tu tập tuy có đổi thay, nhưng cốt tủy giáo lý của Đức Phật - về tự tính của khổ đau và ý thức giải thoát - thì bao giờ cũng chỉ có một. Bất cứ nơi nào Phật giáo truyền đến, sẽ phát sinh vô số hình thức tu tập khác nhau: Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Tích Lan (Sri Lanka), Kampuchia, Việt Nam... và nhiều nơi khác nữa. Ngài Munindra-ji có lần bảo tôi rằng, chỉ riêng ở Tích Lan ngài đã biết được đến hơn năm mươi phương pháp thiền quán khác nhau.

Thế nên ta đừng để bị kẹt vào quan niệm rằng chỉ có một con đường đúng duy nhất, hay chỉ có một phương pháp để tu tập Phật pháp mà thôi. Sự giải thoát và lòng từ bi phải luôn luôn là tiêu chuẩn cho mọi phương pháp tu tập. Còn tất cả những điều khác chỉ là phương tiện được vận dụng mà thôi. Trên con đường tu tập ta sẽ có biết bao nhiêu kinh nghiệm khác nhau. Ngay khi ta dừng lại ở một giai đoạn nào và nghĩ rằng “chính là nơi đây,” thì ta đã đánh mất đi sự nhiệm mầu của tính không rồi. Ta vô tình tạo thêm một quan điểm tuy mới nhưng cũng đầy thành kiến như mọi quan điểm khác.

Một vị thầy của tôi có nói một điều mà tôi thấy có thể áp dụng cho mọi phương pháp tu tập và mọi quan điểm: “Trừ khi một phương pháp có thể làm dịu mát đi ngọn lửa tham, sân, si, bằng không thì nó chỉ hoàn toàn vô dụng.” Ta nên lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc cho nhưng việc mình làm.

Một điều rất may mắn cho Phật pháp ở Tây phương là cơ hội để những người tu theo mọi truyền thống khác nhau có thể gặp gỡ và học hỏi lẫn nhau. Mỗi truyền thống lớn - như là Theravada (Nam tông), Mahayana (Bắc tông) và Vajrayana (Phật giáo Tây Tạng) - đều có biết bao điều hay đẹp để dâng tặng chúng ta. Như Đức Phật đã nói: “Phật pháp chỉ có mỗi một mùi vị duy nhất là mùi vị giải thoát mà thôi.”

Đối với tất cả chúng ta, sự thực hành luôn là chìa khóa của vấn đề. Có một câu chuyện rất lý thú về ngài Milarepa, một đại sư Tây Tạng. Vào cuối đời, ngài Milarepa chọn một người đệ tử thân tín nhất theo ngài đến một sườn núi xa xôi để trao truyền giáo pháp bí mật. Với tất cả tấm lòng chân thành và kính tin, người đệ tử cầu xin thầy truyền dạy pháp tu bí mật ấy. Ngài Milarepa cúi xuống, vạch mông ra và chỉ vào vết chai như da thuộc sau nhiều năm công phu ngoi thiền. Pháp tu bí mật của ngài chỉ có thế!

Mỗi người chúng ta đều trải qua những giai đoạn tu tập khác nhau. Sẽ có lúc ta cảm thấy tràn đầy năng lực, sẵn sàng tham dự những khóa tu thinh lặng và triệt để, có khả năng giúp ta quân bình tâm ý và mở ra những mức độ tâm linh mới. Rồi cũng có lúc ta cảm thấy như mất hết sinh lực, chán chường, không còn hăng hái tham dự những khóa tu tích cực như xưa. Vòng chu kỳ tròn khuyết, đầy vơi này có thể xảy ra sau một vài năm, hoặc vài tháng, hay có khi chỉ sau chừng vài ngày tu tập tích cực. Chu kỳ ấy thay đổi tùy theo trình độ tiến triển và hoàn cảnh riêng của mỗi người.

Tôi có biết một thiền sinh Tây phương sang Á châu tập thiền. Sau nhiều tháng, sự tu tap của anh ta đạt đến một giai đoạn khá chín chắn, nhưng không hiểu vì sao anh không thể tiến xa hơn nữa. Khi vị thầy hỏi thăm về tình trạng gia đình anh, anh nói lên một ý muốn mãnh liệt, muốn về thăm gia đình. Vị thầy khuyên anh nên thực hiện điều ấy. Sau khi gặp lại gia đình, tâm anh không còn bị sự mong muốn làm ngăn ngại nữa. Cuối cùng anh trở lại và hoàn tất khóa tu tập ấy.

Bạn hãy cẩn thận, đừng bao giờ có một quan niệm cứng ngắc nào về sự phát triển tu tập. Sẽ có lúc ta thích được ngồi quán chiếu tâm mình trong một hoàn cảnh thinh lặng yên tĩnh của môi trường tu học. Rồi cũng có lúc ta sẽ không cảm thấy sự tịch liêu ấy là cần thiết cho tu tập. Hay theo nhịp xoay của chu kỳ một cách thật tự nhiên và thư thả. Nếu vấn đề giải thoát là một hoài bão, khát khao của bạn, thì những thời gian tu tập tích cực sẽ rất là cần thiết và vô giá. Chúng có thể đem lại cho bạn năng lực, sức mạnh và trí tuệ vô cùng tận. Nhưng cũng có lúc vòng xoay đưa ta trở lại với cuộc sống hằng ngày. Vào giai đoạn này, ta sẽ có cơ hội để phát triển và thực tập những đức tính như rộng lượng, chân thật và từ bi nhiều hơn khi đang trong những khóa tu. Và những đức tính ấy sẽ trở lại hỗ tương và giúp ích cho ta rất nhiều trong những giai đoạn tu thiền tích cực.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2012(Xem: 5845)
Trong hiện tại con thấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vui thích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những người không liên hệ. Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến - Lamrim [1] Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm, chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của người khác trở nên không thể chịu nổi. Vì từ ái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúng sinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũi hay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác.
15/01/2012(Xem: 6730)
Phật đã bỏ loài người…(1) Điệp khúc ấy lâu lâu lại thấy đâu đó trên những đoạn đường đi qua. Nó đếnvà đi như bao chuyện khác trong đời. Chuyện phiếm trong đời quá nhiều, đâu đángbận tâm. Cho đến cái ngày, nó được thổi vào trong thơ của một ai đó như một bài“Thiền ca”… Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
21/12/2011(Xem: 11955)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng ta ở trình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
13/12/2011(Xem: 8855)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
22/10/2011(Xem: 3184)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánh là thực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
22/10/2011(Xem: 3423)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạo lí giác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
20/10/2011(Xem: 3765)
Chúng tôi muốn trình bày vài điều để giớithiệu cách thực hành thiền. Như đa số mọi người, từ người phương Tây đến ngườiÁ châu, đều rất hâm mộ thiền định, bởi vì bị lôi cuốn bởi sự thực hành và đạtđược nhiều lợi lạc từ đó. Tuy nhiên, dù rất nhiều người áp dụng thiền trong đờisống, nhưng chỉ có một số ít là hiểu được sâu xa mục đích của thiền.
17/10/2011(Xem: 5291)
Chúng ta sống, quay cuồng trong cuộc đời, cuối đời còn muốn kéo dài tuổi thọ. Nhưng có khi nào chúng ta dừng lại , suy nghĩ, bình tỉnh lại để tự hỏi mình sống để làm gì ? Ý nghĩa cuộc đời là gì ?
13/10/2011(Xem: 5349)
Nhiều người nói thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa học và Thiền quán.
02/10/2011(Xem: 6702)
Hôm nay chúng tôi giảng về Sự tương quan giữa Bát-nhã và Thiền tông. Đề tài này hơi cao, quí vị chịu khó lắng nghe kỹ mới thấy giá trị của đạo Phật. CácThiền viện của chúng tôi trước khi sám hối phải tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Sau khi xả thiền cũng tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Nhiều người hỏi tại sao không tụng kinh khác mà lại tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát-nhã Tâm Kinh là một bài kinh rất thiết yếu cho người tu Phật, chẳng những tu Thiền mà tu Tịnh, tu Mật đều quí cả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567