Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý Nghĩa Khoa Học của Tư Thế Hoa Sen

17/09/201016:19(Xem: 7380)
Ý Nghĩa Khoa Học của Tư Thế Hoa Sen

Thiền là những hình thức tập trung tưtưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức đểthể nhập vào chân tánh thanh tịnh. Điều cơ bản nhất của quá trình hànhthiền là luôn tỉnh giác, quan sát, để biết được điều gì đang xảy ra nơithân và tâm. Tuy nhiên, do nghiệp lực thôi thúc hoặc do áp lực của cuộcsống hiện đại, việc gìn giữ chánh niệm trong cả bốn oai nghi: đi, đứng,nằm, ngồi, thường không dễ dàng. Do đó, bên cạnh việc duy trì một chếđộ ăn uống, sinh hoạt và giao tiếp thích hợp, thì việc dành ra nhữngthời khắc nhất định trong ngày để thực hành tọa thiền với tư thế kiếtgià (hoa sen) cũng là một trợ duyên có nhiều ý nghĩa.

Về mặt khoa học, những thí nghiệm vềyoga cho thấy chỉ cần ngồi vào tư thế kiết già, dù ta không cố gắng tậptrung tư tưởng vẫn có một sự thay đổi sóng não từ nhịp beta khoảng 20chu kỳ/giây xuống nhịp alpha khoảng 8 chu kỳ/giây. Nhịp alpha là sóngnão của một người đang trầm tĩnh và minh mẫn, tâm lý ổn định. Điều nàycó ý nghĩa là tự thân tư thế kiết già đã có công năng làm êm dịu thầnkinh, một yếu tố quan trọng dể dẫn dắt người tập dễ đi đến tình trạngthư giãn, nhập tĩnh.

Kết quả trên cũng phù hợp với những lýluận và thực tế lâm sàng của y học châm cứu cổ truyền về huyệt tam âmgiao, khi biết rằng ở tư thế kiết già xương mác của một chân đã tạo mộtsức ép khá mạnh lên đúng vị trí của huyệt tam âm giao của chân còn lại.Điều này có ý nghĩa là trong suốt thời gian ngồi kiết già, huyệt tam âmgiao liên tục được kích hoạt. Ở những người thường ngồi tư thế này, sứcép tạo ra một dấu ấn trên mặt da tại vùng huyệt trông giống như một vếtthương cũ đã lành. Huyệt tam âm giao ở chỗ lõm bờ sau xương chày. Đốivới người có tầm vóc trung bình, huyệt ở trên mắt cá chân khoảng 6 đến6,5cm. Được gọi là tam âm giao vì huyệt là giao điểm giao hội của bađường kinh âm: túc thái âm tỳ, túc thiếu âm thận và túc quyết âm can.Theo quan niệm chỉnh thể của y học phương đông, một tạng hoặc một phủkhi phát sinh bệnh biến sẽ có biểu hiện trên đường tuần hành của đườngkinh đi qua nó. Ngược lại ta cũng có thể thông qua những huyệt vị trênđường kinh để điều chỉnh những rối loạn bệnh lý của các tạng phủ bêntrong. Ở đây là can thận chủ hạ tiêu, tỳ chủ trung tiêu. Do đó, khi tácđộng vào huyệt tam âm giao ta có thể điều chỉnh toàn bộ quá trìnhchuyển hóa, hấp thu và bài tiết ở khu vực này. Đặc biệt là tác dụng“dưỡng âm kiện tỳ” và “sơ tiết can khí” của huyệt. tác dụng này giúptái lập cân bằng nội tiết, nội tạng và điều hòa thần kinh giao cảm.Chính điều này giúp an định cả thân và tâm trong quá trình hành thiền.

Việc kính hoạt vào huyệt tam âm giaocủa tư thế kiết già còn làm sáng tỏ thêm một nghi vấn khác. Đó là ở tưthế này chân hữu chồng lên chân tả hay ngược lại, chân tả phải chồnglên chân hữu? Trên thực tế, hệ thống kinh lạc ở hai bên thân thể, bênphải và bên trái có tính tương đồng và đối xứng nhau. Do đó, thì ngồicách nào thì một trong hai huyệt, hoặc tam âm giao phải hoặc tam âmgiao trái sẽ được tác động. Hơn nữa, tam âm giao là một trong số ít cáchuyệt vị có tính tự điều chỉnh rất cao. Dù kích thích vào huyệt theocách nào, lâu hay mau, bên phải hay bên trái, thì hiệu ứng mang lại vẫnlà cải thiện, là điều chỉnh để tiến tới hòa hợp và cân bằng. Do đó, tùytheo sở thích hoặc thói quen của mỗi người, cả hai cách ngồi trên đềumang lại kết quả tốt cho việc hành thiền.

Source: phoquang.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2012(Xem: 15161)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
17/11/2012(Xem: 4173)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 6311)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 9338)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 16246)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 14678)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8840)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 12574)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 15468)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3451)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]