Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

PHẦN V. GIÁO LÝ

03/10/201007:06(Xem: 6885)
PHẦN V. GIÁO LÝ

PHẦN V. GIÁO LÝ

211. Phật Giáo là gì?

- Danh từ Phật Giáo xuất phát từ chữ Phạn Buddhi,có nghĩa là tỉnh thức,giác ngộ.Phật Giáo vì vậy có nghĩa là triết lý tỉnh thức,đạo lý giác ngộ. Đạo lý này do Siddhata Gautama khai triển sau khi ngài đắc đạo,giác ngộ năm ngài 35 tuổi cách đây trên 2,500 năm.

212. Phật Giáo là một triết học?

- Danh từ Triết học xuất phát từ chữ Hi Lạp gồm hai phần Philo có nghĩa là Tình thương và Sophia có nghĩa là Trí tuệ.Triết học vì vậy có nghĩa là yêu mến trí tuệ hay tình thương và trí tuệ. Đó là triết lý Phật.Tuy nhiên đạo lý triển khai lòng từ bi và ánh sáng trí tuệ để mọi người đều là bằng hữu không phải chỉ là một triết học mà là siêu triết học.

213. Cho em biết sơ qua những đặc điểm của Phật Giáo.

- Phật Giáo là một tôn giáo đầu tiên trên thế giới đã truyền bá ngoài biên cương Ấn Độ,xứng đáng một tôn giáo hoàn vũ.

- Phật Giáo là một tôn giáo sử dụng phương pháp phân tích,tìm hiểu ý nghĩa và chân tướng của cuộc sống con người và vũ trụ.

- Phật Giáo với bản chất hoằng truyền,với tổ chức tự viện đã tạo được một tổ chức Tăng Già rất dân chủ.

- Phật Giáo trong tinh thần khế lý,khế cơ là một tôn giáo hài hòa,không cố chấp,không cứng nhắt,uyển chuyển vận hành.

- Trong tiến trình phát triển Phật Giáo không hủy diệt phong tục,tập quán,văn hóa địa phương,không gây tang tóc cho những người khác tín ngưỡng.

- Phật Giáo đặt nặng trọng tâm vào con người.Theo Phật Giáo con người làm chủ cho số phận của mình,con người là nơi nương tựa của chính mình.Phật dạy:Chư Phật chỉ là người chỉ đường,chính con người mới có thể đi trên con đường đạo,chính con người mới hoàn thành lộ trình giải thoát của mình.

- Đức Phật khuyên hàng Phật tử phải suy nghĩ,chiêm nghiệm trước khi tin vào giáo lý Phật.Nói một cách khác Phật Giáo quan niệm con người có khả năng,có tự do phán xét,lựa chọn.

- Phật Giáo chú trọng đến vấn đề thực tiễn,không đặt nặng vào những địa hạt trừu tượng mà ngài cho là“hý luận”(luận bàn để mà chơi,làm trò giải trí,làm thỏa mãn hay đề cao trí thức hiểu biết).

- Đức Phật là một đấng giáo chủ tôn giáo duy nhất trên thế giới không nhờ sức lực của thần linh,không lấy danh nghĩa thần linh mà có thể truyền bá chánh pháp khắp nơi trên thế giới.

- Đức Phật là đấng giáo chủ tôn giáo duy nhất xác nhận tất cả những ai đạt đến từ bi,trí tuệ tuyệt đối đều sẽ được thành Phật như ngài qua câu nói:“Ta là Phật đã thành,chúng sanh là Phật sẽ thành.”

- Đạo Phật không nhờ đạo quân hùng hậu hay đoàn thương thuyền giúp đỡ vẫn có thể truyền bá khắp nơi.Tinh thần hài hòa,dung hợp là kim chỉ nam cho các nhà hoằng truyền chánh pháp.

214. Phật xuất gia bỏ vợ, bỏ con như vậy có phải thiếu tinh thần trách nhiệm đối với gia đình?

- Thái Tử Tất Đạt Đa(Siddhartha)con vua Tịnh Phạn(Suddhodana)năm 16 tuổi lấy công chúa Gia Du Đà La(Yasodhara hay Bimbadevi hay Bhaddhacana),có đứa con đầu lòng và duy nhất tên là La Hầu La(Rahula).

- Không phải là chuyện dễ khi Thái Tử Tất Đạt Đa rời hoàng cung,rời vợ con thân thuộc vào rừng tìm đạo Chắc chắn ngài đã đắn đo,gạt bỏ mọi quyến luyến, để cuối cùng ra đi.Ngài phải lựa chọn giữa hai đường:gia đình,vương vị hay hiến trọn đời mình cho nhân loại.Cuối cùng,vì lòng từ bi vô lượng ngài đã chọn con đường thứ hai,nhờ đó mà thế giới được thừa hưởng ánh sáng nhiệm mầu,nhờ sự hi sinh không bờ bến ấy mà nay chúng ta có một đạo pháp vô thượng dắt đường,chỉ lối.Đây không phải là hành động vô trách nhiệm mà là một hi sinh,dâng hiến cao cả.

215. Phật đã nhập diệt cách đây trên 2500 năm, làm sao Ngài có thể giúp đỡ chúng ta?

- Farady người phát minh điện đã qua đời nhưng phát minh của ông ấy vẫn giúp đỡ chúng ta.

- Luis Pasteur người khám phá ra nhiều phương thuốc trị bệnh đã qua đời, nhưng những khám phá của ông còn giúp đỡ chúng ta.

- Leonard da Vinci nhà danh họa đã sáng tác ra những họa phẩm lừng danh tuy đã qua đời,nhưng những gì ông sáng tác vẫn mang lại niềm cảm hứng,niềm vui vô tận.

- Các bậc anh hùng,các nhà thiền đức dầu đã khuất bóng cách đây hàng thế kỷ,nhưng những hành hoạt,thành tựu của họ vẫn là chất xúc tác cho chúng ta.

- Vâng, Đức Phật đã nhập diệt cách đây trên 2,500 năm nhưng giáo lý của ngài vẫn giúp nhân loại,nếp sống của ngài vẫn là gương sáng cho nhân loại,lời dạy của ngài vẫn có năng lực thay đổi đời sống con người.Chỉ có Phật mới có quyền năng như vậy sau bao nhiêu thế kỷ.

216. Nói đến quyền năng, Đức Phật phải chăng là một đấng thần linh, một chúa trời tạo thiên lập địa?

- Không,Đức Phật không phải như vậy.Ngài không bao giờ nói Ngài là Đức Chúa Trời,Con của Đức Chúa Trời hay là Thông Sứ của Chúa.Trời,theo vũ trụ quan Phật Giáo là một trong Ba Cõi(Dục Giới,Sắc Giới,Vô Sắc Giới),Sáu Đường(Thiên nhân,a tu la, địa ngục,ngạ quỷ,súc sinh).Người sống trên trời vẫn chịu cảnh sinh tử luân hồi.

- Đức Phật là người thoát ra khỏi cảnh giới Ta Bà,là người đã giác ngộ và dạy cho chúng ta biết nếu chúng ta theo gương Ngài,chúng ta cũng được giác ngộ như Ngài,cũng có thể vượt qua biển sinh tử luân hồi,khỏi cảnh giới Ta Bà.

- Ngài là người chỉ đưởng,khai lộ tiến trình giải thoát.

217. Nói về Tam Giới, như vậy Đạo Phật cũng tin vào thiên đường, địa ngục như Cơ Đốc Giáo?

- Trong ý nghĩa thưởng phạt đạo đức hai bên giống nhau nhưng trên nhận định,giáo nghĩa hoàn toàn khác biệt.Thiên đường Cơ Đốc là phần thưởng vĩnh cửu và địa ngục Cơ Đốc là phần phạt muôn đời.Phật Giáo quan niệm địa ngục giới cũng như thiên giới đều vô thường biến đổi,giống như cảnh giới điều kiện hóa khác.

- Phật Giáo không quan niệm một hành vi ác trong giây lát hay ngay cả trong cuộc đời ngắn ngủi lại phải bị trừng phạt kiếp này qua kiếp khác vô thời hạn.Bản tính của con người không phải luôn luôn ác,do đó không có lý do gì phải đọa địa ngục vĩnh cửu.Cũng như vậy,một hành động thiện trong giây lát hay suốt của cuộc đời ngắn ngủi cũng không thể được phần thưởng thiên đường vĩnh cửu.

- Hơn nữa thưởng,phạt,thiên đường, địa ngục là kết quả của ý chí và hành động của con người chứ không phải do tính bất thường của Đấng Bề Trên giáng xuống.

- Quy luật đạo đức đi theo diễn trình thiên nhiên, đạo Phật gọi là Luật Nhân Quả. Điều này rất quan trọng,vì nếu Đấng Bề Trên có đầy đủ vạn năng,có thể rửa sạch tội ác mà nếu không thi hành quyền vạn năng ấy,thì công lý của Đấng Bền Trên chẳng qua chỉ là một danh từ khác cho sự trả thù.

- Đối với Phật Giáo chính hành động thiện ác là quan tòa tuyên án.Chính cá nhân có những hành động ấy đưa họ lên thiên đường hay đẩy họ xuống địa ngục và cũng chính cá nhân ấy có thể cứu họ khỏi cảnh địa ngục hay kéo họ ra khỏi cảnh giới thiên đường.

218. Nếu Đức Phật không phải là một thiên thần vạn năng, tại sao dân chúng cúng vái, cầu khẩn, thờ tự, bái lạy Ngài?

- Có nhiều cách bái lạy,cúng vái.Có người cầu khẩn thánh thần,bái lạy thánh thần,dâng hiến cống phẩm cho thần thánh để cầu ban phước lành,rửa sạch tội lỗi.Người Phật tử không cầu khẩn,bái lạy kiểu này.

- Hình thức bái lạy,kính ngưỡng khác diễn đạt lòng yêu quý,kính trọng như khi giáo sư vào phòng học ta đứng dậy,khi gặp những bậc trưởng thượng ta chấp tay kính chào,khi gặp nhân viên chính quyền ta cung kính bắt tay,khi nghe bài quốc ca ta đứng dậy nghiêm chỉnh chào.Đây là cung cách tỏ bày lòng tôn trọng,kính ngưỡng.Đây là phương thức bái lạy của người Phật tử.

- Hình tượng Phật ngồi trên tòa sen thế kiết già,tay bắt ấn hay để trên đùi,miệng mỉm cười hoan hỷ,thanh thoát giúp ta cố gắng phát triển tâm từ bi,thanh tịnh trong ta.Hàng ngày ta đọc bài Tam Tự Quy:tự quy y Phật,quy y đức Phật trong ta,hoan hỷ,không ai bắt buộc quy y Phật ngoài ta;tự quy y Pháp,quy Chánh Pháp trong tâm ta,hoan hỷ không ai bắt buộc quy y theo chân lý tiềm tàng trong ta;tự quy y Tăng,quy y Thánh Chúng trong ta,hoan hỷ không ai bắt buộc nương vào cộng đồng Tăng Già hướng dẫn tiến tu trong tâm ta.

- Làn hương nhắc ta ảnh hưởng đạo đức tràn lan khắp nơi, ánh sáng thắp trên bàn Phật nhắc ta ánh sáng trí tuệ và những bông hoa cúng Phật nở đó,tàn đó,tươi đó,héo đó nhắc ta ý nghĩa vô thường của cuộc đời.

- Khi ta cúi đầu bái lạy,ta bày tỏ lòng kình ngưỡng đối với Phật đã đem ánh sáng nhiệm mầu dạy cho chúng ta;đối với pháp đã cung cấp cho ta lộ trình đi đến giác ngộ,giải thoát;đối với Tăng đã hướng dẫn ta đi đúng lộ trình giác ngộ.Đó là đặc tính bái lạy của Phật Giáo.

219. Có người cho Phật Tử sung bái ngẫu tượng (idol), thờ cúng thần linh?

- Cách nói này chứng tỏ họ không biết gì về Phật Giáo.Tự điển định nghĩa chữ Idol tiếng Anh là ngẫu tượng được cúng bái như vị thần.Như đã nói trên đức Phật không phải là thần,hay thiên thần,hay chúa trời thì làm sao Phật tử lại xem cục gỗ hay một tụ thể kim loại là thánh thần.

- Tất cả tôn giáo đều dùng biểu tượng để diễn đạt quan điểm giáo lý hay tín nghĩa.Trong Mật Thừa âm dương được sử dụng,tượng trưng cho sự hòa hợp của hai cá thể đối nghịch.Trong đạo Sikh,cây kiếm tượng trưng cho sự đấu tranh tâm linh.Trong Cơ Đốc Giáo con cá tượng trưng cho sự hiện hữu của Chúa và cây thập tự tượng trưng cho sự hi sinh,cứu rỗi.Với Phật Giáo,tượng Phật là tượng trưng cho sự trọn vẹn hoàn hảo của con người,nói lên ý nghĩa Phật Giáo nhắm vào nhân thế,chứ không nhắm vào thần linh cứu rỗi và Phật tử phải nhìn trong ta chứ không hướng ngoại để tìm ánh sáng nhất như,để tìm giải thoát,để khai triển trí tuệ.Do đó nói Phật Giáo sùng bái ngẫu tượng hoàn toàn sai.

220. Tín đồ Phật Giáo vào chùa đốt vàng mã, xin xăm. Như vậy có phải mê tín dị đoan hay không?

- Nhiều điều mới nhìn qua có vẻ xa lạ với giáo lý Phật,có vẻ mê tín,dị đoan khi ta chưa am tường được ý nghĩa của nó.Hãy nhìn đài Chiến Sĩ Trận Vong,nơi ngọn lửa thiêng được thắp quanh năm,nơi dân chúng đem hoa đến tưởng niệm anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì nước.Tại Mỹ vào ngày lễ Thanksgiving,Lễ Tạ Ơn,dân chúng đem hoa đến cắm hay để trên mồ mả thân nhân.Những hành động ấy không phải là mê tín mà nói lên lòng thành kính,thương nhớ người quá vãng.

- Vì thương nhớ người quá vãng,không muốn họ lang thang trong kiếp sống Ta Bà mà không có tiền tiêu,không có nhà ở v.v…nên dân chúng ở một số quốc độ đốt vàng mã,xe cộ,nhà cửa,thuyền bè cho người quá vãng. Ở các nước kỹ nghệ mở mang ta cũng thấy đầy dẫy những người bói bài chuyên nghiệp,bảo đó là mê tín là nhìn theo góc độ nhãn quan của từng người.

- Phật Giáo truyền vào quốc độ nào đều hòa mình vào phong tục,tập quán,không loại bỏ mà phong phú hóa,rồi dùng những phong tục tập quán ấy hướng chuyển người về với chánh pháp.

- Phong tục,tập quán mỗi nơi một khác:Dân chúng Ấn Độ tin tưởng tắm nước sông Hằng thì mọi tội chướng đều tiêu tan,uống nước thiêng thì mọi bệnh hoạn được tiêu trừ v.v…

- Dựa vào những phong tục ấy để nói tôn giáo này hay tôn giáo kia là mê tín dị đoan chắc chắn là phiến diện.Lời dạy của Phật rất rõ ràng và tỉ mỉ nhưng nếu một số người không am tường lời Phật dạy thì không phải lỗi của Phật Giáo.Phật dạy:“Nếu người bị bệnh tật mà không chịu uống thuốc,không đi khám bác sĩ.Thuốc hay không có lỗi,bác sĩ không có lỗi.Cũng vậy,nếu người bị phiền não,vô minh,bị lụy làm khổ đau,nhưng không đến Phật tìm phương pháp cứu chữa,đó không phải lỗi của Phật.”

(JN 28-9).

- Không nên phán đoán Phật Giáo qua những người không hành trì Phật Đạo,không theo đúng lời chỉ dạy của Phật.

221. Ở trong làng em có một ông thầy có vợ, có con, ở chùa nhưng không trường trai, giữ giới, thường hay làm lễ cúng tế cho dân làng. Em có nên đến chùa thầy ấy dâng hương, lễ Phật, tham dự lễ?

- Những vị sư này thường thường có danh xưng là Thầy Cúng.Kể ra dùng danh từ này mà gọi họ thì có vẻ thất kính,vì trong số những ông “thầy có vợ này”,cũng có những người rất thánh thiện, đầy lòng từ bi, đầy ý nguyện hoằng hóa.Ta hãy nhìn những vị Mục Sư,tuy có gia đình,nhưng lòng hi sinh và phục vụ cho Chúa cũng không kém những vị Linh Mục không vợ không con.

- Tại Nhật Bản phần nhiều chư Tăng đều có gia đình.Các sư thuộc phái Mũ Đỏ của Phật Giáo Tây Tạng phần nhiều đều có gia đình.Điều cần thiết là họ có lo cho đạo hay không,hay chỉ mượn đạo làm kế sinh nhai.

- Ít nhất những vị sư này cũng có công giữ chùa,thắp hương,làm lễ cho Phật tử đến lễ bái.

- Quá lắm ta cứ xem họ như là một người cư sĩ đã dành nhiều thì giờ duy trì tự viện,giúp ta gần Phật,nghe pháp.

222. Nếu Đạo Phật tốt như vậy tại sao một số quốc gia Phật Giáo lại lạc hậu, nghèo nàn?

- Nếu dựa vào thước đo kinh tế mà phán đoán,thì đúng vậy,một số quốc gia Phật Giáo lạc hậu nghèo đói.Nhưng nếu nhìn vào góc độ hài hòa,dung nạp,góc độ phẩm chất của đời sống thì các nước Phật Giáo rất giàu.

- Hoa Kỳ là một quốc gia hùng cường,phồn thịnh,trên phương diện kinh tế,vũ lực,nhưng mức độ phạm pháp ở Mỹ cao nhất thế giới,hàng triệu người già không được con cái săn sóc,bạo lực trong gia đình,ly dị v.v…là những vấn đề trọng đại trong xã hội Hoa Kỳ.Trái lại nước Miến Điện dù nghèo và chậm tiến về kinh tế nhưng con cái kính trọng cha mẹ,mức độ phạm pháp rất thấp,li dị,tự tử,sa đọa tình dục hầu như không có.Ngay cả trên lĩnh vực kinh tế,Nhật Bản là nước phồn vinh nơi 93% dân chúng là Phật tử.

- Trong tuần báo Newsweek ra ngày 3/11/2003 Robert J.Samuelson,một kinh tế gia nổi tiếng,nói câu nói bất hủ:“(Dân Mỹ)người trẻ thì muốn già hơn,người già thì muốn trẻ hơn. Đây chẳng qua chỉ là một đoạn đường trong nỗ lực kiếm tìm hạnh phúc thiên thu bất tận của người Hoa Kỳ.”Tìm hoài,tìm mãi,giàu có,sung túc,nhưng cánh cửa hạnh phúc cứ khép chặt.

223. Phật Giáo nói nhiều về từ bi, tại sao không thấy hoạt động tích cực về mặt xã hội.

- Cách đây mấy năm nhà lãnh đạo Phật Giáo Nhật Bản được giải thưởng Templeton vì nỗ lực xây dựng hòa đồng tôn giáo.Một vị sư người Thái Lan được giải thưởngMagsaysay vì hoạt động giúp người mắc nghiện.Năm 1987 Đại Đức Kantayapiwat được giải thưởng Hoà Bình Thanh Thiếu Niên của Na Uy vì nhiều năm âm thầm hoạt động giúp đỡ những thanh thiếu niên ở thôn quê.Giáo Hội Tăng Già Tây Phương bấy lâu giúp đỡ dân nghèo tại Ấn Độ,xây dựng trường học,ký nhi viện,phòng phát thuốc,chương trình phát triển cộng đồng v.v…Họ không có phương tiện truyền thông để quảng bá,hay họ cũng không muốn quảng bá.

- Một số quốc gia Phật Giáo lấy chùa làm trung tâm xã hội,y tế,giáo dục,phát triển cộng đồng như tại Tích Lan,Thái Lan,xem đó là hoạt động thường xuyên,quen thuộc.Một số quốc gia khác vì thiếu thốn phương tiện nên hoạt động xã hội không mấy rộng rãi.

224. Tại sao Phật Giáo có nhiều giáo phái?

- Có nhiều loại đường:đường đen,đường trắng,đường phèn,đường phổi nhưng chất của các loại đường đều là ngọt,được chế biến qua nhiều hình thức và được sử dụng theo nhiều kiểu khác nhau.

- Phật Giáo cũng vậy:Phật Giáo Nguyên Thỉ,Phật Giáo Thiền,Tịnh Độ,Mật Giáo,Kim Cang Thừa,nhưng tất cả đều là Phật Giáo,đều có một mùi vị đó là giải thoát.Phật Giáo có nhiều giáo phái là tùy theo trình độ và quốc độ,diễn giải như thế nào để dân chúng ở quốc độ đó am tường Phật lý,cho mọi thế hệ biết rõ Phật lý.Bề ngoài có nhiều hình tướng,nhưng bên trong đều xoay quanh đạo lý Tứ Đế,Bát Chánh Đạo.

- Tuy có nhiều giáo phái,nhưng trong lịch sử phát triển Phật Giáo,những giáo phái này không thù ghét,chém giết lẫn nhau.Trong chùa ta thấy chư Tăng thuộc nhiều giáo phái cùng nhau học đạo,cùng nhau hành trì.

225. Phải chăng Phật Giáo phù hợp với khoa học?

- Nhãn hiệu tôn giáo,triết học,khoa học gắn vào Phật Giáo là tùy theo nhãn quan của từng người.Trong kinh có kể câu chuyện Malunkyaputta cầu Phật cho biết về bản tính của vũ trụ,về linh hồ,về kiếp sống mai hậu và nhiều vấn đề có tính cách hình nhi thượng.Phật đem chuyện người bị bắn tên tẩm thuốc độc,hấp hối nằm trên giường bệnh,từ chối không cho bạn bè giúp đỡ chữa trị nếu không biết rõ danh tính của người bắn tên tẩm thuốc độc,người đó thuộc giai cấp nào,sinh đẻ ở đâu,diện mạo ra làm sao và những nguyên liệu làm cung,làm tên.Người ấy chắc chắn bị chết trước khi thõa mãn tò mò trí tuệ.Nhãn hiệu không cần thiết.

-Đức Phật dạy hàng đệ tử đừng có mù quáng theo lời chỉ dẫn của bất kỳ người nào,mà phải quan sát,tìm hiểu,chiêm nghiệm-tinh thần của khoa học.Ngài nói:“ Đừng dựa vào mặc khải, đừng dựa vào truyền thống, đừng dựa vào tin đồn, đừng dựa vào lý luận, đừng dựa vào uy tín cá nhân, đừng dựa ngay vào kinh điển mà dựa vào hiểu biết,chiêm nghiệm bản thân.”

- Albert Einstein ,nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 20 đã nói về Phật Giáo:“Tôn giáo của thế giới tương lai sẽ là tôn giáo vũ trụ(cosmic)siêu việt Thượng Đế nhân cách hóa,không giáo điều,không thần học,dựa vào ý nghĩa tôn giáo phát xuất từ kinh nghiệm thiên nhiên cũng như tâm linh đi vào nhất thể hòa hợp.Phật Giáo bao gồm những yếu tố này.Nếu có tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu khoa học, đó chính là Phật Giáo.”

- Phật Pháp(Dharma)không khác chiếc bè(Yana),đưa con người từ bờ mê đến bến giác.Khi đã đến bờ giác thì phải vất chiếc bè đi chứ không mãi đeo sau lưng.Như vậy danh từ tôn giáo,triết học,khoa học có thể trọn vẹn diễn đạt Phật Giáo?

226. Giáo lý căn bản của Phật là gì?

- Trước khi đi vào phần giáo lý, để có thể thâm nhập giáo pháp Phật một cách trọn vẹn,người Phật tử phải trang bị tinh thần tự tín không ỷ lại,tự do không quản ngại,khoan dung không chấp trước,tin tưởng không mù quáng,tự tại không trói buộc,thực tế không viễn vông.

- Tự tín không ỷ lại.Tin vào khả năng bi,trí,dũng,không ỷ lại vào một uy lực nào khác.Chính mình mới có thể giải thoát cho mình.Phật giáo không phải là giáo lý tìm an ủi nhất thời,không dành cho những tâm hồn nô lệ,cầu cạnh thần quyền.Phật dạy:“Các Đấng Như Lai chỉ là kẻ chỉ đường,tự mình đi đến chứ không ai có thể đi thế cho mình”(Kinh Dhammapada).“Lời dạy của Kinh như ngón tay chỉ mặt trăng.Muốn thấy mặt trăng không thể chỉ nhìn vào ngón tay.”(Kinh Viên Giác).

- Tự do không quản ngại.Người Phật tử phải tự do khai triển sự tìm tòi,chiêm nghiệm,không ngần ngại.Phật luôn luôn khuyến khích hàng đệ tử nêu ra những nghi vấn.Nếu vì quá cung kính với Phật không dám hỏi,thì nhờ người khác hỏi.Hoài nghi,chất vấn cho đến khi không còn hoài nghi nữa.

- Khoan dung không chấp trước.Câu chuyện người mù sờ voi trong kinh Udàna nói lên tinh thần này.Sau khi những người mù đã sờ voi,vua bảo họ diễn tả hình dáng con voi.Có người nói con voi giống cái nồi lớn(họ sờ đầu voi),con voi giống cái nia(họ sờ tai voi),con voi giống cây cột(họ sờ chân voi),con voi như cái chổi(họ sờ đuôi voi).Những người mù này cãi nhau,không ai nhịn ai,cho mình là đúng,người khác là sai,chấp chặt ý kiến của mình.Những người này thật sự không biết con voi như thế nào,nhưng họ kiên trì kiến chấp.Cần phải bỏ kiến chấp mới thấy được Thực Tướng của các pháp,cần phải khoan dung nếu họ chỉ thấy một phần của thức tướng.

- Trong cuốn Tìm Đạo của Thượng Tọa Thích Thiện Châu có kể câu chuyện giữa Thiền Sư Nan-In,người Nhật Bản dưới thời Minh Trị(1868-1912)và một giáo sư triết.Giáo sư hỏi về đạo lý thiền nhưng không chịu nghe lời trình bày của thiền sư.Kết quả cuộc đàm thoại không đi đến đâu.Thiền sư mời khách dùng trà,tiếp tục rót trà tràn chén vẫn không thôi.Giáo sư la lên,chén đã đầy rồi,không chứa đựng được nữa.Thiền sư nói: Đúng vậy chén đã đầy rồi,không còn chứa đựng thêm nước trà nữa.Muốn chứa đựng phải làm trống chén trà. Đầu óc của chúng ta đã tràn đầy,không thể chứa đựng thêm tri kiến,dù là tri kiến thiền là phải bỏ tất cả định kiến sẵn có,thong dong trên con đường tìm hiểu,thâu nạp.

- Tin tưởng không mù quáng.Người Phật tử xây dựng đức tin sau khi đã nhận thức,chiêm nghiệm rõ ràng.Phật dạy:“Phá trừ kiến chấp là kẻ đã hiểu và đã thấy,chứ không phải việc của kẻ không hiểu và không thấy mà làm được.”(Samyutta-nikaya).Phật không bắt hàng đệ tử tin một cách mù quáng.Danh từ tiếng Pali Saddha,tiếng Phạn Sraddhà diễn đạt đức tin đã được thấy rõ, được kiểm chứng.

- Tự tại không trói buộc.Giáo phái của Phật như chiếc bè chở người qua sông.Qua sông rồi đừng để chiếc bè trói buộc.Kinh Kim Cang có câu:“Cái gọi là Phật Pháp chẳng phải là Phật Pháp,nên gọi là Phật Pháp…”Phật nói:“Từ ngày tìm được giác ngộ,cho đến khi ta sắp nhập Niết Bàn,ta chưa từng nói một lời nào!”(Kinh Niết Bàn).Ngôn ngữ, âm thanh hạn cuộc không đủ khả năng chuyên chở giáo pháp vi diệu,do đó không để bị trói buộc bởi ngôn ngữ âm thanh hạn cuộc ấy.

- Thực tế không viễn vông.Phật tử không lặn lội trong những lý luận viễn vông,Phật gọi là hý luận(luận bàn mà chơi)mà phải dốc lòng hành trì sau khi biết rõ lợi ích của nó.

Giờ đây ta trở lại câu hỏi trên:Giáo lý căn bản của Phật là gì?

- Đạo lý Trung Đạo.Trong bài kinh đầu tiên,Kinh Chuyển Pháp Luân(Dhamma Cakkapavattana Sutta),kinh Khai Đạo(chỉ đường)do Phật thuyết giảng cho 5 ông Kiều Trần Như tại Vườn Lộc Uyển,hai tháng sau khi Phật thành đạo,Phật dạy:“Có hai thái cực mà người tu đạo nên tránh:một là lao mình vào khoái lạc,nhục dục,hai là hành hạ thân xác cho hao mòn.Cả hai con đường đều đưa đến sự phá sản của thân tâm.Con đường mà tôi tìm ra là con đưòng trung đạo tránh được hai thái cực ấy và có thể đem đến trí tuệ giải thoát và an lạc…”

- Lời dạy có vẻ giản dị,trực tiếp nhưng rồi thiên kinh vạn quyển vẫn không nói lên đầy đủ ý nghĩa của đạo lý Trung Đạo.Trung đạo trong tri kiến,trong tư duy,trong lời nói,trong nếp sống,trong quán tưởng.Làm sao trung đạo trong tri kiến.Cái nhìn của chúng ta bị điều kiện hóa bởi học vấn,truyền thống,văn hóa,phong tục tập quán.Làm sao có thể hiểu thấy sự thật,thâm nhập đạo lý Trung Đạo.45 năm thuyết pháp của Phật cốt đi sâu vào vấn đề này,đi sâu từ câu nói giản dị và trực tiếp cho 5 ông Kiều Trần Như,những người đã nhiều năm thụ hưởng đời sống vất chất lúc còn tại gia,những người đã nhiều năm tu khổ hạnh đời đạo sĩ.Họ là nhân tuyển thích hợp cho bài giảng khai đạo này.

- Chân lý tuy là một,nhưng phương tiện để đạt được chân lý thì có nhiều. Đừng lấy phương tiện làm chân lý và cũng đừng bỏ phương tiện đi đến chân lý. Đức Phật xem giáo lý của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng,như chiếc bè đưa người qua sông chính là ý nghĩa này và câu nói bất hủ của ngài “Chánh pháp còn phải bỏ,huống là phi pháp”(Mn.I. 134)biểu lộ một cách trọn vẹn ý nghĩa trung đạo.

- Lời Phật dạy vì vậy tùy theo hoàn cảnh,theo trình độ,theo căn cơ,đem áp dụng vào đời sống trên đường đến giải thoát.Danh từ nhà Phật gọi là khế lý khế cơ.

227. Trung đạo phải chăng là sự chiết trung giữa khổ và vui, giữa trái và phải, giữa thiện và ác? Một đạo lý hàng hai?

- Nếp sống bình dị,không xa hoa,sa đọa,không bủn xỉn,keo kiệt,không ép xác,hại thân không phải là nếp sống hàng hai,mà là nếp sống an lạc.

- Mọi sự vật trong trời đất đều phải trải qua bốn thời kỳ biến đổi:thành(giai đọan hoàn thành),trụ(giai đọa hiện hữu),hoại(giai đọan tàn lụn),không(giai đoạn chấm dứt).Nhưng chấm dứt không phải hết.Sống để mà chết,chết để mà sống.Các tế bào của cơ thể con người luôn luôn sống chết,biến đổi không ngừng,chết đi sống lại có tới 6,400,099,980 lần.Như thế chết không phải là hết.Trong tử có sinh,trong sinh có tử, đó là đạo lý Trung Đạo.

- Trong kinh có câu:Muội vũ trụ chi chân lý,vị chi mê,minh vũ trụ chi chân lý,vị chi ngộ.”(Không rõ cái lý thật của vũ trụ gọi là Mê.Rõ được cái lý thật của vũ trụ gọi là Tỉnh),đó là đạo lý Trung Đạo.

- Trong kinh điển nhà Phật lấy câu chuyện chiếc giây thừng và con rắn để làm thí dụ.Trong bóng tối,ta thấy một chiếc giây thừng,tưởng đó là con rắn.Nhưng khi có ánh sáng ảo giác giây thừng là con rắn biến mất.Không có con rắn thực,nhưng có sợi giây thừng.Bảo giây thừng là con rắn là sai,nhưng nói không có gì cả cũng sai vì có giây thừng.Đó là ý nghĩa sắc mà không,không mà sắc.Đó là đạo lý Trung Đạo.

228. Trong Kinh Chuyển Pháp Luân sau khi Đức Phật nói về Trung Đạo, Ngài thuyết giảng thêm đạo lý gì?

- Ngài nói về Bát Chánh Đạo,nguyên văn trong kinh như sau:“Này các Tỳ Kheo,thế nào là Trung Đạo do Như Lai Chánh Giác chứng ngộ,phát sinh sự thấy,sự hiểu, đưa đến an tịnh,thắng trí,niết bàn?Đó là Tám Con Đường Chánh: 1/Chánh Tri Kiến. 2/Chánh Tư Duy. 3/Chánh Ngữ. 4/Chánh Nghiệp. 5/Chánh Mạng. 6/Chánh Tinh Tấn. 7/Chánh Niệm. 8/Chánh Định.”

- Để dễ hiểu ta có thể diễn dịch như sau:Con đường Chánh Đạo là con đường Bát Chánh:nhận thức chân chánh,tư duy chân chánh,ngôn ngữ chân chánh,hành động chân chánh,sinh kế chân chánh,chuyên cần chân chánh,niệm lực chân chánh và định lực chân chánh.

- Phật đã đi theo con đường bát chánh đó và đã thực hiện được trí tuệ,giải thoát và an lạc.

229. Tại sao con đường này gọi là chánh đạo?

- Vì con đường này không lẫn tránh khó khăn đau khổ mà trực tiếp đối diện với khổ đau,nói rõ thực trạng của khổ đau,hiểu rõ nguyên nhân của khổ đau và tìm con đường diệt trừ khổ đau.

- Vì đây là con đường giác ngộ,con đường tỉnh thức.

230. Trong Kinh Chuyển Pháp Luân có nói thêm về đạo lý gì nữa?

- Ngài nói Đạo Lý Tứ Diệu Đế(Bốn Sự Thật Nhiệm Mầu,hay Bốn Chân Lý Cao Thượng),đó là 1/Khổ đế. 2/Tập đế. 3/Diệt đế. 4/Đạo đế.Nguyên văn trong kinh như sau:

- “Này các Tỳ Kheo,đây là sự thật về khổ(Khổ Đế):sinh là khổ,già là khổ,bệnh là khổ,chết là khổ,sầu bi, ưu não là khổ,oán thù tụ hội là khổ,thương yêu ly biệt là khổ,mong cầu không được là khổ,tham đắm vào thân năm uẩn là khổ.

- “Này các Tỳ Kheo,đây là sự thật về nguyên nhân của Khổ(Tập đế),đó là ái dục dẫn đến tái sinh.Do ái cấu kết với hỷ và tham,tìm kiếm thú vui nơi này chỗ khác,tức là ái dục,ái hữu và phi ái hữu.

- “Này các Tỳ Kheo,đây là sự thật về diệt khổ(Diệt Đế):đoạn diệt tham ái,xả bỏ,giải thoát,không còn chấp trước dục ái.”

- “Này các Tỳ Kheo,đây là sự thật về con đường diệt khổ(Đạo Đế):đó chính là Bát Chánh Đạo.”

-Bốn sự thật ấy nói lên thực trạng khổ đau của kiếp người,nguyên nhân sinh ra đau khổ,trạng thái an lạc sau khi đã diệt trừ khổ đau và lộ trình mầu nhiệm hướng đến giải thoát.Giáo lý về Bốn Sự Thật(Tứ Đế)này là giáo lý nhiệm mầu(Diệu)nên gọi là Tứ Diệu Đế:Bốn Sự Thật Nhiệm Mầu hay Bốn Chân Lý Cao Thượng.

Phật giảng giải đạo lý Tứ Diệu Đế bằng ba phương thức,danh từ chuyên môn của Phật Giáo gọi là Tam Chuyển và Mười Hai Tướng.Ba Chuyển là Thị Chuyển,Khuyến Chuyển,Chứng Chuyển.Mười Hai Tướng là dùng Tam Chuyển áp dụng cho mỗi sự thật(3 Chuyển x 4 Đế = 12 Tướng).

- Thị Chuyển:Chỉ bày,cắt nghĩa Tứ Diệu Đế.

- Khuyến Chuyển:Khuyến khích tìm hiểu,chiêm nghiệm,chứ không phải nghe suông.

- Chứng Chuyển:Chứng minh bằng kinh nghiệm của Phật đã trải qua và kinh nghiệm bản thân mình.

Đạo lý Tứ Diệu Đế qua Ba Chuyển nói lên không những nhận thức thực tại mà còn giai trình biện chứng qua kinh nghiệm bản thân của Phật,qua tương quan nhân quả,qua thăng chứng nội tại.Nói một cách khác qua diễn trình nhận thức thực tại(Khổ Đế) đến chuyển hướng tư duy(Tập Đế),đến kết quả hành trình(Diệt Đế),đến giai trình thực hiện(Đạo Đế).

231. Đạo Phật nói đời là khổ, như vậy xem cuộc đời có vẻ bi quan lắm sao?

- Nói đời là khổ là diễn đạt thực tại của cuộc sống. Điều đó không phủ nhận trong cuộc sống của con người cũng có những phút sung sướng,hạnh phúc.

- Hơn nữa sau khi trình bày hiện thực của cuộc sống,Phật Giáo không bi quan mà còn đưa ra con đường diệt trừ đau khổ,chứng đắc giải thoát,một hạnh phúc vĩnh cửu,thái độ lạc quan,thực tiễn.

232. Đạo Phật chủ trương diệt dục, cho đó là nguyên nhân của khổ đau. Nhưng nếu không có dục lấy đâu có động cơ tiến thủ, xã hội như vậy sẽ mãi mãi trong tình trạng hoang sơ?

- Ý nghĩa diệt dục của Phật Giáo không phải như vậy.Đức Phật dạy nếu cuộc sống chỉ dựa vào lòng ham muốn tiếp tục không bao giời dừng nghỉ thì chỉ gây khổ đau,vì không làm sao thỏa mãn được.

- Ngài dạy phải phân biệt chúng ta cần gì,chúng ta muốn gì rồi cố gắng đạt cho được điều chúng ta cần mà thay đổi điều chúng ta muốn. Điều ta cần có thể thỏa mãn,nhưng điều ta muốn thì thật vô cùng tận.

- Mục đích của cuộc sống là gì?Phải chăng là hạnh phúc,an lạc?Hạnh phúc an lạc có thể đạt được không nếu chúng ta chỉ muốn và muốn?

- Một trong sáu hạnh Ba La Mật là Tinh Tiến Ba La Mật. Ý chí hướng thượng,tinh tấn,dũng mãnh là động cơ đưa ta đến bờ giác.Yêu Niết Bàn và yêu trần thế đều là yêu,đều là lòng mong cầu,nhưng nội dung yêu và mong cầu khác nhau.

233. Trong đạo lý Tứ Đế, Phật đề cập đến cảnh giới Niết Bàn thanh tịnh, nơi mọi ham muốn không còn nữa. Vậy Niết Bàn là gì? Nằm ở đâu?

- Nếu chúng ta chưa có dịp thử mùi vị của kẹo chocolate,thì dầu có diễn tả một cách tài tình,chúng ta cũng chỉ mập mờ biết vậy mà thôi.Niết Bàn cũng vậy,không thể dùng văn tự diễn tả,nhất là văn tự hạn hẹp của con người.Chúng ta chỉ dựa vào lời Phật,vị đã giác ngộ,đã chứng đạt Niết Bàn cho chúng ta hay:“Ở đây không sinh,không nằm trong quá trình hiện hữu,không tạo dựng,không tổng thể phát hiện,vượt ngoài hiện tượng sinh,thành hình,tạo dựng,hợp thể.”(UD 80).

- Niết Bàn chữ Pali là Nibbana,chữ Phạn Nirvana,có nghĩa là vắng lặng,tuyệt diệu,không còn vọng động,trạng thái giải thoát.

- Tiểu Thừa Phật Giáo chia Niết Bàn thành hai loại tương đối và tuyệt đối.Khi tu định,thâm nhập cảnh giới Niết Bàn,có tính cách nhất thời,tương đối,khi viên tịch vào cảnh giới Niết Bàn vĩnh viễn và tuyệt đối.

- Đại Thừa Phật Giáo không chối bỏ hiện hữu,không chối bỏ cảnh Niết Bàn trong thiền định mà chấp nhận hiện hữu để giải thoát hiện hữu.Như vậy không đợi kiếp sau, đợi khi viên tịch mới chứng quả Niết Bàn.Niết Bàn trong hiện thế.Nói một cách khác cái ngộ nằm trong cái mê,bồ đề nằm trong phiền não.Phật pháp bất ly thế gian pháp.

- Một người nọ,mùa đông giá lạnh sắp đến,hỏi vị thiền sư làm sao tránh được cảnh mùa đông lạnh giá.Thiền sư trả lời: Đông đến anh cứ run đi,hạ đến anh cứ để cho mồ hôi toát đầy mình đi.Đó là cảnh giới Niết Bàn!

234. Ngoài đạo lý Trun g Đạo, Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế, Đức Phật có dạy thêm đạo lý nào nữa không?

- Trong bài kinh giảng về Tứ Diệu Đế,khi giải thích về nguyên nhân của sự khổ đau,Phật đề cập đến đạo lý Duyên Khởi,thuyết Thập Nhị Nhân Duyên.Kinh văn chép:“Này các Tỳ Kheo,thế nào là chân lý cao thượng về nguyên nhân của khổ?Duyên vô minh có hành,duyên hành có thức,duyên thức có danh sắc,duyên danh sắc có sáu xứ,duyên sáu xứ có xúc,duyên xúc có thọ,duyên thọ có ái,duyên ái có thủ,duyên thủ có hữu,duyên hữu có sinh,duyên sinh có lão,tử,sầu bi, ưu não.”

- Đức Phật gọi nguyên nhân là nhân(hetu),là tập(samudaya),là duyên(paccaya),là điều kiện(nidàya)tùy theo trường hợp,tùy góc độ nhận thức.Về sau các nhà Phật học thường gọi nhân là chủ yếu và gọi duyên là những nguyên nhân thứ yếu.Thực ra chủ yếu,thứ yếu đều dựa vào vị trí quan sát mà thôi,vì trong mối liên hệ chằng chịt của các hiện tượng,cái này nhận cái kia là nhân hay là duyên,chính nó cũng là nhân,là duyên cho những yếu tố khác.

- Đạo lý Duyên Khởi(Paticcasamuppada)là thuyết nhân sinh quan của Phật Giáo.Mọi sinh vật đều do duyên(paccaya)hay do điều kiện, ảnh hưởng(nidàna),hay do nguyên nhân(hetu),hoặc do yếu tố tích lũy(samudaya)dựa vào nhau mà có.Kinh Tương Ưng nói:“Các pháp do nhân duyên sinh.Dù Chư Như Lai có xuất hiện hay không,chân lý này vẫn hiện hữu,dựa vào nó mà các pháp hiện hữu,nó quyết định sự hiện hữu của các pháp,các pháp đều dựa vào duyên tính của nó.”

- Ngũ Phần Luật nói:“Các pháp đều do nhân duyên mà có,cũng do nhân duyên mà diệt. Đức Phật,vị Đại sa Môn,thường dạy như vậy.”

- Cái vận hành sinh diệt máy móc của sự vật được tóm tắt bằng câu:“Do cái này có mặt,cái kia có mặt.Do cái này sinh cái kia.”Do duyên vô minh mà có hành;do duyên hành mà có thức…Sự vận chuyển,sinh thành,hủy diệt không diễn tiến trên một đuờng thẳng mà theo một vòng tròn,vì tất cả đều là tương đối,thời gian,không gian đều tương đối.Quá khứ,hiện tại,vị lai đều là tương đối,chằng chịt vào nhau.Hai câu tục ngữ Việt Nam nói lên tinh thần đạo lý duyên khởi:

Có cây thì có dây leo

Có cột có kèo thì có đòn tay.

235. Xin giải thích thêm cho những từ ngữ như vô minh, hành, v.v…

- Vô Minh(Avijja,Ignorance)là trạng thái tâm thức đối lập với giác ngộ,là nhân tố quyết định thân phận khổ đau của con người ở cõi Dục,Sắc và Vô Sắc(Tam Giới).Vô Minh trong Phật Giáo Nguyên Thỉ là nguyên nhân của ngã kiến,về cái Ta,chấp về cái Ta nhỏ nhoi,nỗ lực duy trì nó làm cho nó tiếp tục mãi mãi,quanh quẩn trong luân hồi sinh tử.

- Kinh Tương Ưng II,phẩm Nhân Duyên, đức Phật dạy:“Này các Tỳ Kheo,thế nào là vô minh?Là không biết rõ về khổ,không biết rõ về khổ tập,không biết rõ về khổ diệt,không biết rõ con đường đi đến khổ diệt.”Nói một cách khác không thâm nhập Tứ Diệu Đế.

- Hành(Sankhara,Mental formations)là sửa sọan,sắp đặt,hình thành,quá trình hình thành,kết quả hình thành,hành động,sự vận hành,sự tập hợp,sự gồm thành.Nói tóm lại Hành là các cấu trúc tâm lý thông qua thân,khẩu, ý.Kinh Tương Ưng III,Kinh Đại Duyên,Trường Bộ III,Kinh Saccaka Tiểu Kinh,Kinh số 35,Trung Bộ Kinh I và Kinh Hữu Minh Tiểu Kinh,Kinh số 64,Trung Bộ Kinh I có ghi:“Này các Tỳ Kheo,thế nào là sự vận chuyển của Hành?Có ba hành là thân hành,khẩu hành và ý hành.”Hành là sự chuyển biến của thân,khẩu, ý nghiệp.Hành là ý chí muốn sống(Will zum leben)theo triết gia Schopenhauer.

- Thức(Vinnàna,Consciousness)là sự ghi nhận sự vật,là tri giác.Kinh Tương Ưng III giải thích:“Này các Tỳ Kheo,thế nào gọi là Thức?Rõ biết gọi là Thức,rõ biết gì?Rõ biết chua,đắng,cay,ngọt,mặn,lạt…”

- Nói đến thức là bao gồm cả chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức,là tâm và Cảnh.Theo từ ngữ tâm lý học(Psychology)hay tâm thái học(Behaviorism),Thức là năng lực tiềm ẩn của mọi trạng thái và thái độ tâm lý khi gặp đối tượng kích thích.

- Danh Sắc(Nàma-rùpa,Corporealty and mentality):con người gồm yếu tố tâm lý(Danh)và vật lý(Sắc).Kinh Tương Ưng II nói:“Này các Tỳ Kheo,thế nào là Danh Sắc?Thọ,tưởng,tư,xúc,giác, tác ý gọi là Danh.Tứ Đại và Sắc do Tứ Đại tạo ra gọi là Sắc.”Danh Sắc như vậy gồm quá trình đi đến Thức(xúc,tác ý,thọ,tưởng,tư).Danh Sắc là cỗ máy hoạt động,nhưng sự vận hành của nó thì cần đến nhiên liệu,nhiên liệu ấy là thức.Ta hãy chiêm nghiệm lời dạy trong Kinh Đại Duyên,thuộc Trường Bộ Kinh:“Này A Nan,nếu Thức đi vào trong bụng mẹ rồi bị tiêu diệt,thì Danh Sắc có thể thành hình được không?”A Nan trả lời:“Bạch Thế Tôn,không.” Ở đây đề cập đến sự thọ thai.Danh Sắc ở đây là sự quy tụ của noãn và tinh trùng mẹ cha,chưa trở thành hữu thể nếu không có thức.Yếu tố vật lý chưa đủ để tạo thành con người mà cần có yếu tố tâm lý.

- Lục Nhập(Salayàtana,Six Bases),sự tương nhập của sáu căn(hay sáu xứ,sáu điểm tựa:mắt,tai,mũi,lưỡi,thân, ý),với sáu trần(sáu đối tượng:hình thể,âm thanh,mùi thơm,mùi vị,sự đụng chạm, ý niệm(pháp)).Nói một cách khác,Lục Nhập là sáu ngõ tiếp nhận các đối tượng của nhận thức.

- Xúc(Phassa,Impression)là sự tiếp xúc của các cơ quan cảm giác với đối tượng.Xúc là sự gặp gỡ của thức(chủ thể nhận thức),căn(cơ quan nhận thức) và trần(đối tượng nhận thức).Kinh Trường A Hàm ghi chép lời Phật hỏi A Nan:“Này A Nan,giả sử không có nhãn căn,không có sắc trần,không có nhãn thức thì liệu có Xúc không?A Nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn,không.”Như vậy Xúc không những là sự gặp gỡ của 18 giới(6 căn+6 trân+6 thức)mà còn là kết quả của sự gặp gỡ đó.

- Thọ(Vedana,Feelings):cảm xúc khi chủ thể tiếp xúc với đối tượng.Trạng thái tâm ký hay thái độ tâm lý theo nghĩa tâm lý học ngày nay.Tương Ưng Bộ Kinh II cắt nghĩa:“Này các Tỳ Kheo,thế nào gọi là Thọ?Là cảm xúc do mắt,tai,mũi,lưỡi,thân, ý tiếp xúc với các đối tượng phát sinh.”

- Có 3 loại cảm thọ:Lạc thọ,khổ thọ,bất khổ bất lạc thọ.Cảm xúc buồn khổ,vui thích,không khổ,không vui).

- Ái(Tanha,Craving):sự luyến ái,ham thích.Tăng Ưng Bộ Kinh II giải thích:“Này các Tỳ Kheo,thế nào là Ái?Là ái sắc,thanh,hương,vị,xúc,pháp.” Ái là ý chí sống, động lực mạnh nhất đẩy chúng sinh vào sinh tử,luân hồi.

- Thủ(Upàdàna,Grasping,Clining,Fastening to life):Nắm giữ,bám chặt,ràng buộc vào.Trong kinh đề cập đến bốn loại thủ(nắm giữ những gì ưa thích),Kiến Thủ(chấp chặt quan điểm của mình),Giới Cấm Thủ(giữ chặt các giới điều sai lạc,tà đạo),Ngã Luận Thủ(duy trì quan điểm về tự ngã,bám vào Ngũ Uẩn xem là của mình mà không biết Ngũ Uẩn là hợp thể không thường hằng.

- Hữu(Bhava,Process of Becoming):tiến trình tương duyên để hình thành hiện hữu.Hữu còn có nghĩa là nơi,chốn,cảnh giới,như trong Kinh Pháp Hoa gọi Tam Hữu(Dục,Sắc,Vô Sắc)là tam giới hỏa trạch(ba cõi như ngôi nhà lửa),chúng sinh trong Tam Giới bị lửa dục thiêu đốt,bị hữu vi,vô thường chi phối.

- Sinh(Jàti,Birth,Rebirth,Becoming):ra đời,xuất hiện,sự thành tựu của vật lý,tâm lý và khả năng sống, ý chí muốn sống.

- Lão tử(Jati-marana,Old Age and Death,Decay and Death):Già nua và chết(tan rã).Với Phật Giáo,chết không phải là hết,mà chỉ là sự tháo rời các nhân duyên đã tạo ra ngũ uẩn.Nhân duyên khi tháo rời gọi là chết mà không phải mất đi.Các nhân duyên ấy vẫn còn và đi vào giòng sống khác,nếu vô minh,tham đắm,muốn sống v.v…thì quay trở lại vòng tròn Thập Nhị Nhân Duyên.

- Khi các duyên hợp lại thì tạo ra hiện hữu mới.Hiện hữu này không phải là hiện hữu cũ,nhưng cũng không phải khác với hiện hữu cũ.Hiện tượng này được Phật thuyết giảng trong đạo lý Nhân Quả,Nghiệp Báo,Luân Hồi.

- Mười Hai Nhân Duyên,nói tóm lại là hiện hữu của con người,cũng là tiến trình hiện hữu của con người.

236. Danh từ Phật học làm em choáng váng. Về thân người có khi gọi là Thân Tứ Đại, có khi gọi là Thân Ngũ Uẩn, có khi gọi là Thân Lục Giới là nghĩa như thế nào?

- Trong thời Đức Phật các triết gia, đạo sĩ Ấn Độ đã đưa ra học thuyết Tứ Đại,bốn yếu tố tạo thành con người: 1/Địa(Đất),chất cứng. 2/Thủy(Nước),chất lỏng. 3/Hỏa(Lửa),sức nóng. 4/Phong(Gió)sức vận hành.

- Đức Phật sử dụng quan điểmTứ Đại xem như yếu tố vật chất(Sắc).Nhưng con người không phải chỉ do vật chất tạo thành,con người là tổng hợp của: 1/Sắc(Rùpa)vật chất,hình tướng. 2/Thọ(Vedana),cảm thọ,cảm giác,tình cảm. 3/Tưởng(Sanna)ghi nhớ,tưởng nhớ,nhận biết. 4/Hành(Sankhara) ý chí,vận hành,hành động. 5/Thức(Vinnàna)sự nhận thức,biết.Con người gồm 5 tổng thể,gọi là Ngũ Uẩn(Ngũ:Năm,Uẩn:tích tập,tổng hợp).Nếu chỉ cho cái thân vật chất,đó là thân Tứ Đại.Nếu nói con người trọn vẹn thì dùng danh từ Ngũ Uẩn.

- Lục Giới gồm:địa,thủy,hỏa,phong,không và thức.Địa,thủy,hỏa,phong,không khác Tứ Đại,thức không khác yếu tố thứ năm của Ngũ Uẩn. Ở đây chỉ thêm một yếu tố nữa là không(không khí,hư không)yếu tố quan trọng của không gian,của sự cách biệt giữa các vật thể.

237. Xin cho biết thêm về giáo lý Ngũ Uẩn.

- Ngũ Uẩn là 5 yếu tố tập hợp lại tạo thành hiện tượng,tạo thành con người.Năm yếu tố ấy là sắc,Thọ,Tưởng.Hành và Thức.

- Đức Phật phân tích hiện tượng quy ước gọi là con người chỉ là sự tổng hợp của Danh và Sắc(Nama,Name và Rupa,Form).

- Danh ở đây là bốn hoạt động tâm linh cộng với xác thân,gọi là Ngũ Uẩn,tổng hợp lại tạo thành con người.Khi thân xác và bốn hoạt động tâm linh tách rời nhau,thì con người ấy không còn tồn tại.Năm Uẩn tan rã không có nghĩa là dòng đời chấm dứt,chúng(Ngũ Uẩn)lại tái xuất hiện trong một tổng thể khác,theo mức độ nặng nhẹ của nghiệp lực.

238. Quan điểm của các học phái Ấn Độ lúc Phật còn tại thế khác với đạo lý Thập Nhị Nhân Duyên như thế nào?

- Lúc Phật còn tại thế, ở Ấn Độ có 62 phái,hay 62 học thuyết,trong đó có ba học phái quan trọng chủ trương: 1/Tất cả khổ vui đều do túc nghiệp(Pubba-katu-hetu),mang tính chất định mệnh. 2/Do Đấng Tạo Hóa(Issaranimàna)sáng tạo,mang tín ngưỡng về quyền năng của thần linh. 3/Sự vật hiện hữu ngẫu nhiên mà thành,mang tính cách thiên nhiên.

- Những học thuyết này không những trên phương diện hiện tượng luận không thuyết phục mà trên phương diện đạo đức học thì rất nguy hiểm,vì nếu là định mệnh thì mọi cố gắng tiến thủ của con người đều không có ý nghĩa;nếu do Đấng Tạo Hóa,thì cuộc sống hoàn toàn ỷ lại vào thần linh, ý chí của con người hoàn toàn vô nghĩa;nếu do thiên nhiên,thì hành động đạo đức không có ý nghĩa gì trong cuộc sống.

239. Như vậy người Phật Tử không tin có đấng Tạo Hóa?

- Không.Có nhiều lý do.Các nhà xã hội học,tâm lý học hiện đại cho rằng những tư tưởng tôn giáo liên quan đến thần linh,nhất là quan điểm về Đấng Tạo Hóa phát xuất từ sự sợ hãi trước vũ trụ bao la,trước những thiên tai,sấm sét ngoài sự kiểm soát của con người.Phật dạy:“Con người vì quá sợ hãi đã tìm đến những ngọn núi,những hang động,những cây cổ thụ,những am điện cho là thiêng liêng để cầu nguyện nhờ thần linh phò trợ.”(Dp 188).

- Con người thời thượng cổ,trước vũ trụ bao la rùng rợn,rồi thú dữ bao quanh,rồi bệnh tật,không có đầy đủ thức ăn,rồi sấm sét,núi lửa,bão,lụt.Sống trong tình trạng bất an.Họ phải bám vào cái gì để được thỏa đáng khi sung túc,được can đảm khi nguy khốn, được an ủi khi bất an?Ngay hiện đại ta thấy con người trở nên thuần kính hơn khi gặp tai họa,họ nói tin tưởng ở Đấng Tối Cao cho họ sức mạnh đối phó với đời.Họ nói nhờ cầu nguyện Đấng Bề Trên mà họ được an bình.Những điều này chứng minh lời dạy của Phật là con người tạo ra Đấng Bề Trên để đối phó với sự sợ hãi,sự hoang mang. Đức Phật khuyên ta phải tìm hiểu cội nguồn sợ hãi,rồi can đảm,bình thản đối phó;thay thế sự sợ hãi không bằng lòng tin mù quáng mà bằng trí tuệ hiểu biết sự thật.

- Lý do thứ hai Phật Tử không tin vào Đấng Tối Cao vì không có bằng chứng cụ thể nào để chứng minh quan điểm này.Ngoài ra nhiều tôn giáo cho chỉ có Đức Tối Cao của mình mới thật còn những Đấng Tối Cao khác là ngụy tạo, để rồi gây ra không biết bao nhiêu tai họa.Người Phật Tử không vướng vào những tranh chấp ấy.Người Phật Tử dành sự phán đoán của mình khi được chứng minh cụ thể.

- Lý do thứ ba Phật Tử không tin vào Đấng Tối Cao,Chúa Tể của muôn loài,vì cho lòng tin ấy không cần thiết.Có người cho rằng nếu không có Đấng Tối Cao thì làm sao có thế giới này.Khoa học cho ta thấy rõ sự hiện hữu của vũ trụ không cần phải có quan niệm Đấng Tạo Hóa.Có người cho rằng tin tưởng ở Đấng Tối Cao làm cho đời thêm ý nghĩa và hạnh phúc. Điều này lại càng không đúng vì Phật Tử và những người không tin vào Đấng Tạo Hóa vẫn có cuộc đời hạnh phúc và đầy ý nghĩa.Có người cho rằng tin ở quyền năng của Đấng Tạo Hóa giúp cho người có thể đương đầu với mọi oan trái,bi lụy.Lòng tin này có thể có khả năng làm thuốc dán ngoài da nhưng không làm sao tận trừ được mọi bi lụy của cuộc sống.Có người cho rằng nhờ Đấng Tạo Hóa mà con người được cứu rỗi.Phật dạy muốn được cứu rỗi phải do chính mình.Con người có đầy đủ khả năng tạo dựng số phận cho chính họ.

240. Nếu không có đấng Tạo Hóa thì thế giới, vũ trụ, con người, vạn vật từ đâu mà có?

- Nhiều tôn giáo,tín ngưỡng dùng thần thoại để trả lời nhan đề này.Người Việt Nam cho rằng mình là Con Rồng Cháu Tiên.Người Tây Tạng tin tổ tiên của họ là con khỉ v.v…Vào thế kỷ thứ 20 vật lý học,thiên văn học, địa chất học đã thay thế thần thoại bằng dự kiện khoa học.

241. Đức Phật giải thích sự hiện hữu của vũ trụ như thế nào?

- Cách giải thích của Phật mà gần đây khoa học càng ngày càng thấy gần gũi.Trong Kinh Aganna Sutta đức Phật nói sự thành hình của vũ trụ biến chuyển qua muôn ngàn yếu tố chằng chịt,qua hàng triệu triệu năm.Mạng sống của sinh vật thành hình trên mặt nước và qua hàng triệu năm trở thành sinh tố phức tạp.Trong diễn trình tiến hóa thật là vô thỉ,vô chung như được trình bày ở thuyết Thập Nhị Nhân Duyên ở trên.

242. Không có dấu hiệu của Đáng Tạo Hóa, vậy thì những phép lạ xuất hiện phải giải thích ra làm sao?

- Nhiều người cho rằng phép lạ là bằng chứng nói lên sự hiện hữu của Đấng Tối Cao.

- Hàng tuần vào sáng chủ nhật,chúng ta thấy trên đài TV nói về phép lạ trị bệnh nhưng không bao giờ thấy khảo nghiệm độc lập về y khoa.Chúng ta nghe tin đồn về những hiện tượng cứu rỗi,nhưng không thấy tường thuật trực tiếp mắt thấy tai nghe.Chúng ta cũng nghe nhiều về phép lạ chữa chân què,thân còm nhưng không thấy bằng chứng chụp quang tuyến của bác sĩ.

- Tin đồn,báo cáo gián tiếp không thể thay thế bằng chứng thật sự.Tuy nhiên cũng có những chuyện khó giải thích xảy ra nhưng vì khả năng chúng ta còn kém nên chưa giải thích được,điều đó không có nghĩa đó là bằng chứng hiện hữu của Đấng Tối Cao.

- Ở Việt Nam trước đây có người bị đứng tim chết,ta thường nói bị trúng gió, đau đầu sổ mũi vì ma quỷ trù yểm.Không rõ nguyên nhân,chưa có khả năng giải thích không có nghĩa là có quỷ thần trù yểm,có gió làm đứng tim.

243. Trên thế giới có rất nhiều người tin ở Đáng Bề Trên như vậy chắc chắn phải có Đấng Bề Trên ở hình tướng này hay hình tướng khác?

- Không phải như vậy.Có một độ hầu hết người ta tin quả đất là dẹp,như vậy không có nghĩa là quả đất dẹp.

244. Nếu Phật Tử không tin ở đấng Tạo Hóa thì họ tin gì?

- Chúng ta không tin ở Đấng Tạo Hóa vì chúng ta tin ở người,con người quý giá,có khả năng phát triển thành Phật-một con người trọn vẹn.

- Chúng ta tin tưởng con người có thể vượt qua những ngu muội,phi lý để có thể nhìn được chân tướng của sự vật.

- Chúng ta tin rằng hận thù,ganh ghét,sân hận có thể được thay thế bằng từ bi,khoan dung,độ lượng.

- Chúng ta tin tưởng những đức tính này con người có thể đạt được nếu ra công tập luyện,được sự yểm trợ của người đồng đạo,được sự hướng dẫn của Chánh Pháp, được cảm hóa qua đời sống gương mẫu của Phật. Đức Thế Tôn nói:“Không ai có thể cứu ta chỉ có ta tự cứu ta.Chúng ta là kẻ đi trên con đường giải thoát,đức Phật chỉ là kẻ chỉ đường.”

245. Nếu không có Đấng Bề Trên thì làm sao ta biết được điều gì là thiện, điều gì là ác? Ai là quan tòa xét cho hoạt động gọi là thiện, ác?

- Trong lịch sử ta thấy nhiều tội phạm đã xảy ra nhân danh tôn giáo.Ngay bây giờ cũng vậy,nhiều phần tử cực đoan dùng chiêu bài tôn giáo cổ võ,thúc đẩy dân làm nhiều điều tàn ác,gây hận thù,chia rẽ,bạo động.Chủ nghĩa tôn thờ cá nhân cũng mang lại nhiều thảm họa.Nhân loại sẽ được an bình hơn nếu không có những quan điểm cực đoan này.

246. Người ta lợi dụng tôn giáo chứ tôn giáo có bảo họ làm như vậy đâu?

- Đúng vậy.Ngày xưa các ông vua cho mình là con trời(Thiên Tử),vâng mệnh trời(Thiên Mệnh)muốn làm gì thì làm.Trời ở đâu mà có người con như vậy và trời ở đâu để ra lệnh như vậy?

- Con người có khuynh hướng hợp lý hóa tham vọng của họ,rồi đồng nghĩa tham vọng với ý trời.

247. Làm sao em biết phải theo tôn giáo nào hay bậc thầy nào?

- Em nên lắng nghe lời Phật trao đổi với Kalamas về vấn đề này,Phật dạy:“Nếu chưa dứt khoát phải theo đạo nào,cần phải do dự,có quyền để do dự, đừng vì truyền thống,lời đồn mà tin theo;đừng vì kinh sách chưa được kiểm chứng mà tin theo; đừng vì người ta tin theo mà mình tin theo;đừng vì ý kiến của người chuyên môn mà tin theo;đừng vì sự kính trọng về vị nào đó rồi tin theo,mà cần phải tìm hiểu,chiêm nghiệm,gạn lọc,rồi mới tin theo.”

248. Như vậy quá khó. Em nhỏ, chưa có kinh nghiệm, học vấn tháp kém, làm sao quan sát, kiểm chứng, gạn lọc?

- Nếu vậy em nghe câu kinh sau đây: Đừng làm những điều ác,hại mình,hại người(Chư ác mạc tác).Làm các điều lành,lợi mình,lợi người(Chúng thiện phụng hành).Thanh tịnh hóa,làm trong sạch ý tưởng,tâm trí của mình(Tự tịnh kỳ ý).

- Theo Phật Giáo,hành động ác phát xuất từ tham,sân,si, ích kỷ,hại mình,hại người.Hành động thiện phát xuất từ lòng từ bi,thương mình,thương người,khoan dung,hòa nhã.Luôn luôn kiểm điểm tâm trí mình,không dối mình,dối người,đi theo đường thiện,đường chánh.

- “Chư ác mạc tác,chúng thiện phụng hành,tự tịnh kỳ ý”là Phật Giáo,là châm ngôn cho cuộc sống.

249. Ở trên có đề cập đến đạo lý Thập Nhị Nhân Duyên với yếu tố đầu tiên là Vô Minh. Như vậy phải chăng vô minh là nguyên nhân đầu của hiện hữu, của sự khổ đau?

- Trong thuyết Nhân Quả của Phật Giáo,không chủ trương có nguyên nhân đầu tiên,vì thực sự không có nguyên nhân đầu tiên.Vì nếu có nguyên nhân đầu tiên thì cái gì trước nguyên nhân đầu tiên ấy?Và cứ như vậy hoài ta vẫn không tìm ra nguyên nhân đầu tiên.

- Tiến trình hiện hữu như được trình bày trong Thập Nhị Nhân Duyên,không phải là tiến trình hàng dọc qua thời gian và không gian,vì thời gian hay không gian chỉ là quan niệm tương đối,trong quá khứ có hiện tại,trong hiện tại có vị lai,trong vị lai có quá khứ.Đông Tây Nam Bắc,trên dưới là những vị thế tương đối trong không gian.Theo luận lý này thì Vô Minh là Hành…là Ái…Thủ,Hữu là Vô Minh.Do đó Vô Minh không phải là yếu tố đầu tiên.

- Đạo Lý Duyên Khởi phải được trình bày bằng một vòng tròn chứ không phải bằng đường ngang hay đường thẳng.Ngay cả khái niệm vòng tròn cũng là khái niệm tương đối.

- Vô Minh là nhân của Hành mà Hành cũng là nhân của Vô Minh.Hành là Duyên của Vô Minh mà Vô Minh cũng là Duyên của Hành v.v…

- Khi Vô Minh được chấm dứt thì Ái cũng dứt.Khi Ái dứt thì Vô Minh cũng dứt.Nhân Duyên quận xoáy vào nhau,không ai là đầu,không ai là thứ.

- Ta hãy lấy một thí dụ điển hình để giải thích tiến trình duyên khởi:chiếc đồng hồ đeo tay.Thông thường ta nói chiếc đồng hồ do người thợ đồng hồ làm ra.Nhưng ta quên hỏi người thợ ấy từ đâu mà có,rồi cha mẹ người thợ ấy từ đâu mà ra.Chiếc đồng hồ làm bằng kim loại,kim loại ấy đã trải qua tiến trình nào?Có người làm đồng hồ,có kim loại,thế thì dụng cụ làm đồng hồ ở chỗ nào và v.v…Như vậy ta thấy chiếc đồng hồ là thành quả của nhiều yếu tố tụ tập,trong đó không yếu tố nào bắt đầu,không có yếu tố nào là phụ thuộc.

250. Trong đạo lý Thập Nhị Nhân Duyên, ở duyên thứ 12 là Lão Tử (già, chết) nói chết không phải là chấm dứt sự sống, chấm dứt nguồn sinh lực, mà chỉ là kết thúc một hình thức sống, một giai đoạn sống. Em muốn biết tại sao có người sống lâu, có người chết yểu?

- Điểm này được cắt nghĩa trong Luật Nhân Quả,trong thuyết Nghiệp Báo và Luân Hồi(Kamma-samsàra)của Phật Giáo.

- Nghiệp(Kamma,Karma)thường thường được hiểu là hành động có tác ý.Hành động đem lại hậu quả.Đó là luật Nhân Quả hay Nghiệp Báo.Đời sống chúng sinh liên miên từ vô thỉ.Mỗi giai đoạn của cuộc sống(thọ mạng)mở đầu bằng sự sinh và kết thúc bằng sự chết.Sinh tử nối tiếp nhau triền miên gọi là Luân Hồi(Samsara).

- Nghiệp,Tái Sinh,Luân Hồi vốn là tin tưởng có trước thời Đức Phật.Thông thường người ta tin con người có một chủ thể gọi là linh hồn,tái sinh nhiều lần qua nhiều cảnh giới,do hành động quá khứ của mình.Sau đó do sự trả báo,hay do tu tập,chủ thể ấy được gột sạch những ô nhiễm,xấu ác và được giải thoát nơi vĩnh cửu.

- Đức Phật cũng dạy về Nghiệp,Tái Sinh,Luân Hồi,nhưng lại chủ trương Vô Ngã.Ở đây chỉ có nghiệp,nghiệp báo,chứ không có một ngã thể gọi là linh hồn chịu nghiệp báo.

- Nghiệp được Ái nuôi dưỡng.Do Ái mà có Thủ nên Thủ cũng là biểu hiện của Nghiệp.Nghiệp không do ai làm ra và không làm ra ai cả.Nghiệp là sự vận hành của chính nó.Nghiệp là một hiện hữu và cũng do duyên khởi mà sinh.

251. Em vẫn còn hoang mang. Em muốn được trả lời ngắn gọn, con người từ đâu đến và sẽ đi về đâu?

- Một vấn đề trọng đại như thế này,câu hỏi con người từ đâu đến và sẽ đi về đâu mà trả lời ngắn gọn,thì làm sao trả lời được.Tốt hơn hết là ngậm câm.Có lẽ ngậm câm là câu trả lời thỏa đáng nhất.

- Nhưng thôi,dù nông cạn,tôi vẫn cố gắng trả lời.Có ba cách trả lời cho câu hỏi này. 1/Những người tin rằng ở Đấng Tạo Hóa cho rằng trước khi Tạo Hóa sinh ra người,con người không có hiện hữu chỉ nhờ Đấng Tạo Hóa sinh ra mới có.Con người đó sống hết đời mình theo sự sắp đặt của Đấng Tạo Hóa,rồi hoặc lên thiên đường vĩnh cửu,hoặc xuống địa ngục đời đời. 2/Các nhà nhân bản,khoa học gia cho rằng con người sinh ra do những nguyên nhân thiên nhiên,sống hết cuộc đời của mình,rồi trở về thiên nhiên. 3/Phật Giáo không chấp thuận hai thuyết ấy.Thuyết thứ nhất đặt cho chúng ta nhiều vấn đề có tính cách đạo đức.Nếu Đấng Tạo Hóa thánh thiện tạo sinh chúng ta,làm sao lại để cho một số người bị đui què,sứt mẻ khi mới sinh?Làm sao lại để cho những em bé phải sẩy thai?Hay thai chết trong bụng mẹ?Những kẻ bất hạnh này đã làm gì nên tội mà chịu đọa đày?Hành hoạt của con người trong khoảng thời gian 70,80 năm ngắn ngủi của cuộc đời mà phải đọa địa ngục chịu khổ mãi mãi?Mà được hưởng phước đời đời?Cách giải thích thứ hai có vẻ khoa học hơn nhưng vẫn không trả lời được những nan đề.Làm thế nào một hiện tượng rất phức tạp như tâm linh lại phát sinh từ sự gặp gỡ của tinh trùng?Khoa tâm lý thần giao cách cảm bây giờ được công nhận là một ngành khoa học,làm sao cắt nghĩa thần giao cách cảm trong một mô hình vât lý.

- Phật Giáo cho chúng ta đáp số thỏa đáng hơn về câu hỏi con người từ đâu đến và sẽ đi về đâu.Khi ta chết tâm thức của chúng ta với những khả năng,khuynh hướng, đặc tính riêng biệt đã được phát triển, được điều kiện hóa khi còn sống(Nghiệp),tái xây dựng trong cái trứng nhận tinh khí.Cá thể này phát triển,tái sinh và phát triển cá tính được điều kiện hóa bằng những đặc tính tâm thức từ trước chuyển đến môi trường mới(Tái Sinh).Cá tính sẽ thay đổi,sẽ biến dạng do nỗ lực có dụng ý(Nghiệp)và do những yếu tố điều kiện hóa như giáo dục, ảnh hưởng cha mẹ,gia đình,xã hội và rồi đến khi chết,(Sinh Tử Luân Hồi)tái lập trong quả trứng nhận tinh khí.Diễn trình sống chết,chết sống tiếp tục mãi mãi cho đến khi những nguyên nhân phát sinh ra nó-ý chí muốn sống,lòng tham ái,mê hoặc-bị diệt trừ,khi chứng đạt cảnh giới niết bàn,thoát vòng sinh tử.

252. Làm thế nào tâm thức có thể chuyển từ thân này đến thân khác?

- Hãy nghĩ tâm thức như luồng sóng điện radio.Những luồng sóng điện này không phải do lời và nhạc làm thành mà là năng lượng ở những tầng sóng khác nhau được chuyển đi,bay qua không gian,bị lôi cuốn và thâu nhận bởi đài thâu rồi phát ra thành nhạc,thành lời.Tâm thức của chúng ta cũng như vậy.Khi chết năng lực tâm thức chạy qua không gian,bị lôi cuốn và thâu nhận bởi cái trứng(của mẹ)nhận tinh khí(của cha).Nhau trứng phát triển,đi vào não trạng rồi từ đó “phát nhanh”thành một nhân cách mới.

253. Phải chăng con người mãi mãi tái sinh làm người?

- Không.Có nhiều thế giới tái sinh vào.Có người tái sinh lên trời,có người xuống địa ngục,người sinh làm ngạ quỹ,A Tu La,súc sinh hay làm người.Thuật ngữ Phật Giáo gọi là Lục Đạo.Thế giới trời,người,ngạ quỹ v.v…cho những người cùng cảnh ngộ,danh từ Phật Học gọi là Cộng Nghiệp.Có người cùng sinh ở môt cõi,như cõi người chẳng hạn,nhưng cảnh ngộ khác nhau,danh từ Phật Học gọi là Biệt Nghiệp.Trong trạng thái này Thiên Đường,ngạ quỹ không phải là cảnh giới riêng biệt mà là cảnh trạng nơi thân hình,tâm thức hưởng cảnh an vui hay khổ sở,buồn phiền,lo âu.Cảnh trạng an lạc là thế giới thiên đường của kiếp người.Cảnh trạng khổ đau là thế giới địa ngục của kiếp người.Cảnh trạng luôn luôn cảm thấy bất mãn,luôn luôn ham muốn là thế giới ngạ quỷ của kiếp người.

- Đời sống ngắn ngủi của kiếp người không trường cửu.Cảnh trạng kiếp người không trường cửu. Đời sống và cảnh trạng của thiên giới,địa ngục giới,ngạ quỷ giới v.v…cũng như vậy.Không vĩnh cửu,không thường hằng.Không có thiên đường vĩnh cửu,không có địa ngục đời đời.Tất cả đều thay đổi theo ý chí và hành động,Phật Học gọi là Nghiệp Báo.

254. Yếu tố gì quyết định ta sẽ sinh vào thế giới nào?

- Yếu tố quan trọng nhất,nhưng không phải là yếu tố duy nhất, ảnh hưởng đến việc chúng ta sẽ sinh vào đâu và đời sống tương lai của chúng ta như thế nào là Nghiệp(Karma,Kamma)như đã được giải thích ở trên.

255. Ta có thể thay đổi nghiệp?

- Lẽ dĩ nhiên.Nhưng thay đổi được hay không còn tùy vào ý chí kiên quyết,lòng thành khẩn của chúng ta.Bát Chánh Đạo là tư lương giúp ta thay đổi Nghiệp hay nói theo danh từ phổ thông,giúp ta thay đổi vận mệnh.

- Thông thường chúng ta sống trong dòng đời chịu ảnh hưởng của nghiệp lực quá khứ,không cố gắng thay đổi, để trở thành nạn nhân của kết quả bất hạnh.Chúng ta vì vậy sẽ tiếp tục chịu khổ đau trừ phi chúng ta quyết tâm thay đổi nghiệp lực,thay đổi thói quen,tập quán.

- Trong Bát Chánh Đạo có Chánh Định,một trong những kỹ thuật giúp ta hoán chuyển nếp sống tư duy,hoán chuyển thói quen về thân,về khẩu.Đời sống của người Phật tử là cốt thanh tịnh hoá tư duy,thanh tịnh hóa tâm thức.Nếu thân,khẩu, ý được thanh tịnh hóa,ta có thể thay đổi nghiệp lực.Thí dụ vì nghiệp tiền kiếp,tính tình ta hay gắt gỏng,hay giận hờn,làm đời ta và những người chung quanh ta khổ sở.Ta quyết tâm thay đổi,thay thế những tính tình ấy bằng từ bi,hỷ xả.Mội lần ta sắp sửa sân giận,thù oán,ta phân tích,chiêm nghiệm,thay thế chúng bằng từ bi,hỷ xả.Nếu kiên trì và tùy theo mức độ ý chí thành khẩn,tính nóng giận,gắt gỏng sẽ được thay đổi.Ta dần dần chuyển nghiệp.

256. Nói về luân hồi, em không thấy có bằng chúng gì sau khi chết em sẽ tái sinh.

- Không những bằng chứng khoa học mà còn nhiều câu chuyện về kiếp trước chứng minh giáo lý Nghiệp Báo,Luân Hồi của Phật Giáo là đúng.Thí dụ tại nước Anh có một em gái 5 tuổi,có thể nhớ nhiều chi tiết về kiếp trước.Em nhớ kiếp trước ở đâu,tên tuổi của những người láng giềng.Em nhớ em bị tai nạn xe hơi,bị thương tích nặng và chết sau hai ngày.Khi người ta kiểm chứng lại những điều này,mới biết những điều em nói đều là sự thật.Có một căn nhà trên con đường, ở một làng bên Tây Ban Nha như em diễn tả,tại đó,trước đó 5 năm,một phụ nữ 23 tuổi sống trong ngôi nhà ấy đã bị xe đụng chết.Làm thế nào một em bé 5 tuổi sống ở Anh có thể diễn tả những gì xảy ra ở Tây Ban Nha cách đó 5 năm một cách chính xác như vậy?

- Còn nữa.Giáo sư Ian Stevenson,thuộc trường Đại Học Virginia,Khoa Tâm Lý,tả hàng chục trường hợp thuộc loại này trong những quyển sách của ông.Giáo sư Stevenson là một nhà khoa học có tiếng,suốt 25 năm dành thì giờ nghiên cứu về những câu chuyện của những người nhớ đến kiếp trước của mình.

257. Ngoài giáo sư Stevenson, còn có nhà khoa học nào tin ở thuyết Nhân Quả, Luân Hồi?

- Vâng,rất nhiều.Như ông Thomas Huxley,nhà khoa học gia Anh,người đã đưa môn khoa học vào chương trình giáo dục Anh,tác giả của quyển sách danh tiếng Evolution and Ethics(Tiến hóa và Đạo đức),người đã biện hộ cho thuyết Tiến Hóa của Darwin;Giáo sư Gustaf Stromberg,nhà vật lý,thiên văn nổi tiếng người Thụy Điển;Giáo sư Julian Huxley,nhà khoa học Anh,Tổng Giám Đốc UNESCO;ngay cả ông Henry Ford,nhà kỷ nghệ gia nổi tiếng Hoa Kỳ cũng đều tin vào thuyết Nhân Quả,Luân Hồi.

258. Sau đạo lý Thập Nhị Nhân Duyên, Luân Hồi, Nghiệp Báo, Phật dạy gì thêm cho 5 ông Kiều Trần Như?

- Vài ngày sau khi thuyết giảng Kinh Chuyển Pháp Luân,tại Vườn Lộc Uyển, đức Phật nói về đặc tính của cuộc đời,trong bài Kinh Vô Ngã(Anatta-Lakkhana Sutta),cho biết mọi hiện tượng luôn luôn chuyển biến,không thường trụ(Vô Thường:Anicca),mọi hiện tượng đều sinh diệt, đều khổ đau(Khổ:Dukkha),mọi hiện tượng đều không thực, đều giả hợp(Vô Ngã:Anatta).

259. Xin cắt nghĩa thêm cho em về giáo lý Vô Thuờng và Vô Ngã.

- Sinh mệnh hay đời sống con người do Phật giảng dạy cho 5 ông Kiều Trần Như,trong bài pháp thứ hai tại Vườn Lộc Uyển có thể tóm tắt trong hai câu:

Những gì có sinh thì có diệt.

Vạn vật đều vô thường,biến đổi, đều khổ đau và

Không có chủ thể.

- Vô Ngã.Giáo Lý Duyên Khởi là nền tảng,bác bỏ sự tin tưởng vào một linh hồn bất tử,hữu ngã, độc lập. Đạo lý Vô Ngã phân tích cái mà ta gọi là “con người”,hay cái “ta”dưới khía cạnh vật lý và tâm lý qua không gian.Con người do 5 uẩn là sắc,thọ,tưởng,hành,thức,kết hợp tinh thần và tâm thức mà thành,không có một cái “ta” độc lập,không khác gì những giọt nước tạo thành dòng sông mà không có một dòng sông độc lập.

- Trong Kinh Na Tiên Tỳ Kheo(Milinda-Panha),đại sư Nagasena lấy chiếc xe làm thí dụ để giải thích đạo lý vô ngã cho vua Milinda:chiếc xe không phải bánh xe,chấu xe hay bất kỳ bộ phận riêng biệt nào khác mà là sự tập hợp của nhiều bộ phận,nhiều yếu tố.

-René Descartes nói “Tôi suy nghĩ vì vậy tôi hiện hữu”(Cotigo ergo sum).Câu này theo giáo lý Vô Ngã phải được đổi thành: “Tôi hiện hữu vì tôi nghĩ là tôi hiện hữu”.

- Vô Thường.Trong khi giáo lý Vô Ngã phân tích hiện tượng qua không gian,giáo lý Vô Thường phân tích qua thời gian.Cuộc đời được ví như dòng thác đổ,thay đổi không ngừng,không có cái bất động,thường hằng mà chỉ có cái trở thành(becoming).Phật đã làm sáng tỏ đạo lý vô thường trong bài Kinh ở bộ Anguttaranikaya(An.III,70): “Cuộc đời ngắn ngủi,giới hạn,phù du, đầy khổ não,giống như giọt sương buổi sáng tan đi khi mặt trời vừa mọc;như bọt nước,như đường vạch trên nước,như dòng thác cuốn trôi đi những gì nó gặp phải và trôi chảy mãi không ngừng;như con vật tại lò sát sinh,sợ sệt đương đầu với sự chết.”

- Giáo lý Vô Ngã,Vô Thường không những nói rõ thực tính của vạn hữu mà còn có giá trị đạo đức:Xác nhận một cách hùng hồn con người không có tự ngã,đức Phật muốn con người thấy rõ thực tại để không còn kiêu căng.

260. Những giáo lý đề cập ở trên có thể gọi là giáo lý căn bản, phổ cập trong Phật Giáo Nam Tông cũng như Phật Giáo Bắc Tông. Trong những đề tài căn bản ấy, em muốn biết cách nhìn của các giáo phái Phật Giáo.

- Đề tài quán chiếu thật không thể kể xiết.Lấy một thí dụ về Phật.Các giáo phái quan niệm về Phật khác nhau,từ đức Phật lịch sử,một đạo sư thánh thiện dẫn đường,dần dần biến thành thánh nhân,rồi siêu nhân;từ một đức Phật nhập diệt tại Kusinagara trở thành đức Phật vô sinh,vô tử,vô khứ lai.Đức Phật lịch sử chỉ là hóa thân trong đạo lý Tam Thân,đức Phật lịch sử chỉ là một trong vố số Phật.

261. Thế nào là đạo lý Tam Thân?

- Phật là đấng giác ngộ,diệt trừ vô minh,chứng đắc niết bàn,hòa nhập bản thể uyên nguyên, đó là Phật Tính,đó là Pháp Thân Phật(Dharma-kaya),thường hằng,vô tận,không hình tướng. Đức Phật có 32 tướng tốt,thanh tịnh,trang nghiêm,chịu mọi báo ứng sinh lão bệnh tử như Phật Thích Ca,đó là Báo Thân Phật(Sambhoga-kaya). đức Phật vì hạnh nguyện độ sinh,thị hiện mọi hình tượng,khi làm Bồ Tát,khi làm chim,làm thú,hóa độ chúng sinh thoát cảnh sinh tử,luân hồi,đó là Ứng Thân Phật hay Hóa Thân Phật(Rupa-kaya hay Nirmanakaya).

262. Trong vô số Phật, em thường nghe đề cập đến năm vị Phật cùng Bồ Tát và thánh Tara trong Mật Giáo. Xin giải thích về điểm này.

- Như trong đạo lý Tam Thân Phật nói trên,thì Đức Phật Thích ca chỉ là hiện thân của Phật Tính Thanh Tịnh.Phật tính thanh tịnh là bản thể,là Pháp Thân,là Tối Thượng Phật,là A Đề Phật(Adi-Buddha).Từ Pháp Thân Phật,từ A Đề Phật thị hiện nhiều hình tướng để phục vụ chúng sinh trong nhiều thế giới,thế giới chính giữa có Đại Nhật Phật hay Tỳ Lô Giá Na Phật(vairocara)tức Thường Trụ Tam Thế Diệu Pháp Thân;thế giới phương Đông có đức Bất Động Như Lai hay A Súc Phật(Aksobhya),tức Kim Cang Kiên Cố Tự Tánh Thân;thế giới phương Nam có Đức Bảo Sinh Phật(Ratanasambhava)tức là Phước Đức Trang Nghiêm Thân;thế giới phương tây có Đức Vô Lượng Thọ Phật(Amitiyus)tức là Thọ Dụng Trí Huệ Thân;thế giới phương bắc có đức Bất Không Thành Tựu Phật(Amoghasiddhi)tức là Tác Biến Hóa Thân.

- Đức Tối Thắng Phật hay Adi Buddha thống lãnh tất cả Thiền Na Phật(Dhyani Buddhas)và chư Thiền Na Bồ Tát(Dhyani Bodhisattvas)cùng thánh Tara,vì tất cả đều là sự hoá hiện của Adi Buddha.

263. Em thấy sự hóa hiện của chư Phật, chư Bồ Tát có vẻ thần bí, xa dần hình ảnh quen thuộc của Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni.

- Phật là Giác,là ánh sáng giác ngộ.Ánh sáng chan hòa khắp nơi,khắp tam thiên đại thiên thế giới,vì vậy tam thiên đại thiên thế giới đều có Phật.Tam thiên đại thiên thế giới được thu gọn trong năm hướng: đông,tây,nam,bắc và chính giữa.

- Ánh sáng được nhân cách hóa hay đúng hơn Phật hoá,nên có 5 vị Phật và vô số Phật.

- Hàng Bồ Tát là những vị Phật nhưng chưa thành Phật vì muốn dấn thân cứu độ chúng sinh.Hạnh nguyện cứu độ chúng sinh được Bồ Tát Hóa thành các vị Bồ Tát,vây quanh chư Phật,giúp Phật cứu độ quần sinh.

- Hạnh nguyện đại bi được nhân cách hóa hay Bồ Tát Hoá trong hình ảnh đức Quán Thế Âm, Ánh sáng trí tuệ trong hình hài của Bồ Tát Văn Thù v.v…

264. Giáo lý Phật Giáo bao la, lien quan đến nhân sinh quan, vũ trụ quan, đến phương thức hành trì. Có cách nào tóm gọn cho em hiểu sơ qua được không?

- Thật rất khó,nhất là trong hình thức vấn đáp.

- Giáo lý Phật liên quan đến nhiều vấn đề như sáng thế luận,vũ trụ luận;về thực tại luận,về mạt luận(tận thế luận);về tâm thức luận,về trung đạo luận,về biện chứng luận(luận lý học,nhân minh luận);về kiến đạo,về tu đạo v.v…

- Tuy nhiên ta có thể tóm thâu giáo nghĩa qua 11 tông phái chính, đó là Câu Xá Tông,Thành Thật Tông,Pháp Tướng Tông,Tam Luận Tông,Hoa Nghiêm Tông,Thiên Thai Tông,Chân Ngôn Tông,Thiền Tông,Tịnh Độ Tông,Nhật Liên Tông,Luật Tông.

265. Cho em biết qua về Câu Xá Tông.

- Câu Xá Tông được thành lập tại Trung Quốc,dựa vào Bộ Luận Câu Xá(Abhidhamma-Kosa)của Thế Thân(Vasibandhu).

- Trong khi Thượng Tọa Bộ(Theravada)phát triển ở phương Nam, đặc biệt tại Tích Lan,thì một trường phái khác,phái Vaibhasika(Tỳ Bà Sa Phận Biệt Thuyết),một bộ phái của Tiểu Thừa Nhất Thiết Hữu Bộ(Sarvastivada),thịnh hành tại phương Bắc,nhất là tại Kashmir,thời vua A Dục,thế kỷ thứ ba trước kỷ nguyên.

- Phái Vaibhasika dùng danh xưng Vaibhasika được Kàtyayàniputra(Ca Đa Diễn Ni Tử)biên soạn vào thế kỷ thứ hai sau kỷ nguyên.những luận sư nổi danh của giáo phái là: 1/Ngài Asvaghosa(Mã Minh)thế kỷ thứ nhất hay thứ hai sau kỷ nguyên,người đã dùng văn tự sanscrit biên soạn bộ Tỳ Bà Sa. 2/Ngài Vasubhandhu(Thế Thân),thế kỷ thứ năm,tác giả bộ Abhidhammakoso(A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận)xiển dương giáo nghĩa Tỳ Bà Sa và bác bỏ hệ thống Sankhya(Số Luận,Nhị Nguyên Luận,một nền triết học tối cổ Ấn Độ). 3/Gunaprabha,thế kỷ thứ bảy,quốc sư của vua Harsha.

- Bộ Luận Tỳ Bà Sa được dịch ra tiếng Trung Hoa vào năm 383-434.Bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá và Luận Sớ được dịch ra tiếng Trung Hoa vào năm 563-567 và 651-654.

- Nhất Thiết Hữu Bộ(Sarvastivada)lúc đầu liên hệ chặt chẽ với Thượng Tọa Bộ,sau tách rời khỏi Thượng Tọa Bộ trong Kỳ Kết tập III,chủ trương các pháp thực hữu, đều hiện thực.

266. Nội dung của bộ luận Câu Xá như thế nào?

- Luận Câu Xá theo bản dịch Trung Hoa gồm có 9 phần,giải thích,khai triển: 1/Về các pháp(phân biệt giới). 2/Về các quan năng(phân biệt căn). 3/Về thế giới(Phân biệt thế gian). 4/Về các nghiệp(phân biệt nghiệp). 5/Về các phiền não(phân biệt thùy miên). 6/Về thánh và đạo(phân biệt hiền thánh). 7/Về tri thức(Phân biệt trí). 8/Về tư duy(phân biệt định). 9/Về Ngã(phá ngã).

267. Cho em biết đại cương giáo nghĩa của Câu Xá Tông.

- Tông Câu Xá,thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ,thuộc Thượng Tọa Bộ,thuộc Phật Giáo Tiểu Thừa, được Chân Đế thành lập tại Trung Quốc thay thế cho Tỳ Đàm Tông, đã có tại Trung Quốc vào cuối thế kỷ thứ tư, đến thế kỷ thứ năm.

- Bộ Câu Xá Luận của Thế Thân được Chân Đế(Paramartha)dịch năm 563-567 và lại do Huyền Trang dịch năm 651-654.

- Tại Nhật,tông phái này được gọi là Kusha,do Trí Thông (Chitsu)và Trí đạt(Chitasu)người Nhật theo học với Huyền Trang,trở về nước thành lập năm 658.Về sau tông phái này lại được truyền vào Nhật Bản lần thứ hai,năm 735 do Huyền Phương(Gembo), đồ đệ của Trí Châu(đồ đệ đời thứ ba của Khuy Cơ(đồ đệ của Huyền Trang)).Câu xá Tông không được xem như là một tông phái độc lập tại Nhật Bản mà liên hệ với Pháp Tướng Tông.

- Luận Câu Xá được Jinamitra dịch ra Tạng ngữ.

- Bản liệt kê các pháp của Luận Câu Xá tương tự như trong Thắng Pháp Thập Yếu Luận của Anuridha,thế kỷ thứ 8,A Tỳ Đàm Tâm Luận của Dharmottara(Hán dịch năm 391) và của Dharmatrata(Hán dịch 426)và Thành Thật Luận của Harivarman,thế kỷ thứ ba,thứ tư.

- Câu Xá Tông chủ trương các pháp gồm cả tâm và vật là thực hữu,thừa nhận thực tại tính của các pháp ,tuy không có tự thể,không thường hằng,không phúc lạc trừ Niết Bàn,khai triển đạo lý Vô Thường,Vô Ngã,Khổ và Niết Bàn.

268. Cho em biết về Thành Thật Tông.

- Thành Thật Tông thuộc Nhất Thiết Không Tông(Sarvasunyavada),thuộc Kinh Lượng Bộ,thuộc Hư Vô Luận,thuộc Tiểu Thừa Không Tông.

- Kinh Lượng Bộ(Sautranika)tách rời khỏi Nhất Thiết Hữu Bộ vào hậu bán thế kỷ 1 trước kỷ nguyên,phát triển mạnh khi Bộ Thành Thật Luận(Satyyasiddhi-sastra)của ngài Harivarman(Ma Lê Bạt Ma)ra đời vào thế kỷ thứ ba.

269. Cho em biết về bộ Thành Thật Luận và giáo nghĩa Thành Thật Luận.

- Bộ Thành Thật Luận(Satyasiddhi) được Cưu Ma La Thập(Kumaràjiva)dịch sang tiếng Trung Hoa vào năm411-412, được nghiên cứu tỉ mỉ qua 12 sớ giải từ năm 411 đến 498.

- Thành Thật Tông được Huệ Quán(Ekwan)người Cao Ly truyền vào Nhật Bản năm 625.Vị này được mời làm Tăng Thống đầu tiên tại Nhật Bản.Thành Thật Tông được nghiên cứu tỉ mỉ tại các trường Phật Học và Đại Học nhưng không được xem là một tông phái độc lập mà liên hệ với Tam Luận Tông.

- Bộ Luận Thành Thật chia vạn pháp thành 84 thay vì 75 của Câu Xá Tông.Thành Thật Tông chống lại quan điểm của hữu bộ,của câu xá cho quá khứ,hiện tại,vị lai là thực hữu,các pháp đều thực hữu.Thành Thật Tông chủ trương chỉ có hiện tại là thực hữu,quá khứ và vị lai là vô thể;chủ trương chân đế,tục đế.

- Trong 18 bộ phái tại Ấn Độ,Thành Thật Tông thuộc kinh Lượng Bộ,lấy Kinh Tạng làm điểm tựa,chống lại thực hữu luận của Hữu Bộ(Sarvastivada), đối lập với Câu Xá Tông,chủ trương không có gì hiện hữu,kể cả tâm và vật. Đây là phái Tiểu Thừa không luận hay hư vô luận.Thành Thật Tông trên phương diện này gần với Phật Giáo Nguyên Thỉ hơn Hữu Bộ,chủ trương Vô Ngã,Vô Thường,Khổ và Niết Bàn tịch tịnh.

270. Cho em biết về Pháp Tướng Tông.

- Pháp Tướng Tông thuộc Duy Thức Tông(Vijnaptimatrata,thuộc Du Già Tông(Yogacara)),quyền Đại Thừa.

- Phái Yogacara(Du Già)do ngài Vô Trước(Asanga)anh ruột của Thế Nhân(Vasubandhu),tác giả bộ Du Già Sư Địa Luận(Yogacara-Bhùmi)thành lập vào thế kỷ thứ ba hay thứ tư,bác bỏ quan điểm thực hữu của Tiểu Thừa Phật Giáo.Phái Yogacara còn có danh xưng khác là Vijnanavada(Duy Thức Tông hay Pháp Tướng Tông),quan niệm vạn vật không tồn tại độc lập.Du Già Tông được xem như là quyền Đại Thừa,chưa hẳn là Đại Thừa Phật Giáo.

- Tại Ấn Độ đầu tiên tông phái này được gọi là Yogacara(Du Già Tông)chỉ cho sự thực hành về phép quán tưởng.

271. Xin cho biết sơ qua về việc hình thành Pháp Tướng Tông.

- Tiền thân của Pháp Tướng Tông là Nhiếp Luận Tông(Samparigraba).Bộ Nhiếp Đại Thừa Luận(Mahayànasamparigraba)của Vô Trước viết vào thế kỷ thứ 5 và bộ chú giải của Thế Nhân được Phật Thủ(Buddhasanta)dịch sang Hán văn năm 531,được Chân Đế(Paramartha)dịch năm 563,được Huyền Trang dịch năm 648-649.Bản dịch thứ hai của Chân Đế làm căn bản cho Nhiếp Luận Tông tại Trung Quốc.

- Chân Đế thiết lập Câu Xá Tôngvà Nhiếp Luận Tông tại Trung Quốc.Nhiếp Luận Tông dựa vào Nhiếp Đại Thừa Luận.Nội dung của Nhiếp Đại Thừa Luận và bản chú giải của Thế Nhân là những bộ sách đầu tiên diễn đạt học thuyết Duy thức,đặt trọng tâm vào 10 đặc điểm của Đại Thừa, đó là: 1/A Lại Da Thức,từ đó tất cả các pháp hiện khởi. 2/Học thuyết về duy thức:các pháp không có tương hệ tánh,phân biệt tánh,ngay cả chân thật tánh. 4/Lục Độ Ba La Mật. 5/Thập Địa Bồ Tát. 6/Giới. 7/Định. 8/Tuệ. 9/Vô phân biệt trí. 10/Tam thân Phật.

- Nhiếp Luận Tông được thay thế bởi Pháp Tướng Tông do Huyền Trang và đệ tử Khuy Cơ sáng lập.

- Phái Du Già tại Ấn Độ có ba dòng truyền thừa: 1/Thế Thân-Trần Na(Dignàga),thế kỷ thứ 5-Vô Tánh(Agotra)-Hộ Pháp(Dharmapàla,439-507)-Giới Hiền(Sìlabhadra), Đại Học Nalanda-Huyền Trang. 2/Thế Thân-Đức Tuệ(Gunamati),An Huệ(Sthiramati), Đại Học Valabhi-Chân Đế. 3/Thế Thân-Nanda(Nanda)-Thắng Quân.

- Duy Thức Tông được truyền vào Nhật Bản bốn đợt: 1/Đạo Chiêu(Dosho 628-700),người Nhật, đến Trung Quốc năm 553 thọ giáo với Huyền Trang,trở về nước năm 663 cùng với đệ tử là Hành Cơ(Giogi 667-748),thành lập Duy Thức Tông tại Nhật. 2/ Trí Thông(Chitsu),Trí Đạt(Chitatsu)người Nhật sang Trung Quốc năm 654 học đạo với Huyền Trang và Khuy Cơ,sau về nước truyền bá Duy Thức Tông. 3/ Trí Phung(Chiho)người Triều Tiên,cùng đồng đạo Trí Loan(Chiran)và Trí Hùng(Chio),học đạo với Huyền Trang, đến Nhật năm 703 truyền Duy Thức cho Nghĩa Uyên(Giyen,mất năm 724). 4/Huyền Phương(Gembo) đến Trung Quốc năm 616,học pháp với Trí Châu(688-723),một đệ tử của Khuy Cơ,trở về nước năm 735,truyền pháp cho Huyền Tông(Genju,723-797), được xem như dòng truyền chính thống của Duy Thức Tông Nhật Bản.

272. Xin cho biết giáo nghĩa của Pháp Tướng Tông.

- Duy Thức Tông của Thế Thân là hệ thống Du Già được cải biến và văn bản chính yếu là Bộ Duy Thức Tam Thập Tụng(Vijnaptimatratrimsika)của Thế Thân,trong đó 24 bài tụng đầu nói về tướng(Svalaksana)của các pháp, hai bài kế tiếp nói về tánh(Svabhava)của các pháp và bốn bài tụng cuối cùng nói về giai đoạn của hàng thánh giả.Thành Duy Thức Luận(Vijnaptimatratasaddhi)của Hộ Pháp là bộ luận căn bản của Duy Thức Tông.

- Duy Thức Tông quan niệm ba giới chỉ là hiện hữu trong thức,có thể được chứng minh bằng những lời dạy trong Kinh Hoa Nghiêm(Avatamsaka).

- Làm sao chứng minh ba giới chỉ là sản phẩm của tâm thức trong khi mỗi vật phát hiện một cách xác định ở một chỗ(không gian)và vào một lúc(thời gian)nào đó mà không ở tất cả mọi nơi và tất cả mọi lúc?Tại sao tất cả mọi loại đều nhìn thấy được cùng một vật và sự nhận hiểu vật đó gây cho họ một tác dụng giống nhau?

- Duy Thức Tông trả lời trong giấc mộng vốn không có thực tại,nhưng người nằm mộng thấy một chỗ nhất định dựa vào lúc nào đó với tất cả những bối cảnh chung quanh(Biến Kế Sở Chấp Tánh),có thể tác dụng thể xác như đổ mồ hôi,la hét hay nhảy múa.Lại nữa nhiều người cùng thấy đối tượng nhất định giống nhau,bởi vì có cùng chung nghiệp ở quá khứ.

- Duy Thức Tông không công nhân mọi chúng sinh đều có Phật tính,,trong đó hàng Nhất Xiển Đề(Icchantika,kẻ không có lòng tin,làm ác không biết hổ thẹn,không chịu hối cãi,không tin nhân quả luân hồi,không muốn gần thiện hữu)không bao giờ thành Phật.

- Duy Thức Tông quan niệm bản thể không liên hệ gì với hiện tượng.Chân Như trạm nhiên và không tạo ra các pháp,khác với Nhiếp Luận Tông trong Khởi Tín Luận của Mã Minh cho rằng Chân Như bị vô minh ô nhiễm trong trạng thái Tạng Thức bao gồm chân,vọng.Chân Như là tánh và Tạng Thức là tướng.Chân Như là viên Thành Phật(Parinispana),trong khi A lại Da Thức là y tha khởi,tức là dựa vào các pháp mà khởi lên(Paratantra).

- Y Tha Khởi và Biến Kế Sở Chấp(Parikalpita) đều là tướng(Laksana),Viên Thành Phật không phải là tưóng mà là vô tướng(Alaksana),là Tự Tánh(Svabhàva).

- Câu Xá Tông chủ trương nghiệp cảm duyên khởi,Pháp Tướng Tông chủ trương A Lại Da duyên khởi(duy thức duyên khởi) để cắt nghĩa đạo lý nhân quả,nghiệp báo.

273. Cho em biết về phái Tam Luận Tông.

- Tam Luận Tông thuộc Thuyết Nhất Thiết Không,thuộc Bán Đại Thừa,thuộc Đại Thừa phủ định luận,hay Không Luận(Sunyavàda) hay tương đối luận,lấy Trung Quán Luận(Madhyamika,hay học thuyết Trung đạo)làm nền tảng. Ở Trung Quốc tông phái này đuợc gọi là San Lun(Tam Luận), ở Nhật Bản tông gọi là Sanron,lấy ba tác phẩm căn bản chuyên về học thuyết trung đạo, đó là Bộ Trung Quán Luận(Madhyamikasastra),Thập Nhị Môn Luận(Dvadasa-dvàra)của Long Thọ,Bách Luận(Satasastra)của Đề Bà(Aryadeva), đệ tử của Long Thọ.Về sau thêm bộ Đại Trí Độ Luận(Prajnaparamitasatra)của Long Thọ thành Tứ Luận Tông.

274. Cho em biết về diễn trình thành lập Tam Luận Tông tại Trung Quốc và Nhật Bản.

- Lịch sử Tam Luận Tông bắt đầu ở Trung Quốc với sự xuất hiện của Cưu Ma La Thập.Người có công đặt nền tảng vững chắc là Tăng Lãng và đệ tử là Cát Tạng.Cát tạng là tác giả của nhiều luận sớ về Tam Luận,như Tam Luận Sớ,Tam Luận Huyền Nghĩa, Đại Thừa Huyền Luận,Nhị Đế Chương,120 bộ Sớ Giải về Hoa Nghiêm,Thắng Man(Srimata),Tịnh Danh(Vimalakirti,Duy Ma Cật), Đại Vô Lượng Thọ Kinh,Quán Vô Lượng Thọ Kinh,Kim Cang Kinh,Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh,Di Lặc Hạ Sinh Kinh,Nhân Vương Kinh…

- Vào thế kỷ thứ 7,Huệ Quán(Ekwan)người Cao Ly, đồ đệ của Cát Tạng sang Nhật năm 625,giảng truyền Tam Luận.Lần truyền thừa thứ hai do Trí Tạng(Chizoa), đồ đệ của Huệ Quán.lần thứ ba do Đạo Từ(Doji) đồ đệ của Nguyên Khang. Ở Nhật Tam Luận Tông không trở thành một tông phái độc lập,nhưng được nghiên cứu một cách nồng nhiệt vì lý luận biện chứng sắc bén.

- Đóng góp vào nền triết học Trung Quán,ngoài những vị kể trên còn có 1/Matrceta,thế kỷ thứ hai. 2/Buddhapalita,thế kỷ thứ năm. 3/Bhavaviveka,thế kỷ thứ năm. 4/Candrakirti,thế kỷ thứ 7. 5/Santideva,thế kỷ thứ 7,8. 6/Sarvajnamitra.

- Học thuyết Tam Luận Tông có ba phần: 1/Phá tà hiển chánh. 2/Phân biệt chân đế và tục đế. 3/Bát bất trung đạo,một phương thức lý luận bác bỏ tri kiến cục bộ,không ẩn trú ở định kiến nào,không trừu tượng hóa cái Không,không đắm trước vào thành tựu đặc hữu,không thừa nhận tự tính và không mong cầu phước lợi.

275. Xin cho biết sơ qua về giáo nghĩa của Tam Luận Tông.

- Tam Luận Tông dùng phương thức biện chứng phủ định(dialectical negation) để xiển dương giáo nghĩa Tam Luận,bác bỏ quan điểm sai lầm của các giáo phái Ấn Độ,quan điểm chật hẹp hay thiên kiến của Tiểu Thừa,các kiến giải độc đoán của các tác giả Đại Thừa.

- Mục đích của Tam Luận Tông là 1/Phá tà hiển chánh. 2/Phân biệt chân đế và tục đế. 3/Dùng tám phương thức phủ định để xiển dương thuyết trung đạo,gọi là”Bát Bất Trung Đạo.”

- Phá tà là bác bỏ những quan điểm sai lầm của các luận sư Bà La Môn về Ngã(Atman),về đa nguyên luận của các luận sư A Tỳ Đàm,về những nguyên tắc độc đoán của các luận sư Đại Thừa.

- Hiển chánh là xiển dương con đường trung đạo,con đường xa lìa danh tướng,qua thuyết Chân Đế và Tục Đế.Chân đế quan niệm các pháp đều không.Tục đế quan niệm các pháp do nhân duyên sinh.Chân đế và Tục đế là phương tiện giảng dạy,vì mục tiêu giáo hóa.Thuyết Bát Bất cũng hướng vào mục tiêu tương tợ:bất sinh,bất diệt,bất lai,bất khứ,bất thường,bất đoạn,bất nhất,bất nhị để đạt được trí tuệ viên mãn,trí tuệ đối lập với tất cả kiến thức cục diện.

- Bằng phương pháp phủ định có nghĩa là không có tri kiến cục bộ,không ẩn trú ở định kiến nào,không trừu tượng hóa cái Không,không đắm trước vào thành tựu đặc hữu,không thừa nhận tự tính,không cầu phúc lợi nào cả(vì phúc lợi cũng trong vòng tương đối,cục diện).

276. Xin cho biết về Hoa Nghiêm Tông.

- Hoa Nghiêm Tông dựa vào Kinh Hoa Nghiêm(Avatamsaka) để thành lập, được dịch ra Hán Văn ba lần gồm Bát Thập(80 tập),Lục Thập(60 tập) và Tứ Thập Hoa Nghiêm(40 tập).Nguyên bản chữ Phạn của Bát Thập và Lục Thập hiện nay chưa tìm thấy.Nguyên bản tiếng Phạn của Bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm là Gandavyùha(Nhập pháp giới phẩm)do Nhật Chiếu(Divakara 613-687)năm 680 mang đến Trung Quốc,mô tả cuộc chiêm bái của Thiện Tài(Sudhana),thăm viếng 53 thánh địa.Mục đích của cuộc chiêm bái là để chứng ngộ nguyên lý Pháp Giới(Dharmadhàtu).Trong kinh đề cập Bồ Tát Văn Thù(Manjusri)ngự trên núi Thanh Lương(núi Ngũ Đài Sơn) ở Trung Quốc,thuyết pháp mọi thời.

- Theo truyền thống Đại Thừa thì kinh Hoa Nghiêm được Phật giảng sau khi thành đạo,nhưng căn cơ chúng sinh quá thấp không thể thâm nhập,Ngài mới nói Kinh Chuyển Pháp Luân,nói bốn A Hàm và các giáo lý khác.

- Danh từ Mãn Châu(Manchuria)phát xuất từ chữ Manjusri(Văn Thù).Danh từ Thanh Triều phát xuất từ chữ Thanh Lương Sơn(Ngũ Đài Sơn)nơi ngài Văn Thù ngự trị, thuyết pháp.

277. Xin cho biết qua diễn trình thiết lập Hoa Nghiêm Tông tại Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản.

- Trước Hoa Nghiêm tại Trung Quốc đã có một giáo phái tên là Địa Luận Tông,dựa vào bản luận giải của Thế Thân về Thập Địa Kinh(Dasabhùmi Sutra).

- Địa Luận Tông sai sáp nhập với Hoa Nghiêm Tông do Đỗ Thuận thành lập, được đệ tử tài ba như Trí Nghiễm(602-668)và đệ tử của Trí Nghiễm là Pháp Tạng(643-712)khai triển,hệ thống hóa toàn vẹn giáo lý Hoa Nghiêm.

- Trong số đệ tử của Trí Nghiễm có Nghĩa Tương(625-702)người Cao Ly sau khi đắc pháp trở về Cao Ly thiết lập Hoa Nghiêm Tông tại Cao Ly.

- Năm 730 Đạo Tuấn, đệ tử của Pháp Tạng,năm 740 Thẩm Tường(Shinsho),người Cao Ly, đệ tử của Pháp Tạng đến Nhật hoằng hóa giáo lý Hoa Nghiêm.Năm 735 Bồ Đề Tiên Na(Bodhisena)người Ấn cùng một nhạc sĩ người Mã Lai tên là Phật Triệt đến Trung Quốc muốn được đảnh lễ Ngài Văn Thù,nhưng hay tin ngài Văn Thù đã qua Viễn Đông,liền sang Nhật Bản để kiếm ngài.Bồ Đề Tiên Na giảng giáo lý Hoa Nghiêm tại chùa Đại An(Daianji),Nara.

- Tại Nhật Bản Thiên Hoàng Thánh Vũ(Shomu,724-748)có ý cai trị Nhật Bản bằng lý viên dung của Hoa Nghiêm Tông,nhưng dân chúng không muốn lẫn lộn giữa đạo và chính trị.

278. Xin cho biết đại cương giáo nghĩa Hoa Nghiêm.

- Hoa Nghiêm Tông triển khai đạo lý viên dung.Pháp giới duyên khởi là tụ điểm của những thuyết lý nhân quả.Nguyên tắc duyên khởi được giải thích từ Nghiệp Cảm Duyên Khởi.Nghiệp phát khởi trong tạng thức nên đến A Lại Da duyên khởi.A Lại da là tướng của Chân Như nên đến Như Lai Tạng(Tathàgatagarbha)duyên khởi.Pháp giới duyên khởi cho rằng vũ trụ cộng hữu trên phổ quát,tương hệ trên đại thể,hiện khởi trong giao hỗ,không hiện hữu một cách độc lập.Do đó 12 nhân duyên được hiểu như là một chuỗi dây tương liên trong thời gian,liên hệ giữa cái này và cái kia trong không gian.

- Pháp Tạng hệ thống hóa giáo lý Phật thành Ngũ Giáo, đó là 1/Tiểu Thừa Giáo,lấy kinh điển A Hàm làm nền tảng,phủ nhận bản ngã cá biệt(pudgala-nunyata:Nhân không),nhưng thừa nhận sự hiện hữu của các pháp sai biệt(Pháp Hữu).Câu Xá Tông chủ trương Nghiệp Cảm Duyên Khởi. 2/Đại Thừa Thủy Giáo phân biệt các pháp.Pháp Tướng Tông nêu lên thuyết A Lại Da Duyên Khởi cho hạng Xiển Đề không thể thành Phật.Tam Luận Tông quan niệm tất cả đều có thể thành Phật,tiến tới. 3/Đại Thừa Chung Giáo,thừa nhận tất cả chúng sinh đều có Phật tính đều đạt quả vị Phật.Như Lai Tạng Duyên Khởi là đặc tính của giáo lý này,nên cũng gọi là Chân Như Duyên Khởi. 4/Đại Thừa Đốn Giáo chủ trương sự tu tập không cần ngôn ngữ hay luật nghi mà đi thẳng vào chân tính, được thể hiện qua sự im lặng của Duy Ma Cật(Vimalakirti),qua thiền định của Bồ Đề Đạt Ma(Bodhidharma). 5/Đại Thừa Viên Giáo là đạo lý Nhất Thừa, đạo lý Hoa Nghiêm bao gồm tất cả các thừa,nền tảng của tất cả các thừa.

- Kinh Hoa Nghiêm nêu ra mười địa,xem như hành trình tu chứng của hàng Bồ Tát,mục tiêu của những ai khát vọng học tập hay tu tập thiền định để tiến tới quả vị tối thượng.

279. Xin cho biết về Thiên Thai Tông (Pháp Hoa Tông).

- Pháp Hoa Tông được xây dựng trên Kinh Pháp Hoa(Kinh Diệu Pháp Liên Hoa-Saddharma Pundarika). Đại sư Trí Khải(531-597)tuy là vị tổ thứ ba của Tông Thiên Thai,nhưng có khả năng tổ chức,thuyết giảng,nên được tôn xưng là tổ thứ nhất của Thiên Thai Tông.Ngài cư trú trên núi Thiên Thai ở Thai Châu,miền nam Trung Quốc,nên Pháp Hoa Tông gọi là Thiên Thai Tông.

- Kinh Pháp Hoa được nghiên cứu rất sớm dựa vào bản sớ giải do Trúc Pháp Tổng hoàn thành từ năm 300, đến khi Cưu Ma La Thập dịch xong bộ Pháp Hoa vào năm 406 thì việc nghiên cứu và hành trì càng thành khẩn hơn.

- Cưu Ma La Thập dịch Kinh Pháp Hoa gồm 27 phẩm.Pháp Hiển trên đường sang Ấn Độ vào năm 475, đến Khotan tìm thấy phẩm về Đề Bà Đạt Da(Devadatta), ông mang về,nhờ Pháp Ý người Ấn dịch thêm phẩm này rồi phụ vào bản kinh trước,nên hiện thời Kinh Pháp Hoa gồm 28 phẩm.

280. Xin cho biết việc hình thành Thiên Thai Tông.

- Trước khi Thiên Thai Tông ra đời,giáo lý Kinh Niết Bàn rất phổ cập.Khi Thiên Thai Tông xuất hiện nam phái của Niết Bàn Tông sáp nhập vào Thiên Thai Tông.Niết Bàn Tông phương Bắc xem học thuyết Niết Bàn phụ thuộc giáo lý Hoa Nghiêm,như Địa Luận Tông trước đây đã hợp nhất với Hoa Nghiêm Tông.

- Thủy tổ của Thiên Thai Tông là Huệ Vân(505-577),tiếp đến là Huệ Tư(514-577),Trí Khải(571-597).Trí Khải truyền cho Quán Đảnh(561-732),rồi Trạm Nhiên(717-782). Đệ tử của Trạm Nhiên là Đạo Toại. Đạo Toại là bổn sư của Tối Trừng(Saicho),tức Truyền Giáo Đại Sư(Dengyo),sáng tổ của Thiên Thai Tông,Chân Ngôn Tông,Thiền Tông và Luật Tông tại Nhật Bản.

281. Xin cho biết sơ qua về giáo nghĩa Thiên Thai Tông.

- Đó là đạo lý Tam Nhất:Không cũng là Giả Danh,Giả Danh đồng thời cũng là Trung Đạo và Trung Đạo cũng là Không.

- Thiên Thai Tông phân loại giáo lý Phật thành Năm Thời Tám Giáo.Năm Thời là: 1/Thời Hoa Nghiêm dạy pháp tự chứng của Phật,khai thị về sự giác ngộ của Ngài. 2/thời Lộc Uyển,bắt đầu bằng Kinh Chuyển Pháp Luân cho 5 ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển.Thời này cũng gọi là thời Dẫn Dụ,nhập môn. 3/Thời Phương Đẳng(Vaipulya),thời triển khai,thời chuyển tiếp từ Tiểu Thừa đến Đại Thừa. 4/Thời Bát Nhã,giảng dạy đạo lý Không,bác bỏ mọi phân tính,thống nhất mọi phân tính nên cũng gọi là Thời Hội Nhất Thiết Pháp. 5/Thời Pháp Hoa hay Niết Bàn,dung nạp ba Thừa.Nhân duyên xuất hiện ở thế gian của Phật là cứu độ tất cả chúng sinh và nhân duyên ấy chỉ có thể hoàn thành bởi Kinh Pháp Hoa.

- Phân loại giáo lý Phật thành 5 thời là dựa vào thời gian.Nhưng khi thuyết giáo,Phật thường sử dụng cùng lúc cả năm khi nào có cơ hội. Điều này được giải thích qua 8 giáo: 1/Đốn Giáo nói về sở chứng của Phật. Đây là thời Hoa Nghiêm. 2/Tiệm Giáo,Phật dùng phương tiện dần dần đưa thính chúng vào nẻo đạo. Đây là thời Lộc Uyển,Phương Đẳng và Bát Nhã. 3/Bí Mật Giáo,giáo lý thậm thâm bất định,thính chúng thâm nhập cách biệt và khác biệt:Thời Hoa Nghiêm đến Bát Nhã. 4/Bất Định Giáo:thính chúng tùy trình độ thâm nhập giáo nghĩa.Bốn Giáo đầu là bốn phương thức giáo hóa.Bốn giáo sau là bản chất của giáo lý, đó là: 5/Tạng Giáo:A Hàm và tất cả giáo lý Tiểu Thừa như thấy trong văn học Tỳ Bà Sa. 6/Thông Giáo:chung cho tất cả ba thừa:Thanh Văn,Duyên Giác,Bồ Tát và là giáo lý sơ cơ hay nhập môn Đại Thừa. 7/Biệt Giáo:giáo lý thuần Đại Thừa. 8/Viên Giáo.Viên có nghĩa là viên mãn,viên thông,một pháp chứa đựng tất cả các pháp: “Nhất tức nhất thiết,nhất thiết tức nhất.”

- Thiên Thai Tông đề ra ba chân lý(Tam Đế) đó là 1/Chân lý của Không(Không Đế). 2/Chân lý của giả tạm(Giả Đế) và 3/Chân lý của phương tiện(Trung Đế).Tuy ba mà một,tuy một mà ba.Nguyên lý là một nhưng phương pháp diễn đạt là ba.Trên bình diện phân tích thì tất cả đều không.Trên bình diện hiện tượng thì tất cả là giả.Trên bình diện tuyệt đối thì tất cả là trung.Như vậy có nghĩa tức không,tức giả,tức trung.Như vậy có nghĩa Viên Dung Tam Đế,ba chân lý dung hợp tràn đầy.Sóng chuyển động không khác nước phẳng lặng.

- Thuyết Tam Thân Phật là thuyết đặc trưng của Thiên Thai Tông.Danh từ “Thân”dễ gây hiểu lầm vì nó gợi ra ý tưởng về một hiện hữu thể xác.Tam thân là: 1/Pháp Thân(Dharmakaya):lý tánh,chân lý,là trung đạo đế. 2/Báo thân:thân báo ứng của tác nhân lâu dài,thân Phật giác ngộ dưới gốc cây Bồ Đề. 3/Hóa thân:Thân xuất hiện qua nhiều hình tướng để giáo hóa chúng sinh,thân tiền thân Phật.

282. Xin cho biết về Chân Ngôn Tông.

- Chân Ngôn Tông thuộc Đại Thừa,Mật Giáo.Chân Ngôn tiếng Nhật là Shingon,dịch nghĩa chữ Phạn“Mantra”có nghĩa là bí mật giáo,một giáo pháp không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ thông thường,một giáo pháp ẩn kín trong tâm Phật vốn không biểu lộ bằng lời.

- Mật Tông tổ chức nghi quỹ quán đỉnh(Abhiseka)cũng như nghi quỹ đàn tràng rất nghiêm mật.Hành trì Mật Giáo phối hợp thân,khẩu, ý:thân ngồi kiết già bắt ấn,khẩu tụng chú và ý quán tưởng Phật,Bồ Tát.

283. Xin cho biết diễn trình thành lập Chân Ngôn Tông hay Mật Tông tại Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản.

- Tại Ấn Độ từ thời Vệ Đà đã có những tập tục về ma thuật,giống như tín ngưỡng cổ truyền Bon của Tây Tạng.Những tập quán này về sau được quy nạp vào Mật Giáo.

- Srimitra(Cát Hữu)người xứ Kuccha(Qui Tư)dịch bộ Tạp Mật ra tiếng Trung Hoa vào thế kỷ thứ tư Subhakarasimha(Thiện Vô Uý 637-735),Vajrabodhi(Kim Cang Trí 663-723),Amoghavajra(Bất Không 705-774),Nhất Hành(Ichigyo 783-727)dịch rất nhiều kinh điển Thuần Mật.

- Thiện Vô Úy đến Kashmir,Tây Tạng,Trung Quốc truyền đạo. Đến Trường An năm 716 được vua Huyền Tông tiếp đãi nồng hậu.Kim Cang Trí đến Lạc Dương năm 720.Bất Không đến Quảng Đông,Lạc Dương,Tràng An năm 746,làm quốc sư của ba triều vua Huyền Tông,Túc Tông và Đại Tông.

- Hoằng pháp Đại Sư(Kobo)tức Không Hải Đại Sư(Kukai)có công hệ thống hóa kinh văn và hành trì Mật Giáo tại Nhật Bản,là tổ sư của Chân Ngôn Tông Nhật Bản,là nghệ sĩ đầu tiên và lỗi lạc nhất về điêu khắc và thư pháp.

- Padmasambhava năm 747 theo lời mời của vua Trisong Detsan(743-798) đến Tây Tạng hoằng truyền Mật Giáo.

- Tây Tạng là nước lấy Mật Giáo làm Quốc Giáo.Dalai Lama vừa là quốc vương vừa là Tăng Thống Phật Giáo Tây Tạng.

284. Xin cho biết giáo nghĩa Chân Ngôn Tông hay Mật Tông.

- Giáo nghĩa Mật Giáo có những đặc tính sau: 1/Mật Giáo xem các giáo pháp khác là Hiển Giáo,còn Mật Giáo là Mật Giáo.Lấy pháp Thân Phật làm thí dụ điển hình.Theo Hiển Giáo,Pháp Thân Phật là thể tánh,không hình tướng.Mật Giáo quan niệm hóa thân Phật thuyết pháp là Pháp Thân.trạng thái bất khả tư nghị của Phật quả được giải thích trong Đại Nhật Kinh và Kim Cang Đỉnh Kinh. 2/Thời gian tu chứng Phật quả theo Hiển Giáo phải trải qua vô số kiếp,theo Mật Giáo chỉ cần một niệm,một đời là đủ. 3/Mật chú(mantra)là phương tiện để đạt được năng lực gia trì của Phật trong đạo lý Tam Mật của Mật Giáo là Thân Mật,tay bắt ấn(Mudra),Khẩu Mật tụng niệm chân ngôn Dhàrani, Ý Mật:tâm nhập tam ma địa.

- Để diễn tả môi trường hoạt động của Phật,Mật Giáo sử dụng đồ hình Mandala.

285. Cho em biết về Thiền Tông.

- Thiền Tông thuộc Đại Thừa quán môn,nhắm đến lý tưởng của Phật,minh nhiên,không bị ước định,nên cũng gọi là Phật Tâm Tông.

- Thiền Tông không phải là một phương pháp phân tích như khoa học,cũng không phải là một phương pháp tổng hợp như triết học. Đây là một hệ thống tư duy không tư duy,tạo cơ hội cho sự thức tỉnh của tuệ giác.

- Chủ trương của Thiền Tông có thể tóm tắt bằng câu: “Dĩ tâm truyền tâm,bất lập văn tự,giáo ngoại biệt truyền,trực chỉ nhân tâm,kiến tánh thành Phật.”Lý tưởng này được thể hiện ngay trong đời sống hàng ngày và trong kinh nghiệm cá nhân.

286. Cho em biết về sự hình thành Thiền Tông ở Ấn Độ.

- Ấn Độ cổ đại với 6 phái triết học,trong đó Du Già(Yoga)là phái đặc biệt chuyên về tư duy hay tập trung tư tưởng.hệ thống Du Già là khía cạnh thực hành của triết lý số luận(Sankhya),thuyết Nhị Nguyên.

- Trong Du Già Tông của Phật Giáo cũng có những điểm giống Du Già Số Luận Ấn Độ.Du Già Luận hay Duy Tâm Luận của Phật Giáo do Vô Trước(Asanga) đề xướng và được em là Thế Nhân(Vasubandhu)hệ thống hóa thành học thuyết Duy Thức(Vijnaptimatra), được Huyền Trang đưa vào Trung Quốc thành Pháp Tướng Tông.

- Phật Giáo có một hệ thống đặc biệt về thiền khác với Du Già Ấn Độ,thường được gọi là Như lai Thiền, được thể hiện trong Chỉ Quán(Samathavipasyana)của Thiên Thai Tông và trong bí mật Du Già của Chân Ngôn Tông.

- Theo truyền thuyết một ngày nọ Phật đang ở núi Linh Thứu,thần Brahmà cúng dường Ngài một cành hoa Kumbhala,thỉnh cầu Ngài giảng pháp. Đức Phật bước lên tòa sư tử,cầm cành hoa trong tay,không nói một lời.Hàng tăng chúng hiện diện hoang mang,chỉ có Ma Ha Ca Diếp(Mahakasyapa)hoan hỷ mỉm cười. Đức Thế Tôn nói:“Chành Pháp Nhãn Tạng này ta phó chúc cho ngươi,hảy nhận lấy và truyền bá.”Một lần khi Anan(Ananda)hỏi Ca Diếp đức Phật đã truyền dạy điều gì,thì Ca Diếp bảo:“hãy đi hạ cột cờ xuống.”A Nan liền chứng ngộ.Cứ như thế mà tâm ấn được truyền thừa,gọi là Phật Tâm Tông.

287. Cho em biết về sự hình thành Thiền Tông tại Trung Quốc.

- Vị tổ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ là Ngài Bồ Đề Lạt Ma.Vâng lời thầy là Bát Nhã Đa La(Prajnatara),Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc năm 520, đến Ngũ Đài Sơn,trú tại Thiếu Lâm Tự,9 năm xây mặt vào tường hành trì thiền quán,thiết lập truyền thống thiền tại Trung Quốc.Bồ Đề Đạt Ma là vị sơ tổ thiền tông Trung Hoa.

- Vị tổ thiền thứ nhì là Huệ Khả… Vị tổ thứ năm Hoằng Nhẫn có hai đệ tử xuất sắc là Huệ Năng(638-713)và Thần Tú(605-706).Huệ Năng được truyền tâm pháp, đi về phương nam,sáng lập Nam Thiền,chủ trương đốn ngộ(giác ngộ tức khắc)nên cũng gọi là Nam Đốn.Thần Tú ở phương bắc truyền bá hệ tổ thiền gọi là Bắc Thiền,chủ trương tiệm ngộ(từ từ giác ngộ)nên cũng gọi là Bắc Tiệm.

288. Cho em biết về sự hình thành Thiền Tông tại Nhật Bản.

- Thiền du nhập Nhật Bản nhiều đợt: 1/Đạo Chiêu(Dosho,629-700) đệ tử của Huyền Trang đến Nhật truyền bá Thiền tại Thiền Đường Gangoji ở Nara. 2/Đạo Tuấn(Dosen)một luật sư Trung Hoa đến Nara năm 710,truyền bá Bắc Thiền(phái Thần Tú),truyền Tâm Pháp cho Hành Biểu(Giohyo)năm 733.Hành Biểu truyền cho Tối Trừng. 3/Nghĩa Không(Giku) đến Kyoto dạy Nam Thiền(phái Huệ Năng)từ năm 851 đến 858. 4/Đạo Long Lan Khê(Doryu Rankei)sáng lập chùa Kenchoji năm 1249. 5/Nguyên Vô Học(Sogen Mugaku)lập chùa Engakuji năm 1273. 6/Nhật Ninh Nhất Sơn(Ichinei Issan) đến chùa Shuzenji năm 1299 giảng dạy thiền học.

- Những vị tổ sư thiền Trung Hoa trên tuy đã đặt được nền móng thiền tại Nhật Bản,nhưng thiền vẫn chưa ăn sâu vào văn hóa Nhật,cho mãi đến khi Vinh Tây và Đạo Nguyên ra đời,thiền phái Nhật Bản mới vững mạnh.

- Vinh Tây tác giả Bộ Hưng Thiền Hộ Quốc,lập chùa Kiến Nhân(Kennenji)tại Kyoto chủ trương truyền bá thiền là củng cố sự hưng thịnh của quốc gia.

- Đạo Nguyên sáng lập chùa Eiheiji tại tỉnh Echizen được quan dân trọng vọng, đem thiền pháp phổ biến trong quần chúng.

- Ngoài ra còn dòng thiền Phổ Hòa do Giác Tâm sáng lập.Giác Tâm sang Trung Quốc năm 1249,học thiền với Phật Nhãn.Năm 1255 trở về Nhật lập phái thiền theo lối đầu đà.Phái Thiền này bị tiêu diệt sau cuộc Đại Phục Hưng năm 1868.

- Hiện nay tại Nhật có 3 dòng thiền: 1/Lâm Tế Tông(Rinzai)từ Trung Quốc do Vinh Tây truyền nhập đầu tiên năm 1191 sau đó do Biện Viên(Benen)năm 1285. 2/Tào Động Tông do Đạo Nguyên truyền nhập năm 1127. 3/Hoàng Bá Tông(Obaku)do Ẩn Nguyên(Ingan)truyền nhập năm 1654.

289. Cho em biết về tôn chỉ của Thiền Tông.

- Phật tâm vốn chỉ là tâm người thường.Chỉ cần nhìn vào tâm địa đó là có thể đưa hành giả đến giác ngộ viên mãn.nhưng bằng cách nào?Bằng cách“Thấy đúng”(Kiến Đạo,Darsana Marga) và Đi Đúng(Tu Đạo,Bhàvàna Marga).Muốn thấy đúng là phải đi đúng,vì cái thấy có thể bị ước định,ngôn từ trói buộc.Vượt ngoài ước lệ cần phải quán chiếu.Quán là con mắt trực thi, đồng thời là bước chân trên con đuờng chân thật.

- Hành giả có thể áp dụng phương pháp thiền của Tiểu Thừa,của Du Già Luận(bán Đại Thừa),phép chỉ quán của Thiên Thai,hay Du Già Bí Mật của Chân Ngôn Tông,nhưng những phương pháp này chẳng qua chỉ là phương tiện.

- Bạch Ân(Hakui)nói:“Chúng sanh vốn là Phật.Băng(cơ duyên hiện tại của chúng ta)và nước(Phật tánh ẩn tàng)chỉ là một.Không có nước thì không có băng,trong băng có nước… Chính thế gian này là cảnh giới liên hoa và thân này là Phật.”

-Ý niệm căn bản của Thiền Tông là đồng nhất tính của hữu vô:“Chân tướng vô tướng.Pháp môn vô môn.Thánh trí vô trí.”Pháp thân không tướng nhưng hóa hiện mọi hình tướng.Kim khẩu không lời,nhưng phát hiện mọi lời.

- Để hướng dẫn và trắc nghiệm khả năng tu chứng,Thiền Tông Trung Hoa,Nhật Bản đưa ra phương pháp “Công Án”.khi nhận được công án hành giả bắt đầu tĩnh tọa,lắng nghe tiếng nói trong im lặng để tìm thấy hành động trong vô hành, động trong bất động hay để an nhiên trong tĩnh lặng và không sợ hãi trước cái chết.

- Thiền là nếp sống văn hóa của quốc gia Nhật.Lý tưởng quốc gia về sự giản dị,thanh khiết,thành thật đều được tìm thấy trong lối hành thiền.

290. Có nguời đọc sách thiền thấy câu “Ngộ Phậ đả Phật, ngộ ma đả ma” rồi họ “Thỏng tay vào chợ” bất cần đời, sống buông thả, như vậy có phải là nếp sống thiền?

- Trong Kinh có câu “Y kinh giải nghĩa,tam thế Phật oan,ly kinh nhất tự,tức thành ma thuyết”,nghĩa là nếu căn cứ vào từng câu từng chữ của kinh để giảng giải giáo lý Phật là oan cho ba đời Phật,nhưng nếu bỏ một chữ trong kinh mà giảng giải giáo lý Phật thì đó là lời nói của ma, ý nói phải đi sâu vào ý nghĩa của lời kinh để giảng giải giáo lý Phật.

- Ý nghĩa của câu“Ngộ Phật đả Phật,ngộ ma đả ma”là đừng chấp trước nào hình thức,danh tướng.Nhưng trước khi đi đến trình độ này,trước khi tu định,phải tu giới.Thiếu giới không thể định,thiếu định không có tuệ như đạo lý Tam Học nói ở trên.Do đó người hành thiền,không thể thiếu giới luật,không phải sống kiểu nào cũng được mà cho là thong dong tự tại,cái thong dong của nếp sống buông thả,thiếu phẩm hạnh,không phải nếp sống thiền.

291. Nơi hành thiền có khi gọi là Cửa Thiền, có khi gọi là Cửa Không, có khi gọi Cánh Cửa Mở Thẳng Vào Tâm là ý nghĩa gì?

- Cửa Thiền,Cửa Không của ngài Ma Ha Ca Diếp,của ngài Bồ Đề Đạt Ma,cửa mở Ngược vào Tâm của Ngài Huệ Năng, đều cùng diễn dịch đạo lý thiền, đòi hỏi hành giả đi vào bản thể,lấy cái có làm cái không,biến cái không thành cái có,như chư tổ thiền dạy:

- “Đại đạo quảng khai,thố giác trượng,phiêu đàm để nguyệt,Thiền môn giáo dưỡng,qui mao thằng phược lão đầu phong.”(Lấy lông con rùa làm dây để cột gió trên đầu ngọn cây,không cho gió bay.Lấy sừng con thỏ làm cây sào thọc trăng dưới ao).

- Rùa không có lông,thì sao có thể làm dây cột gió?Và gió nào có thể cột được?

- Thỏ không có sừng thì sao có thể dùng để chọc mặt trăng?Và mặt trăng ở dưới ao đâu phải là mặt trăng thực?

- Chư tổ cho ta thấy cái vọng huyễn của mọi hành hoạt,thế mà tâm vẫn vướng mắt vào những hành hoạt ấy!

292. Cho em biết về Tịnh Độ Tông.

- Tịnh Độ Tông được xây dựng trên Kinh A di Đà(tiểu bản Sukkhavati-vyuha)Kinh Đại Vô Lượng Thọ(Sukkhavati-vyuha)và Kinh Quán Vô Lượng Thọ(Amitayu-dhyàna sutra).

293. Cho em biết sự hình thành của Tịnh Độ Tông.

- Vua Tần Bà ta La(Bimbisara)bị con là hoàng tử A Xà Thế(Ajatasatru)bắt giam trong ngục thất,hoàng hậu Vi Đề Hy cầu mong Phật cho biết có thế giới nào tốt lành hơn thế giới Ta bà đầy khổ lụy. Đức Phật cho hoàng hậu thấy nhiều thế giới,trong đó có thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.Hoàng Hậu chọn thế giới Cực Lạc.Phật dạy phương pháp tụng niệm để có thể vãng sinh vào thế giới ấy,đó là nguyên nhân Phật nói Kinh A Di Đà.

- Tịnh Độ Tông lúc sơ khởi dùng phương pháp niệm Phật giúp cho thiền quán.Vào thế kỷ thứ hai niệm Phật là phần quan trọng nhất trên đường tìm giải thoát.

- Tại Trung Quốc Tịnh Độ Tông phát triển qua 4 dòng truyền thừa: 1/Phật Đồ Trừng,người Ấn Độ hoằng đạo tại Trung Quốc năm 310-348. 2/Bồ Đề Lưu Chi(Bodhiruci)người Ấn Độ,hoằng truyền giáo lý tịnh độ tại Trung Quốc năm 503-535 truyền cho Đạo An,Tuệ Viễn… 3/Bồ Đề Lưu Chi truyền cho Đàm Loan, Đạo Xước… 4/Từ Mẫn(Jimin)người Hán vào thời Đường(618-709) đến Ấn Độ tu học Tịnh Độ tại Gandhàra.

- Tại Nhật Bản lịch sử truyền thừa Tịnh Độ rất dài kể từ thời nữ hoàng Suiko(Suy Cổ,593-628).Huệ An(Ein)một tăng sĩ Đại Hàn đã giảng Kinh Vô Lượng Thọ cho hoàng triều.Vào thời đại Nara(710-793)Hành Cơ đã từng vân du quảng bá tín ngưỡng Di Đà.Giám Chân nhà sư Trung Hoa đến Nara năm 754 giảng truyền giáo nghĩa Di Đà cho Vinh Duệ(Eiei)người Nhật.Trong số những vị sư tiền phong truyền bá tín ngưỡng Di Đà, đáng kể nhất là Nguyên Tín(Genshin,942-1017)và Pháp Nhiên(Honen,1133-1212).

294. Cho em biết thêm về các giáo phái Tịnh Độ Tông tại Nhật.

- Thế kỷ thứ 6,Thiên Thai Tông chủ trương thiền tịnh song tu.Tối trừng(Saicho), đệ tử của Đạo Toại là sáng tổ của Thiên Thai tông Nhật Bản,do đó Tối Trừng còn có danh hiệu là Truyền Giáo Đại Sư(Dengyo).Thiên Thai Tông tại Nhật Bản có ba chi phái, đó là Sơn Môn(Sommon),Tự Môn(Jinon) và Chân Thạnh(Shinsei).Chân Thạnh thành lập vào thời Đại Đức Xuyên(Tokugawa)khoảng năm 1780,sau trở thành giáo phái Tịnh Độ,gọi là Dung Thông Niệm Phật,dung hoà giáo nghĩa Pháp Hoa và Tịnh Độ,dùng kinh Pháp Hoa và Kinh Hoa Nghiêm nên thực sự chưa phải là giáo phái Tịnh Độ Chân Tông.

- Không Dã(kuya,903-972),là vị đầu tiên tại Nhật Bản truyền bá tín ngưỡng Di Đà rộng rãi khắp nơi,chuyển hoá thổ dân Ainu ở hòn đảo miền Bắc Nhật Bản theo Phật.Không Dã thuộc gia đình hoàng tộc,có người cho rằng ông là con của Đề Hồ Thiên Hoàng(Daigo).Ông sáng tác nhạc điệu,đánh chuông,nhảy múa, đào giếng,làm đường,xây cầu.Cách thức niệm Phật theo lời nhạc của ông gọi là Không Dã Niệm Phật.Lối vũ của ông gọi là Kim Khấu(đánh chuông).Giáo phái của ông gọi là Không Dã Tông.Khi ông viên tịch giáo phái này cũng diệt theo,nhưng Thời Tông xuất hiện,tôn Không Dã làm vị sáng tổ.Nhất Biến(1238-1289)năm 1276 phổ biến việc sử dụng ca múa bình dân để truyền thừa tín ngưỡng Di Đà,hành trì tụng niệm 6 thời mỗi ngày,gọi là Tịnh Độ Thời Tông.

- Pháp Niên(Honen 1133-1212)thành lập Tịnh Độ Tông(Jodo)hoàn toàn biệt lập với các giáo phái Phật Giáo khác.Trên con đường đi đến giải thoát,cần có tự lực và tha lực.Tha lực ở đây là năng lực của Phật A Di Đà chứ không phải của bất kỳ vị nào như chủ trương của Dung Thông Niệm Phật.

- Thần Loan(Shinran 1173-1262)khai triển Tịnh Độ dựa vào ba bộ kinh chính là Kinh Vô Lượng Thọ,Kinh A Di Đà,Kinh Thập Địa của Long Thọ và Thế Thân và Bộ Luận của Đàm Loan(T’an Luan,476-542)gọi là Tịnh Độ Chân Tông.

295. Xin cho biết yếu nghĩa của Tịnh Độ Tông.

- Qua thời gian tín ngưỡng Di Đà có 5 sắc thái: 1/Sắc thái Thiên Thai và Chân Ngôn xem Đức Phật A Di Đà là một trong Ngũ Trí Như Lai ngự ở phương Tây. 2/Sắc thái Duy Thông Niệm Phật quan niệm ảnh hưởng của người tu Tịnh Độ có thể truyền đến người khác và ngược lại. 3/Sắc thái của Tịnh Độ Tông(Jodo)hoàn toàn tin tưởng vào những lời nguyện của Phật A Di Đà. 4/Sắc thái Chân Tông(Shin)theo nguyện thứ 18 của Phật A Di Đà được mô tả trong Kinh Đại Vô Lượng Thọ và. 5/Sắc thái chuyên tâm niệm Phật mỗi ngày 6 thời trong Tịnh Độ Thời Tông.

- Giáo nghĩa Tịnh Độ qua bản nguyện của Phật A Di Đà,dựa vào tự lực cũng như tha lực,hoàn thành hai sứ mạng lớn là nhu cầu giải thoát và kiến thiết một thế giới tốt đẹp ở hiện tại cũng như tương lai.Trong 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà,lời nguyện thứ 12 và 13 nói về thế giới Cực Lạc Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang.Nguyện thứ 18 hứa cứu độ tất cả chúng sinh chuyên tâm niệm Phật được sinh vào thế giới Cực Lạc.Thệ Nguyện thứ 19 Phật tiếp dẫn những người niệm Phật trước giờ lâm chung.Nguyện thứ 20 ai sinh vào thế giới Cực Lạc sẽ được chứng ngộ giải thoát.

- Tịnh Độ Tông(Jodo)xem ba nguyện(18,19,20)là những nguyện độc lập riêng rẽ.Nguyện thứ 18 liên quan đến vãng sinh hoàn toàn dựa vào tha lực,nguyện 19 và 20 dựa vào nghiệp lực cá nhân(tự lực)trong khi Chân Tông (Shin)xem 3 nguyện tương hệ nhau.

- Giáo phái Tịnh Độ Chân Tông là tổ chức Phật Giáo lớn hàng nhì tại Mỹ.

296. Xin cho biết yếu nghĩa sai khác giữa các tông phái Tịnh Độ Tông Nhật Bản.

- Trên phương diện hình thức Tịnh Độ Tông gồm chư Tăng và cư sĩ trong khi Tịnh Độ Chân Tông chỉ toàn là cư sĩ;trên phương diện hành trì là sự sai khác về thái độ niệm danh hiệu Phật.Tịnh độ Tông xem niệm Phật là đào sâu đức tin ,bồi bổ đức tin,vì không có đức tin thì không thể có sự cứu độ trọn vẹn,trong khi Tịnh Độ Chân Tông xem niệm Phật là thái độ tri ân,biểu lộ lòng tri ân được Phật gia trì.

- Sự sai khác giữa Tịnh Độ Tông,Tịnh độ Chân Tông và Thời Tông dựa vào hình thức hành trì.Thời Tông chủ trương 6 thời niệm Phật.Tịnh Độ Tông và Chân Tông không đặt nặng vào thời biểu nhất định.

- Người tu Tịnh Độ sử dụng ba phương thức:Quán Chiếu Tịnh Độ,Tha Phương Tịnh Độ và Tịnh Độ Hiện Tiền.

- Phương thức niệm Phật gồm có 4:Trì Danh Niệm Phật,Quán Tượng Niệm Phật,Quán Tưởng Niệm Phật và Thực Tướng Niệm Phật.

- Cảnh giới Tịnh độ không những là nơi vãng sinh hưởng mọi pháp lạc mà cũng là đạo tràng tiến du.Do đó cảnh giới Tịnh Độ không hoàn toàn chỉ dành cho thánh nhân mà cũng là nơi cho phàm nhân trên tiến trình tu chứng. Đây là một thế giới chung cho Thánh và Phàm,một tư tưởng mới của Đại Thừa Phật Giáo.

- Làm sao cảnh giới có thể dung hợp Thánh Phàm, đó là đạo lý Tự Tánh Di Đà,Duy Tâm Tịnh Độ.Hạnh nguyện Phàm Thể trong Thánh Thể là hạnh nguyện Bồ Tát.Tịnh Độ tức Ta Bà,Ta Bà là Tịnh Độ.

297. Xin cho biết về Nhật Liên Tông.

- Nhật Liên Tông xuất phát tại Nhật Bản,thuộc Đại Thừa Phật Giáo,có thể gọi là Tân Pháp Hoa vì dựa vào Kinh Pháp Hoa 28 chương do Cưu Ma La Thập dịch ra tiếng Trung Hoa năm 406.

- Nước Nhật được thanh bình thịnh trì nhờ ảnh hưởng Phật Giáo.Nhưng thanh bình thịnh trị thường đưa đến thối nát chính trị theo luật thăng trầm.Trong những ngày cuối cùng của triều đại Bình An(Heian),chiến loạn khắp nơi.Triều đại quân phiệt được thành lập trong thời Kiếm Thương(Kamakura),dân chúng tưởng rằng hòa bình,trật tự sẽ được tái lập,nhưng họ thất vọng,có cảm tưởng đang đến hồi mạt vận của tôn giáo.

- Thần quyền của hai tông phái cũ Thiên Thai và Chân Ngôn đã cùng chịu số phận của giai cấp quý tộc. Di Đà Giáo của Pháp Nhiên(Honen)tuy phổ cập giữa quần chúng nhưng vẫn chưa có ảnh hưởng đối với giai cấp thống trị,Thiền Tông tuy thích hợp với tinh thần võ sĩ đạo nhưng chưa có thế đứng trên địa bàn chính trị.Nhật Liên ra đời,tìm một sinh lộ cho Phật Giáo và Nhật Bản.

298. Xin cho biết tiến trình hình thành Nhật Liên Tông.

- Nhật liên Tông là do Nhật Liên sáng lập,lấy kinh Diệu Pháp Liên Hoa làm nền tảng.Nhật Liên sinh năm 1222 trong một gia đình ngư phủ ở Kamipato,Awa,miền Nam duyên hải Nhật.Xuất gia năm 15 tuổi, đến Kiếm Thương học đạo 10 năm(1243-1253_,cho rằng chỉ có giáo nghĩa Thiên Thai thuần túy,không bị nghi lễ thần bí hay tín ngưỡng Di Đà làm trở ngại mới là con đường ngắn nhất đi đến đạo.Năm 1253 bị phương trượng và chúng tăng đuổi ra khỏi chùa vì tư tưởng và thái độ trên,Nhật Liên ra ngoài,dựng một thảo am cư trú,giảng truyền đạo pháp trên đường lộ,tại công viên,viết quyền Lập Chánh An Quốc trình lên Nhiếp Chánh Vương Bắc Điều(Hojo)năm 1260,đả phá các tông phái khác cho Tịnh Độ Tông là địa ngục,Thiền Tông là yêu ma,Chân Ngôn Tông là tiêu hoại tổ quốc,Luật Tông phản bội.Năm 1261 Nhật Liên bị đuổi ra khỏi Izu, ông cho Nhiếp Chánh Vương Bắc Điền tin tưởng theo thiền và thường mặc tăng bào là đang sống trong địa ngục,nhiếp chánh vương kế tiếp Tokumune đang trên đường đi đến địa ngục.

- Năm 1271 ông bị bắt,bị kết án tử hình,nhưng sau đó bị đày ra hoang đảo Tá Độ(Sado),tại đây ông viết cuốn Khai Mục Sao,cho mình là Bồ Tát Thượng Hành(Visisitacarita) được Phật phó thác bảo vệ Chánh Pháp. Ông nguyện danh tiếng của ông“sẽ là trụ cột của Nhật Bản,là con mắt của Nhật Bản,là huyết mạch của Nhật Bản.”

-Sau 5 năm bị đày ở đảo Tá Độ, ông được phép trở về Kamakura,nhưng quan điểm của ônbg vẫn nhất mực như trước,không thay đổi. Ông lui về núi Thân Diên(Minobu)phía Tây núi Phú Sĩ(Fuji),giảng truyền tôn chỉ Nhật Liên.Ông viên tịch tại Ikegami gần Kyoto năm 1282,hưởng thọ 60 tuổi.

- Nhật Liên có 6 người đệ tử trung kiên,bất khuất và cực đoan giống thầy.Một trong 6 vị này Nhật Trí(Nichiji) du hành sang Tây Bá Lợi Á năm 1295,nhưng sau đó biệt vô âm tín.Năm 1532 Nhật Liên Tông xung đột với tông phái gốc là Thiên Thai Tông.Năm 1614một chi phái với chủ trương“Bất Thị Bất Thi”từ chối không tuân thủ luật lệ hiện hành,bị tướng quân Đức Xuyên(Tokugawa Shogun)cấm hoạt động cùng lượt với Thiên chúa giáo.

- Hiện nay Nhật Liên Tông có 8 chi phái,trong đó có hai chi phái quan trọng là: 1/Nhật Liên Tông,trung tâm đặt tại Minobu với 3,600 tự viện. 2/Hiển Bản Pháp Hoa Tông(Kenpon-Hokke),còn được gọi là phái Diệu Mãn Tự(Myomanji)với 580 ngôi chùa.

299. Xin cho biết giáo nghĩa của Nhật Liên Tông.

- Như trên đã nói Nhật Liên Tông được xây dựng trên Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà tinh yếu là câu tụng“Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”.

- Theo Nhật Liên Tông,Kinh Pháp Hoa là một bản kịch trong đó Đức Phật không những là vị anh hùng của bản kịch mà còn là người soạn và điều khiển bản kịch.

- Chân lý trong kinh Pháp Hoa không phải là một thứ chân lý chết cứng không hồn,mà đó là lý tưởng,là chân lý hừng sáng,thơm ngát và kết hạt như hoa sen.Chân lý được hóa hiện trong Đức Phật.Năng giác và sở giác đều là một. Đức Phật chân thật trong kinh không phải là xác thân Phật đã giác ngộ dưới gốc cây Bồ Đề,chuyển Pháp Luân tại vườn Lộc Uyển,thị tịch tại rừng Sala ở Kusinagara,hưởng thọ 80 tuổi,mà là đức Phật của hàng hà sa số kiếp,là bậc Năng Giác thường trụ thuyết pháp.

- Do từ tâm,Ngài thị hiện.Do bi tâm Ngài quyền nghi thuyết pháp.Ngài là tác giả của bản kịch,là đạo diễn,là diễn viên chính,hướng dẫn các diễn viên khác trở thành diễn viên chính: Đề Bà Đạt Đa,Long Nữ đều nằm trong vở kịch giác ngộ của Phật.

- Thế giới giác ngộ xa xưa của Phật gọi là Bản Môn,thế giới giác ngộ của hoá thân Phật gọi là Tích Môn có nghĩa là hành hoạt của Phật ở trong bản vị nguyên thỉ(Bản Môn)hay hành hoạt còn lưu dấu vết(Tich Môn).Hai vị này xuất hiện song song trong kinh Pháp Hoa.Vị nào là vị khai thị chân lý?

- Kinh Pháp Hoa chia làm hai phần: 1/Phần đầu 14 chương,nói về Tích Môn,trong đó có Phẩm Chương Tiện(Upaya),Phật khai thị rằng trước thời Pháp Hoa Ngài thuyết pháp trên 40 năm cho 3 thừa(Thanh Văn,Duyên Giác,Bồ Tát)chỉ là phương tiện,chỉ có Nhất Thừa mới là chân lý(Khai Tam Hiển Nhất). 2/Phần hai 14 chương, ở Phẩm Thọ Lượng, đức Phật nói về nhân cách của chính Ngài,khai thị rằng hiện hữu lịch sử của Ngài không phải là chân thân của Ngài,pháp thân mới là thể hiện chân thật của a tăng kỳ kiếp(Khai Cận HiểnViễn).

- Nhật Liên thiết lập Nhật Liên Tông trên nền tảng Bản Môn Bản Hóa của Kinh Pháp Hoa,do đó Nhật Liên Tông cũng được gọi là Bản Môn Pháp Hoa Tông(Hommon Hokke).

- Nhật Liên đặt nặng phần hành của Phật chứ không phải phần lý.Người nào thi hành các phương diện hành của Phật là hành giả Pháp Hoa Kinh(Pháp Hoa Kinh Hành Tọa),cũng như vị Bồ Tát có hành động tối thượng,Bồ Tát Thượng Hành(Visistacarita) được đặt vào địa vị tuyệt đỉnh trong kinh này.Ai tu tập theo đó sẽ được thành tựu Phật quả,giác ngộ viên mãn ngay trong xác thân này (Tức thân thành Phật).

- Đức Phật bản hữu cũng như mặt trăng trên trời. Đức Phật của các kinh Hoa Nghiêm,A Hàm,Phương Đẳng,Bát Nhã,Kim Quang Minh,Tịnh Độ và Đại Nhật chỉ là những vầng trăng phản chiếu trong các ao hồ,trong các dòng nước từ một vầng trăng bản hữu,mặt trăng Pháp Hoa.

- Nhật Liên xem Tịnh Độ,Thiền,Chân Ngôn,Luật chỉ là vầng trăng phản chiếu từ một mặt trăng bản hữu Liên Hoa.Chỉ có kẻ điên rồ mới với bắt ánh trăng phản chiếu trong nước.Nhật Liên bài bác tất cả các tông phái hiện hành trừ Thiên Thai Tông của Truyền Giáo Đại Sư mà ông cố gắng kiện toàn đồng thời duy trì hình thức nguyên thỉ của nó.

300. Xin cho biết về Tân Luật Tông.

- Tân Luật Tông là Tông Phái Luật được thiết lập tại Nhật Bản,khác với Luật Tông Trung Hoa,vẫn lấy giới luật làm căn bản,nhưng phân biệt bốn sắc thái của giới: 1/Giới pháp,yếu tố của giới. 2/Giới thể,thể tính của giới. 3/Giới hành,hành trì của giới. 4/Giới tướng,hình thức của giới.Trong 4 sắc tướng này,giới là quan trọng hơn cả.Giới thể là vô biểu nghiệp,sức mạnh đạo đức hoạt động trong tâm,không lộ ra ngoài(Hưng tâm bản cụ).Đặt nặng hiệu nghiệm tinh thần hơn là nghi thức,nghi quỹ.

- Giới luật gồm có 5 giới cho hàng Cư Sĩ(không sát sinh,không trộm cướp,không tà dâm,không nói dối,không uống rượu hay dùng chất ma túy).Mười giới cho hàng Sa Di,Sa Di Ni(gồm 5 giới nói trên cộng thêm không ca hát,nhảy múa,không xem ca hát,nhảy múa,không nằm giường cao rộng,không ăn phi thời,không cất giữ tiền bạc),250 giới cho Tỳ Kheo và 348 giới cho Tỳ Kheo Ni.

250 giới Tỳ Kheo: 348 giới Tỳ Kheo Ni:

4 tội ba la di(tội bị tẫn xuất) 8 tội ba la di

13 tội tăng tàn(tội bị treo quyền làm tăng) 17 tội tăng tàn

90 tội ba dật đề,cần phát lộ và sám hối 178 tội ba dật đề

3 tội ba la đề xá ni,cần sám hối 8 tội ba la đề xá ni

30 tội xả đọa,tội bị phạt nhẹ 30 tội xả đọa

2 tội bất định,hành vi không xác định 0 tội bất định

Có tội hay không có tội

100 chúng học,những ngăn cấm nhỏ nhặt 100 chúng học

7 diệt tránh,biện pháp xét xử tranh cãi. 7 diệt tránh

301. Xin cho biết tiến trình hình thành Tân Luật Tông tại Nhật Bản.

- Thánh Vũ Thiên Hoàng(724-748)gửi hai nhà sư Vinh Duệ(Eiei) và Phổ Chiêu(Fusho) đến Trung Quốc thỉnh mời luật sư Giám Chân đến Nhật Bản đào luyện Tăng Ni Nhật Bản về luật học(Ritsu),nhưng Đường Huyền Tông lúc bấy giờ ưa thích Lão giáo nên không muốn gửi một nhà sư Phật Giáo nào qua Nhật.Tuy nhiên vì ý nguyện hoằng pháp Đạo Tuyên(Dosen),đệ tử của Huyền Trang,được gửi sang Nại Lương(Nara)năm 735,dạy về luật,thiền và Thiên Thai trong khi chờ đợi Giám Chân đến.

- Với sự giúp đỡ của hai người đệ tử Nhật Bản là Vinh Duệ và Tuệ Chiêu,Giám Chân(Ganjin) đến Nại Lương năm 754, được triều đình đón tiếp,mời cư trú trong ngôi chùa đặc biệt,chùa Đường Chiêu Đề(Toshodaiji)và thiết lập đàn tràng truyền giới cho Hoàng Hậu,Thái Thượng Hoàng và các đại thần.

- Luật Học của Giám Chân thuộc truyền thống Tứ Phần Luật(Luật Đàm Vô Đức,Dharmaguptiya),còn gọi là Nam Sơn Luật(Nam Truyền,Tiểu Thừa)được thiết lập bởi Đạo Tuyên,đệ tử của Huyền Trang.

- Giám Chân truyền lại cho đệ tử là Pháp Tiến(Hoshin)người Trung Hoa,Pháp Bảo(Joho)người Arsak, Đông Ba Tư.

- Truyền giáo Đại Sư(Dengyo Daishi,762-822)lúc đầu thọ Tứ Phần Luật,nhưng sau theo giáo nghĩa Thiên Thai,thọ Bồ Tát Giới,làm cho Tăng Ni Nại Lương chống đối.Chỉ sau khi truyền giáo Đại Sư viên tịch,triều đình mới cho phép thiết lập giới đàn trên núi Tỉ Duệ truyền giới Bồ Tát,trở thành cơ sở truyền giới cho tất cả các tông pháp Nhật Bản.

- Trong thời Nại Lương có ba địa điểm giới đàn: 1/Chùa Đông Đại(Todaiji) ở Nại Lương(Nara). 2/Chùa Quán Thế Âm(Kwanseonji) ở Trúc Tiền(Tsukusho). 3/Chùa Dược Sư(Yakushiji) ở Hã Dã(Sinozuke).Trong thời Bình An(Heian)có 5 địa điểm giới đàn.

- Tân Luật Tông không mấy phổ cập tại Nhật Bản một phần vì đây là luật Học Tiểu Thừa do Nghĩa Tịnh(635-713) mới mang từ Ấn Độ về,mặt khác vì sự hưng khởi Đại Thừa Luật của Thiên Thai Tông.

- Từ Luật Tông của Tứ Phần Luật,một trào lưu mới do Duệ Tôn(Eison,1201-1290)khởi xướng,chủ trương thọ giới trên căn bản của giới tự nguyện,gọi là Tân Luật Tông.Thực ra đây là sự phục sinh của thọ giới tự nguyện của Thánh Đức Thái Tử như đã từng được Nữ Hoàng Suy Cổ thực thi.

- Duệ Tôn học Luật(Vinaya) tại chùa Đông Đại,tìm thấy ý nghĩa thọ giới tự nguyện trong Kinh Thắng Man,Phạm Võng cũng như Thiên Thai và Thiền Tông,cùng với người bạn thành lập Tân Luật Tông theo phương thức tự nguyện.

- Thời Phật giáo phục hưng dưới triều Đức Xuyên(1603-1876)có hai phái luật, đó là Diệu Pháp Luật(Myohoritsu)của Tịnh Nghiêm(Jogon) ở Giang Hộ(Yedo)và Chánh Pháp Luật(Shohoritsu)của Từ Vân(Jiun) ở Hà Nội(Kawachi).Hai phái này có vài liên hệ với ngành luật học của Duệ Tôn.

302. Xin cho biết yếu nghĩa của Tân Luật Tông Nhật Bản.

- Theo Tân Luật Tông,Luật Tứ Phần chú trọng hình thức,có khuynh hướng chấp chặt văn tự,ngôn ngữ và các hình thức của luật,do đó có sự tranh cãi trong kỳ Kết Tập II sau Phật Nhập Diệt 100 năm.Luật Đại Thừa chú trọng tinh thần luật hơn là ngôn ngữ luật.

- Người trì giới phải đặc biệt chú trọng Giới Thể,một trong bốn sắc thái của giới.

- Giới thể dựa vào tinh thần tự nguyện diễn ra vào lúc trang nghiêm thọ giới,bộc lộ trong tư tưởng,ngôn ngữ và hành vi.

- Tứ Phần Luật chủ chốt cho hàng Tăng Ni,người theo luật học Giới Thể,chú trọng tinh thần hơn hình thức là các Bồ Tát,không phân biệt Tăng hay tục.

- Trong luật học Tứ Phần,lễ truyền giới cần phải có Tam Sư Thất Chứng,Tân Luật Tông quan niệm thọ giới có thể được diễn ra qua ba hình thái: 1/Giới Tự Nguyện không cần đến Tam Sư Thất Chứng như trường hợp Hoàng hậu Thắng Man(Srimàlà)trong Kinh Thắng Man.Lễ thọ giới tự nguyện được Kinh Phạm Võng cho phép. 2/Theo tông chỉ Pháp Hoa,tất cả giới luật đều có sẵn trong tâm,không phải là sản phẩm của một nỗ lực đặc biệt nào.Có thể gọi đó là Giới Tự Hữu(Tự Tâm Bản Cụ) và là giới đặc biệt cho Thiên Thai Tông. 3/Thiền Tông trong thời Kiếm Thương(Kamakura,1183-1331)có một lối thọ giới giống Thọ Giới Tự Hữu.Theo tông này ý niệm về giới luật có sẵn trong bản tính con người,nếu hồi quang phản chiếu ta có thể kéo nó ra mà thực hành,gọi là Giới Tự Tánh.

303. Em thấy nhức đầu quá, có cách nào tóm tắt yếu nghĩa khác nhau của các tông phái Phật Giáo?

- Chỉ có 36 câu hỏi và trả lời về tông phái Phật Giáo thế mà em đã nhức đầu?Hãy bỏ hai giời đọc lui đọc tới sẽ hiểu.Vô lẽ hai giờ nhiều quá?Thôi chịu khó bỏ 10 phút vậy!

- Câu Xá Tông chủ trương tâm,vật đều hiện hữu,tuy không thừa nhận một bản ngã cá biệt hay nguyên nhân đầu tiên.

- Thành Thật Tông chủ trương không có gì hiện hữu,cả tâm và vật,hoàn toàn trái ngược với Câu Xá Tông.

- Pháp Tướng Tông chủ trương tất cả các pháp không tách biệt khỏi thức,không cực hữu như Câu Xá Tông,không cực vô như Thành Phật Tông.

- Tam Luận Tông bác bỏ kiến thức cục diện hay không cục diện để đi đến trí tuệ viên mãn.

- Hoa Nghiêm Tông chủ trương pháp giới duyên khởi,một là tất cả,tất cả là một.

- Thiên Thai Tông hay Pháp Hoa Tông chủ trương Nhất Tâm Tam Quán,nghĩa là trong mỗi tâm niệm đều có Không Quán,Giả Quán và Trung Quán.

- Chân Ngôn Tông hay Mật Tông chủ trương có thể chứng đắc Phật quả trong hiện kiếp qua gia trì lực.

- Thiền Tông hay Phật Tâm Tông chủ trương“Chân tướng vô tướng”,“Pháp môn vô môn”,“Thánh trí vô trí”,“Trực chỉ nhân tâm,kiến tánh thành Phật”.

- Tịnh Độ Tông chủ trương tín tâm là phương tiện thiết yếu để giải thoát.

- Nhật Liên Tông quan niệm hành của Phật mới quan trọng.Ai thi hành các phương diện hành của Phật mới là hành giả của Kinh Pháp Hoa.Một câu tụng Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là hàm chứa tất cả.

- Tân Luật Tông nhấn mạnh đến Giới Tự Nguyện,không đặt nặng hình thức thọ giới.

304. Phật Giáo chi thành Tông Phái, Hệ Phái dựa vào nền tảng nào?

- Phật Giáo Trung Hoa chia tông phái,hệ phái của họ thành ba loại:

- 1/Giáo môn,hay như danh từ hiện đại gọi là trường phái,với giáo nghĩa đặc biệt,gồm Thiên Thai,Hoa Nghiêm,Pháp Tướng.

- 2/Tông môn,ngoài giáo nghĩa đặc biệt còn có hệ thống truyền thừa,gồm năm hệ phái thiền.

- 3/Luật Môn,tức Luật Tông,giáo nghĩa cũng như hành trì.

-Chỉ có Tịnh Độ Tông là đứng trên và đứng ngoài sự phân loại trên.Trên danh nghĩa Giáo Môn,chùa giảng dạy kinh Hoa Nghiêm,giáo nghĩa Pháp Tướng,Thiên Thai.Trên danh nghĩa Tông Môn,đại đa số chùa Trung Hoa thuộc trong nhiều Tông Môn,một số ít tích cực theo Tông Môn, điều hành Thiền đường.Trên danh nghĩa giới luật,tất cả đều lập đàn tràng truyền giới,đều theo Luật tông .Trên quy chế chùa lại trở về Tông Môn,áp dụng Bách Trượng Thanh Qui.

305. Tăng Ni Phật Tử có thể thay đổi phương thức hành trì? Có thể dung hợp phuơng thức hành trì?

- Thiên Thái Tông chủ trương hành trì dung hợp gọi là Thiền Tịnh Song Tu,vừa tu thiền,vừa tu Tịnh Độ cùng một lúc.

- Một vị sư thế phát xuất gia tại ngôi chùa thuộc hệ phái Lâm Tế,hành trì thiền quán tại chùa Lâm Tế ,sau một thời gian ông cho thiền Lâm Tế quá cao, ông không đủ trình độ hành trì, ông chuyển qua tu luyện thiền Tào Động,sau một thời gian không thấy thích hợp ông qua tu luyện thiền Thiên Thai Chỉ Quán.Sau tám năm tu luyện, ông thấy không tiến triển, ông theo môn niệm Phật Tịnh Độ,nhưng vẫn xem mình là môn đồ phái Lâm Tế.

306. Thiền Lâm Tế, Tào Đông, Thiên Thai khác nhau như thế nào?

- Thiền Lâm Tế chuyên thoại đầu,chuyên hành thiền không đọc kinh sách,thiền Tào Động vừa hành thiền vừa học hỏi Tam Tạng,có khi gọi là Văn Tự Thiền,thiền Thiên Thái hành trì Chỉ,Quán,thiền Tịnh song tu.

307. Làm thế nào Phật Giáo trong bối cảnh văn hóa Ấn Độ lúc bấy giờ có thể trong một thời gian ngắn hạn lan rộng nhiều nơi trên Ấn Độ với hàng nghìn Tăng Ni, với hàng triệu tín đồ?

- Trước hết là gia cảnh của Phật:sinh trưởng trong gia đình đế vương,sống đời nhung lụa,thế mà quyết tâm từ bỏ mọi thú vui trần thế,vào rừng tu khổ hạnh.

- Thứ đến nếp sống bình dị:dù sinh trong một gia đình vua chúa,dù giác ngộ thành Phật,dù được quốc vương, đại thần trọng vọng,Ngài hằng ngày vẫn cầm bình bát đi khất thực,ngay khi trở về hoàng cung thăm phụ hoàng.

-Thứ ba ngài rất quan tâm đến hàng đệ tử:săn sóc,tắm rửa cho đệ tử khi lâm bệnh ung nhọt.

- Thứ tư,chí nguyện hoằng pháp, độ sinh:gửi chư Tăng đi khắp nơi truyền bá chánh pháp.Không quản gian lao đôi khi nguy hiểm đến tính mạng trong sứ mệnh truyền bá chánh pháp.

- Thứ năm tùy duyên hóa độ,sử dụng ngôn ngữ bình dân để giảng dạy cho hàng dân chúng.Tóm thâu giáo nghĩa ba tháng trước khi nhập diệt để sau đó trong kỳ Đại Hội Kết Tập I,hàng đệ tử có thể tụng đọc lại Kinh,Luật Phật đã dạy như được đề cập trong Kinh Sangiti-Sutta thuộc Trường Bộ Kinh(Dighanikaya).

- Thứ sáu,phương thức hóa độ:trực diện nhìn thẳng vấn đề,không trốn tránh,không e ngại;luôn luôn tìm hiểu,luôn luôn chiêm nghiệm,không để cho tập quán,truyền thống, địa vị,giai cấp làm hàng rào cản ngăn.

- Thứ bảy,thái độ thực tiễn:Phật luôn luôn lưu ý hàng đệ tử là mọi hành động,mọi tư duy đều phải có mục đích và thuận lợi trong tiến trình phát triển tâm linh và giải thoát chứ không phải để thỏa mãn tính tò mò,hiếu kỳ.

- Thứ tám,tinh thần phoáng khoáng:dù là một bậc thầy giác ngộ,đức Phật không bao giờ bắt buộc đệ tử phải tuân theo lời dạy của ngài một cách mù quáng.

- Thứ chín ý chí tự lực,tự cường: Đức Phật không dựa vào thần linh,không cho mình là thần linh,không dựa vào pháp thuật mà chỉ dựa vào Lời Nói mà Ngài xem là một pháp thuật đầy đủ quyền năng-pháp thuật giáo hóa.

- Thứ mười khéo léo dùng những ví dụ giản dị,thông thường trong đời sống hằng ngày để giảng giải đạo lý nhiệm mầu:Một hôm thiếu phụ Kisagotami, đau khổ vì đứa con nhỏ mới chết,nghe Phật đầy đủ thần thông, đến xin Phật cứu mạng con.Phật bảo Kisagotami đi tìm hạt cải ở bất kỳ nhà nào không có người chết đem lại cho Phật,Ngài sẽ cứu đứa bé sống lại.Kisagotami đi từ nhà này đến nhà khác,không có nhà nào không có người đã qua đời.Phật nhân cơ hội ấy giảng giải đạo lý vô thường,sinh diệt cho thiếu phụ nghe.Thiếu phụ nhờ vậy vơi đi nỗi khổ,quy y theo Phật.

- Thứ mười một khéo léo giải quyết sự tranh chấp giữa hai nước vì nguồn nước có thể đi đến chiến tranh. Đứng trước hai phe sắp sửa lâm chiến,Phật hỏi:Mạng sống con người quý trọng hay là nước quý trọng?Rồi từ đó dàn xếp cho cả hai phe đều thỏa đáng .

- Thứ mừời hai thể hiện tinh thần bình đẳng:trong hàng đệ tử của ngài gồm đủ mọi hạng người,từ giai cấp quý tộc đến giai cấp hạ tiện,nói lên thái độ của Ngài đối với hệ thống giai cấp bất công thời bấy giờ. Đối với ngài hạnh phúc của người nô bộc hạ tiện ngang hàng với hạnh phúc của vị quốc vương,quyền quý .

- Thứ mười ba đức tính khiêm cung:dù được mọi người trọng vọng,Ngài vẫn khiêm cung,không chấp nhận lời tán dương của sariputta,sẵn sàng nghe ý kiến của người thị giả Ananda,chấp nhận cho thành lập Ni Bộ…

- Thứ mười bốn,nếp sống quy củ:Thường ngài đi từng nhà khất thực,không phân biệt nhà ấy thuộc giai cấp nào,trừ trường hợp Ngài và đệ tử được mời thọ trai.Sau khi thọ trai,Phật hay một đại đệ tử giảng kinh cho gia đình thí chủ nghe.Mỗi đêm Ngài chỉ ngủ vài giờ,thời gian còn lại Ngài dùng ngồi thiền hay giảng dạy cho chúng Tăng.Ban đêm Ngài dùng thì giời giải đáp thắc mắc của chư Tăng về những điểm chư Tăng chưa được thâm hội.

- Ngài đi từ làng này đến làng khác,khất thực,giảng đạo trừ ba tháng mùa mưa mà sau này hàng Tăng Già định chế hóa gọi là Ba Tháng Kiết Hạ An Cư(Vassana).

- Thứ mười lăm,hạnh nhẫn nhục và bao dung:cuộc đời của Ngài không phải luôn luôn được an bình:Ngài bị con voi điên xông ra,bị Đề Bà Đạt Đa cho lăn đá muốn hại ngài khi Ngài cùng chúng Tăng đi khất thực.Dù bị mưu hại Phật không bao giờ tỏ vẻ giận hờn hay thù ghét.

- Thứ mười sáu,chủ trương đời sống phạm hạnh:trước khi viên tịch Ngài không chỉ định ai thay thế Ngài cai quản Giáo Hội,cũng không quy định cơ chế quản trị Tăng Già mà chỉ khuyên chúng Tăng giữ gìn giới luật,227 giới theo truyền thống Nam Tông,250 giới hay 253 giới theo truyền thống Bắc Tông cho Hàng Tỳ Kheo,348 giới cho hàng Tỳ Kheo Ni.Với phương thức này không tập trung quyền hành, đã giúp cho hàng Tăng Ni uyển chuyển truyền bá chánh pháp một cách hài hòa vào những quốc độ,với phong tục,tập quán,văn hóa khác nhau.

308. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật lịch sử phải chăng là Đức Phật duy nhất của Phật Giáo?

- Phật thường dạy giáo pháp của Ngài không phải do Ngài lập ra mà chỉ khám phá gia tài Pháp Bảo.Tự tính thanh tịnh,chân như chói rọi không phải do Phật tạo dựng mà Phật là vị đã chỉ đường,chỉ phương thức“tìm lại”bản tính uyên nguyên.Phật dạy:“Ta là kẻ khám phá con đường xưa đi đến thành phố đã mất.Ta là kẻ tìm lại con đường đi đến Niết Bàn.”

- Truyền thống Phật Giáo đề cập đến 24 vị Phật gần nhất trước Đức Phật Lịch Sử Thích Ca Mâu Ni ra đời.Gần nhất ở đây thật sự là 400,000 kiếp.Sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Phật Di Lặc,theo thứ tự sau,kể từ gần nhất đến xa nhất:

Phật Gotama(Thích Ca Mâu Ni)

1/Kassapa 13/Sujata

2/Konagamana 14/Sumedha

3/Kakusanda 15/Padumutara

4/Vesabhu 16/Narada

5/Sikkhi 17/Paduma

6/Vippassi 18/Anomadassi

7/Phussa 19/Sobhita

8/Tissa 20/Revata

9/Siddhatta 21/Sumana

10/Dhammadassi 22/Mangala

11/Atthadassi 23/Kondanna

12/Piyadassi 24/Dipankara

309. Giáo lý hay mà không thực hành thì có lợi ích gì không?

- Ta có một bản đồ trước mắt.Xem bản đồ,thích bản đồ,nhưng không theo bản đồ mà đi,thì dù bản đồ có hoàn hảo mấy chăng nữa cũng không thể giúp ta đi đến đích.

- Theo Phật Giáo,lý thuyết và thực hành không rời nhau.Giáo lý nhà Phật nhằm trị lành bệnh thể xác và tinh thần hơn là thỏa mãn tính tò mò.

310. Trước không gian vô hạn, thời gian vô cùng, tấm thân nhỏ bé của con người này có khả năng gì để đạt được mục tiêu tối thượng, xa vời của Phật Giáo?

- Pascal một nhà tư tưởng lớn của Pháp nói con người là cây sậy,nhưng là cây sậy có tiềm năng giác ngộ. Đức Phật nhấn mạnh giá trị cực kỳ to lớn của con người,bởi vì trong tất cả mọi loài chúng sinh,con người có hoàn cảnh thuận tiện và khả năng phát huy giác ngộ giải thoát.

- Con người không lâm vào cảnh giới quá sung sướng của loài trời, để dễ bị quên đi con đường giải thoát;súc sinh,ngạ quỹ quá khổ,không làm sao vươn lên một cách dễ dàng trên đường tìm chân lý.

311. Trên thực tế, lịch sử loài người là chuỗi dài chiến tranh, ngay cả chiến tranh tôn giáo!

- Aristote nói:“Khoa học mà không có tâm học(lương tâm)chỉ là sự băng hoại của tâm hồn .”Không những chỉ băng hoại tâm hồn mà còn hủy hoại cả sự sống,cả loài người,cả trái đất.

- Tôn giáo đã bị xem như các thế lực bảo thủ làm trở ngại sự tiến bộ của nhân loại.Tôn giáo dần dần mất ảnh hưởng.

- Nguồn gốc của chiến tranh không phải vì khoa học hay tôn giáo mà vì lòng tin tuyệt đối một chiều vào vạn năng tôn giáo trước đây và vạn năng khoa học bây giờ.Con người đã sử dụng sai lầm phương tiện tôn giáo và khoa học.

- Tìm hạnh phúc bằng cách thỏa mãn”khát ái”cũng không khác gì muốn hết khát lại uống nước mặn. Điều cần thiết để điều chỉnh hướng đi là nhìn lại vấn đề,chuẩn bị định hướng, điều mà nhà tâm lý học Erich Fromm gọi là“Frames of Orientation and Devotion.”(Khuôn khổ Định Hướng và Thành Khẩn)

-Cứ nhắm mắt đi theo mệnh lệnh,dù là mệnh lệnh nhân danh Đấng Bề Trên,cứ nhắm mắt theo quy luật gọi là khoa học,con người chắc chắn rơi vào vực thẳm.Đạo Phật giúp ta điều chỉnh hướng đi ,giúp ta thẩm định vấn đề một cách vô tư,khách quan trước khi lên đường,trong khi đi trên đường giải thoát,giác ngộ.

- Trong cuốn Tìm Đạo của Hòa Thượng Thích Thiện Châu có kể câu chuyện một thiền sư, đồng thời là một họa sĩ lừng danh với chú tiểu trong chùa.Chú tiểu muốn học vẽ,xin thiền sư chỉ dạy.Thiền sư bảo chú tiểu chọn đề tài.Chú tiểu chọn cụm trúc.Thiền sư bảo chú khoan vẽ mà quan sát cụm trúc một thời gian.Năm này qua năm khác chú xin thiền sư dạy vẽ,thiền sư bảo chú tiếp tục quan sát.Suốt bảy năm chú quan sát cụm trúc từ lúc mới lên măng,rồi lớn lên theo năm tháng dưới sương mai,qua nắng chiều,rung rinh theo chiều gió,trong khung cảnh chim hót vào buổi bình minh.Cuối cùng thiền sư bảo chú tiểu vẽ.Kết quả là một kiệt tác về cụm trúc mà từ trước không ai có thể sáng tác được.

- Con đuờng tìm nếp sống tâm linh đòi hỏi quan sát,quán chiếu,thực hành nhiều năm tháng.

312. Phải chăng Tam Tạng Kinh điển bao gồm tất cả giáo lý của Phật?

- Một hôm Phật nghỉ ở rừng Ta La Song Thọ,tại Kosombi,Ngài nắm vài ngọn lá trong tay,hỏi các đệ tử:“Các thầy thấy ta nắm một ít lá trong tay.Số lá trong tay ta và số lá trong rừng,số nào nhiều hơn?”Hàng đệ tử đáp lá trong rừng nhiều hơn.Phật nói với hàng đệ tử:“ Đúng vậy.Lá trong rừng nhiều hơn lá trong tay Như Lai.Lá trong rừng như sự hiểu biết của Như Lai và lá trong tay của Như Lai không khác gì những lời Như Lai đã giảng dạy.”

313. Tại sao Đức Phật không giảng dạy hết giáo lý của Ngài cho hàng đệ tử?

- Phật dạy:“Vì những hiểu biết khác không cần thiết cho cuộc sống giải thoát,không đưa đến sự chấm dứt khổ đau,không đem lại thanh tịnh,giải thoát,giác ngộ, đến cảnh an vui Niết Bàn….”(Sn. V,437).

314. An vui Niết Bàn? Em còn quá mập mờ về Niết Bàn mặc dầu trên có đề cập. Xin cho biết thêm về Niết Bàn.

- Tôi xin kể giai thoại con cá và con rùa:ngày xưa có đôi bạn rùa,cá.Rùa lên tản bộ trên đất liền một thời gian,lúc xuống sông gặp lại bạn.Cá mừng rỡ hỏi rùa bấy lâu đi đâu vắng mặt.Rùa nói lên đất liền dạo chơi.Cá có vẻ hoang mang hỏi đất liền là cái gì?Nó có ướt như nước?Vừa lạnh,vừa mát?Loãng có thể bơi lội?Có chảy thành dòng nước?Có thể nhấp nhô thành sóng?Rùa trả lời không. Đất liền không ướt như nước,không lạnh,không mát như nước,không loãng như nước,không chảy thành dòng nước,không nhấp nhô thành sóng.Câu trả lời của rùa làm cho cá thêm hoang mang,cho anh bạn rùa nói xạo,không tin.Rùa dùng khả năng ngôn ngữ,trí óc thông thái diễn tả vẫn không thuyết phục được cá về sự hiện hữu của đất liền.Rốt cuộc rùa nói với cá:Tốt hơn hết bạn lên trên ấy thì hiểu được!

 

315. Làm sao cá có thể tản bộ trên đất liền? Làm sao đạt được cảnh giới Niết Bàn? Làm sao dứt hết khổ đau?

- Đi theo Tám Con Đường Chánh(Bát Chánh Đạo).Phân tích Tám Con Đường Chánh,ta thấy hai con đường đầu tiên(Chánh Tri Kiến,Chánh Tư Duy)liên quan đến phạm trù trí tuệ,ba con đường kế tiếp(Chánh Ngữ,Chánh Nghiệp,Chánh Mạng)liên quan đến phạm vị giới luậtvà con đường cuối cùng(Chánh Tinh Tấn,Chánh Niệm,Chánh Định)liên quan đến lãnh vực thiền định.Nói một cách khác Tám Con Đường Chánh có thể tóm tắt thành ba môn,mà từ ngữ Phật Giáo gọi là Tam Học,tóm thâu toàn thể pháp môn tu học,hành trì,thực hành của Phật Giáo.

316. Đức Phật đã thành đạo, đã diệt trừ tất cả các nghiệp, tại sao Ngài vẫn còn bị tai họa?

- Đức Phật sinh trong thân người nên phải bị mọi điều kiện của kiếp người chi phối,như sinh,lão,bệnh,tử.

- Mang thân con người nên khi đói thấy đói,khi khát thấy khát,khi vấp chân vào đá chân phải chảy máu,khi đá lăn xuống đụng người thì phải bị thương tích.

- Tuy bị tai nạn Ngài không phiền não,tuy bị tai ương Ngài không oán ghét,tâm an nhiên tự tại, đó là giác ngộ, đó là giải thoát.

- Khi rời bỏ xác thân người,Ngài nhập Niết Bàn thì lúc đó không còn bị những điều kiện về thân người chi phối nữa.

317. Tam học là gì?

- Tam Học cũng có khi gọi là Tam Vô Lậu Học,hay Tam Thánh Đạo,là ba cách chiêm nghiệm,hành trì. Đó la Giới, Định và Tuệ.

- Giới không phải là lời răn,không phải một mệnh lệnh phải tuân theo một cách thụ động.Giữ giới,với đệ tử Phật,là lối sống có ý thức trách nhiệm cá nhân,sự dấn thân hoàn toàn tự do,tự nguyện.Giữ giới không phải là sự ép mình miễn cưỡng,một sự hi sinh mà là nếp sống đem lại an lạc cá nhân và xã hội.Nền tảng của Giới là từ bi.Giới là loại bỏ những gì trở ngại trên đường đi đến giải thoát,có chức năng hướng dẫn,kiểm thúc đi đúng đường.

- Định là tập trung tư tưởng vào con đường đang đi,cốt làm chủ lấy mình,sử dụng năng lực tâm linh để phát huy ánh sáng chiếu rọi con đường,gồm nhiều phương thức phát triển tâm linh đưa đến đích,đến thanh thịnh,giải thoát.

- Tuệ là hiểu rõ thức tại,hiểu biết trực giác,danh từ Phật học gọi là chân hiện lượng,không bị hình thức,danh xưng che mờ,không nhìn sự vật qua kính màu quan điểm điều kiện hóa.

- Tam Học liên hệ lẫn nhau,giúp đỡ nhau phát triển:Không có giới thì khó có định và tuệ.Không có tuệ thì khó giữ giới cho chu toàn.Không có định thì không thể phát triển tuệ.

318. Cuộc đời của em đầy đau khổ? Học Phật, nghe Pháp nói nhiều về khổ làm cho em đôi khi muốn chấm dứt nó đi cho rảnh nợ đời.

- Trong nhiều bộ Kinh,Phật dạy được sinh làm người là khó(Dhp. 182;Mn III. 169; An. I. 35-37)và chỉ con người mới có thể thành Phật. Đây là lý do tại sao chư Phật luôn luôn xuất hiện trong cõi người.Tấm thân quý báu ấy đáng lẽ phải cưng quý,tại sao lại muốn chấm dứt nó đi.

- Đạo Phật dạy đời là khổ là diễn đạt chân tướng của cuộc đời,trong đạo lý Vô Thường,Khổ,Không,Vô Ngã,cốt để ta không bị ảo ảnh cuộc đời lôi cuốn làm lạc hướng tìm cầu giải thoát.Nhưng trong cái vô thường có cái thường,trong cái khổ có cái vui,trong cái không có cái tịnh,trong cái vô ngã có cái thường hằng như được diễn dịch trong đạo lý Thường,Lạc,Ngã,Tịnh.

- Tư tưởng yếm thế,chán đời không nằm trong đạo lý Khổ Đế.Hơn nữa theo quan điểm Phật Giáo,chết đâu phải là hết.Tự tử vì vậy đâu phải là giải quyết thỏa đáng mà nó còn kéo dài dòng sống lê thê từ kiếp này sang kiếp khác.

319. Đôi khi quá đau khổ em hồi tưởng đến những kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu hay mơ tưởng đến tương lai sang lạn hơn, khiến em cảm thấy bớt đau khổ.

- Phương thức ấy kể cũng hay,cũng giúp cho em vơi khổ,nhưng không chấm dứt khổ,không cho em hưởng được an vui hiện tại.

- Đôi khi đau khổ chính vì nhớ nhung,tiếc nuối quá khứ,mơ tưởng tương lai mà phát sinh.Kinh Nhất Dạ Hiền,trong Trung Bộ Kinh,Phật dạy:

Quá khứ không truy tầm

Tương lai không ước vọng

Quá khứ đã đoạn tận

Tương lai lại chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây.

Không động,không rung chuyển,

Biết vậy nên tu tập.

Phải sống với hiện tại.Tìm an vui trong khổ đau.Biến Ta Bà thành Tịnh Độ. Điều kiện thiết yếu là chuyển tâm.Khi lòng ta thanh thản,thì mọi vật đều an bình, để rồi thấy trời mưa,ta nhận được vẻ đẹp của mưa;trời nắng,trời tuyết,vẻ đẹp của ánh bình minh,vẻ đẹp của hoa tuyết bay…Cuộc đời không còn buồn khổ mà là nơi gói ghém nhiều tâm tình,giúp ta thực hành Bồ Tát Đạo,giúp ta trên lộ trình giải thoát.

320. Muốn hành trì Phật Đạo em phải làm gì?

- Trước hết phải quy y Tam Bảo,quy y Phật,Pháp,Tăng như đã cắt nghĩa ở trên.

.

- Tiếp theo là thọ trì Ngũ Giới như được cắt nghĩa ở trên.

- Tiếp theo nữa,thọ trì Bồ Tát Giới tại gia(được cắt nghĩa sau),hành trì Thập Thiện,đó là: 1/Bố thí. 2/Trì giới. 3/Niệm Phật. 4/Khuyến khích bằng hữu làm việc phước thiện. 5/Vui thích trong việc phước thiện. 6/Hết lòng giúp đỡ kẻ khác. 7/Tôn kính cha mẹ,thầy tổ. 8/Học đạo. 9/Nghe pháp. 10/Quy y Tam Bảo.

- Tu Thập Thiện là khía cạnh tích cực của tránh phạm mười điều ác,gọi là Thập Ác. 1/Không những không giết hay làm tổn hại sinh mạng mà còn thực hành hạnh phóng sinh. 2/Không những không trộm cướp mà còn thực hành hạnh bố thí. 3/Không những không phạm tội tà dâm mà phải tỏ lòng cung kính đối với hàng phụ nữ. 4/Không những không nói dối,mà phải thành khẩn,chân thật,ngay thẳng. 5/Không những không nói lời thô tục,sái đạo nghĩa mà còn nói lời từ ái. 6/Không những không nói lời đâm thọc,gây chia rẽ hận thù mà nói lời hòa hợp,thương yêu. 7/Không những không nói lời độc ác,nguyền rủa mà phải nói lời đôn hậu,nhu hòa. 8/Không những không tham lam mà phải thường tu hạnh thanh tịnh,quán đời vô thường. 9/Không những không giận hờn,thù hận mà phải tỏ lòng bi mẫn. 10/Không những không mê muội mà phải hành trì Chánh Tri Kiến.

321. Em thấy giữ gìn giới luật thật khó khăn, đôi khi miễn cưỡng mà em phải làm đó thôi.

- Không phải miễn cưỡng mà phải nói là cố gắng.Cố gắng lắm em mới giữ được giới luật. Điều này rất dễ hiểu.Quen ăn mặn từ nhỏ đến lớn,bây giờ phải ăn chay,thật rất khó khăn.Quen ngồi lê đôi mách nói chuyện thiên hạ,bây giờ giữ giới không được nói hai lưỡi,nói lời ác,nói lời thêu dệt,nói dối v.v…thì thật là khó khăn.Chúng ta là những kẻ tự nguyện,không miễn cưỡng, đi ngược dòng sông sinh tử với sự cố gắng phi phàm.

- Như ở trên có nói nền tảng của giới luật là từ bi. Ăn chay là thể hiện lòng từ bi.Em thấy ăn chay khó,phải cố gắng lắm mới ăn chay được một tháng bốn ngày,nhưng nhờ đó em thấy lòng thanh thoải hơn,nhìn mọi vật với tình nhân hậu.Em không nói những lời làm cho người đau khổ,nhờ đó em cảm thấy thanh thỏa,chan chứa tình thương…

- Đến đây,giới luật không còn là sự gò bó mà là những phần thưởng vô giá,làm đời sống thăng hoa.

322. Giới là nền tảng đạo đức học Phật Giáo?

- Đúng vậy. :“Chư ác mạc tác,chung thiện phụng hành,tự tịnh kỳ ý,thị chư Phật Giáo.” Đạo đức học Phật Giáo hay hành trì Phật đạo có thể tóm tắt trong câu:Không làm các điều ác,làm các điều lành,thanh tịnh tâm ý.

- Trong nấc thang hành trì,bắt đầu bằng Năm Giới rồi dần dần qua hàng trăm,hàng nghìn,hàng triệu giới, đối với hữu tình chung sinh,vô tình thế giới,dựa vào đời sông phạm hạnh,lấy Từ(Metta),Bi(Karuna),Hỷ(Mudita) và Xả(Upekkha) làm nền tảng.

- Làm việc lành,tránh điều ác,thanh tịnh hóa thân,khẩu,ý là việc con người có thể thực hiện được,không do thần linh áp đặt.Họa hay phước do ta tự tạo.

323. Em nghe nói về thiền định, nhưng thiền định đối với em quá xa lạ.

- Nói đến thiền định là nói đến việc kiểm soát tâm ý vì tâm ý là cội nguồn của mọi hiện tượng.Tâm không thanh tịnh thì lời nói,hành động không thanh tịnh.Đức Phật xây dựng hệ thống đạo đức trên nền tảng tâm lý.

- Hiểu biết chánh pháp chưa đủ mà phải thâm nhập chánh pháp.Muốn xâm nhập chánh pháp phải hành thiền.Trong Kinh Tiểu Khổ Uẩn thuộc Trung Bộ Kinh,Phật dạy:“Thuở xưa khi ta còn là Bồ Tát,chưa chứng được Bồ đề,chưa thành Chánh Đẳng Giác.Ta có chánh kiến thấy rõ nguồn gốc khổ đau,nhưng chưa được hỷ lạc do ly dục,ly bất thiện pháp phát sinh…”Đoạn kinh trên cho ta thấy Chánh Tri Kiến chưa đủ mà phải hành thiền để chứng hỷ lạc do ly dục, để nhiếp phục và đoạn trừ các dục.

- Cũng ở đoạn kinh trên cho ta thấy Giới và Định liên hệ mật thiết với nhau.Muốn hành thiền có hiệu quả là phải ly dục,ly bất thiện pháp.Phật dùng ba thí dụ để nói lên sự liên hệ mật thiết này:Một nguời cần lửa lấy khúc gỗ ướt đặt trong nước rồi lấy dụng cụ làm lửa cọ xát vào khúc gỗ ướt dưới nước.Người khác lấy dụng cụ làm lửa cọ xát vào khúc gỗ ướt.Hai người này không làm sao có lửa.Người thứ ba đem khúc gỗ ướt phơi khô rồi dùng dụng cụ làm lửa cọ xát vào thân cây khô,lửa có thể hiện ra.

324. Đức Phật nhờ thiền định mà chứng đắc đạo quả. Thiền định đã đem lại hỷ lạc như thế nào?

-

Sau khi từ bỏ lối tu khổ hạnh,sau khi thọ dùng sữa đề hồ,đức Phật ngồi dưới gốc cây Diêm Phù Đề(sau này gọi là cây Bồ Đề),Ngài thực hành thiền định,chứng Sơ Thiền,Nhị Thiền,Tam Thiền,Tứ Thiền,cuối cùng Ngài thành Đạo,thành Phật.

325. Cho em biết sơ qua kinh nghiệm hành thiền, chứng đạo của đức Thế Tôn?

- Lúc đầu Phật hành trì Tứ Thiền,rồi Vô Sắc Giới Thiền,rồi đi vào Tam Muội Thiền(Dyhana Samadhi),Như Lai Thiền,gồm cả thiền Nam Tông và thiền Bắc Tông.

- Phương pháp hành trì thiền về sau chia ra làm hai gọi là Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền.Như Lai Thiền là phép thiền được ghi vào kinh điển do Phật dạy.Tổ sư thiền là phép thiền do các bậc tổ sư dựa vào Như Lai Thiền đưa ra nhiều phương thức tùy theo trình độ,căn cơ,văn hóa quốc độ.

326. Đức Phật thành đạo do tu thiền Nam Tông hay Bắc Tông?

- Đại kinh Sacca nói rõ kinh nghiệm hành thiền,chứng đạo của Đức Thế Tôn: “Này Aggivessana,sau khi ăn thô thực,sức lực trở lại,ta ly dục,ly bất thiện pháp,chứng và trú Thiền Thứ Nhất(danh từ Phật Học gọi là Sơ Thiền),một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh có tầm có tứ.Thọ lạc khởi lên nơi ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta.Diệt tầm và tứ,chứng và trú thiền thứ hai,một trạng thái hỷ lạc do định sinh,không tầm không tứ,nội tĩnh nhất tâm.Lạc thọ khởi lên nơi ta,được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta.Ly hỷ,trú xả,chánh niệm tỉnh giác,thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú,chứng và trú Thiền Thứ Ba,lạc thọ khởi lên nơi ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta.Xả niệm,xả khổ,diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,chứng và trú thiền thứ tư,không khổ,không lạc,xả niệm thanh tịnh,lạc thọ khởi lên nơi ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta.”

- Nói theo ngôn ngữ thông thường kinh nghiệm của Thiền thứ nhất là trạng thái hỷ lạc gồm năm yếu tố:tầm(hướng tâm đến đối tượng),tứ(dán tâm trên đối tượng),hỷ,lạc,nhất tâm,do từ bỏ mọi ham muốn.Kinh nghiệm của Thiền thứ hai là hỷ lạc không còn dựa vào tầm,tứ,chủ quan,khách quan.Kinh nghiệm của Thiền thứ ba là hỷ lạc không còn dựa vào hỷ.Kinh nghiệm của Thiền thứ tư là hoàn toàn thanh tịnh,không khổ,không lạc,vượt ngoài biên cương cảm thụ,chỉ còn xả và nhất tâm.

327. Trong Kinh có đề cập đến Tứ Thiền Thiên là ý nghĩa như thế nào?

- Là bốn cảnh trời thiền.

- Trong kinh có đề cập đến 20 cảnh giới gồm 4 cảnh giới của Sơ Thiền,3 cảnh giới của Nhị Thiền,3 cảnh giới của Tam Thiền,3 cảnh giới của Tứ Thiền và 7 cảnh giới của Tịnh Phạn Địa.

- Nói một cách khác người hành thiền chứng quả vị Sơ Thiền,có thể xuất thần hoặc thác sinh vào cảnh giới Phạm Thân Thiên(Brahmakaya),Phạm Chúng Thiên(Brahmaparsadya),Phạm Phụ Thiên(Brahmapurohita),Đại Phạm Thiên(Mahàbrahmà).Chứng được quả vị Đệ Nhị Thiền,có thể xuất thần hoặc thác sinh lên những từng trời Thiền Quang Thiên(Parittabha),Vô Lượng Quang Thiên(Abhàsvara).Chứng được quả vị Đệ Tam Thiền có thể xuất thần hoặc thác sinh lên cảnh giới Thiểu Tịnh Thiên(Parittasubha),Vô Lượng Tịnh Thiên(Apramanasubha),Biến Tịnh Thiên(Subhakrtsna).Chứng được quả vị Đệ Tứ Thiền có thể xuất thần hay thác sinh vào Vô Vân Thiên(Anabhraka),Phước Sinh Thiên(Panyaprasava),Quảng Quả Thiên(Bratphala).

328. Cho em biết chữ Thiền trong Phật Giáo.

- Thiền tiếng Pali là Jhàna,tiếng Sanscrit là Dhyàna,tàu dịch âm là Thiền Na từ chữ Sanscrit Dhyàna,dịch nghĩa là Chỉ Quán,Nhật dịch là Zen,Anh dịch là Meditation,Việt dịch là Thiền.Ngài Buddhaghosa định nghĩa thiền là chọn lọc đối tượng,diệt trừ các yếu tố triền cái,kiết sử đối nghịch.

329. Cho em biết sơ qua về phương thức hành thiền.

- Phương thức hành thiền hay phương thức phát triển tâm linh,tiếng Pali gọi là Bhavana là phương pháp làm cho tâm thức thanh tịnh,nghĩa là không để cho tham,sân,thụy miên(biếng nhác,mê ngủ),trạo hối(xao động,buồn rầu),nghi ngờ chi phối hoạt động tâm thức.Năm yếu tố này theo danh từ Phật Học gọi là Ngũ Cái(Panca Nivarana,Five Hindrances).

- Phương thức hành trì Bhavana có hai,thứ nhất là loại bỏ mọi ý niệm,không cho làm giao động tâm trí,tập trung tư tưởng tiếng Pali gọi là Samatha,tiếng Tàu dịch âm là Tam Ma Địa,dịch nghĩa là Chỉ(Concentration).Phương thức hành trì này chịu ảnh hưởng của phái Du Già(Yoga)Ấn Độ Giáo.Phương thức thứ hai là Quán,là quán chiếu,tiếng Pali gọi là Vipassana,thường dịch là Thiền Minh Sát(Meditation).

- Giai đoạn đầu của Thiền Minh Sát là quán hơi thở ra vào(Sổ Tức Quán,Anapanasati),quán chiếu mức độ nhanh,chậm của hơi thở hít vào,thở ra,phát triển khả năng tỉnh thức về hoạt động của thân thể,dần dần đi đến tỉnh thức về mọi sinh hoạt,lúc thức cũng như lúc ngủ.

- Từ đó bước vào giai đoạn hai là quán chiếu bốn đối tượng căn bản hay là nền tảng của quán chiếu(Satipatthana),danh từ Phật Học là Tứ Niệm Xứ-bốn pháp hành đạo trong 37 phép để chứng quả Bồ Đề(Tam Thập Thất Phẩm Trợ Đạo)- đó là 1/Quán chiếu về thân(Kayanupassana) 2/Quán chiếu về cảm thọ(Vedananu-Passana) 3/Quán chiếu về tâm(Cittanupassana) 4/Quán chiếu về pháp(đối tượng của tâm hay quán chiếu về lời dạy của Phật,Dhammanupassana).

330. Cho em biết thêm phương thức hành trì quán chiếu về thân?

- Quán chiếu về thân là phân tích,nhận định,tìm hiểu sự cấu tạo của thân,gồm những bộ phận gì, để nhận chân tấm thân này có tồn tại mãi không,khi chết tấm thân này còn nguyên vẹn không hay là đống thịt hôi thối,rữa nát và do đó có phải là đối tượng thụ hưởng dục lạc?Phương thức quán tưởng về thân gồm 32 yếu tố cho các hành giả thiền quán ngồi trong bãi tha ma hết sức tỉ mỉ,gọi là Quán Thân Bất Tịnh.

331. Cho em biết thêm phương thức hành trì quán chiếu về cảm thọ?

- Quán chiếu cảm thọ do năm giác quan(mắt,tai,mũi,lưỡi ,thân) đem lại khi va chạm hay tiếp xúc với năm đối tượng bên ngoài (sắc,thanh,hương.vị,xúc).Những cảm thọ ấy đôi khi sung sướng, đôi khi khổ đau,nhưng tất cả đều chuyển biến vô thường.Sung suớng mất đi thì khổ,khổ đau dai dẳng thì khổ.Tất cả đều dẫn đến khổ.Đó là Quán Thọ thị Khổ.

332. Cho em biết thêm phương thức hành trì quán chiếu về Tâm?

- Quán chiếu về tâm không những cho ta am hiểu sự hoạt động của tâm thức mà còn cho ta thấy sự vô thường,biến đổi của tâm thức.Đó là Quán Tâm Vô Thường.

333. Cho em biết thêm phương thức hành trì quán chiếu về pháp?

- Quán chiếu về pháp là quán chiếu đối tượng của tâm hay quán chiếu lời dạy của Phật về Ngũ Cái)Pancanivarana,năm yếu tố làm cản trở tiến trình giải thoát:Tham,sân,thụy miên,trạo hối,nghi đã giải thích ở trên);quán chiếu về Ngũ Uẩn(Pancakkhandha,năm yếu tố tạo thành thân người:sắc,thọ,tưởng,hành,thức);quán chiếu về sáu căn,sáu trần;quán chiếu về bảy giác chi (Sattabhojjhanga,bảy đức giác ngộ:niệm,trạch,pháp,tinh tấn,hỷ,khinh an, định,hành xả).Thất Giác Chi cũng gọi là Thất Bồ Đề Phần,Thất Giác Ý,quán chiếu về Tứ Diệu Đế(khổ,tập,diệt. đạo).

334. Có bao nhiêu phương thức thiền?

- Phương thức thiền quán của Phật Giáo tùy theo tâm tính,khả năng của mỗi người.Trong kinh liệt kê 40 phương thức khác nhau,tùy trình độ,căn cơ.Mỗi phương pháp dùng để chế ngự một vấn đề hay để phát triển trạng huống tâm linh.Đối tượng thiền quán có thể là Phật,Pháp,Tăng,Từ Bi,sự chết,sự hoại diệt v.v…Nhờ thiền quán,tâm được an tịnh,trí huệ phát sinh.

335. Xin nói thêm về phương thức Từ Bi quán.

- Sau khi đã làm quen với Sổ Tức Quán,ta có thể thực hành phương thức Từ Bi Quán.Trước hết chú tâm đến chính mình,tự hỏi:Làm sao ta được an lạc,được hạnh phúc.Làm sao ta được thanh thỏa,an tịnh.Làm sao ta tránh được các tai họa.Làm sao lòng ta không bị sân hận chi phối.Làm sao lòng ta tràn đầy tình thương.Tiếp theo đó ta nghĩ đến người ta yêu,đến người ta không yêu không ghét,đến người ta ghét.Tất cả đều mong cho họ an bình,hạnh phúc.

336. Thực hành Từ Bi Quán được lợi ích gì?

- Nếu ta thực hành đúng phương pháp,nếu thái độ thành khẩn,ta sẽ thấy sự biến chuyển trong tâm ta.Ta có thể khoan hồng tha thứ cho chính ta.Ta sẽ thấy lòng thương của ta đối với người thân tăng trưởng hơn.Ta sẽ thấy ta dễ làm bạn với những người trước đây ta có vẻ dửng dưng.Ta sẽ thấy lòng đố kỵ bớt đi.Ta sẽ thấy thoải mái đối với mọi người,mọi trường hợp xảy ra.

337. Phải chăng trí tuệ phát sinh nhờ thiền quán là một trong Tam Học Giới Định Tuệ?

- Đúng vậy.Nhờ giới mà tu định có hiệu quả.Nhờ tu định có hiệu quả,mà trí tuệ phát sinh.

- Trí tuệ ở đây là nhận rõ,thâm nhập Tứ Thánh Đế.Trong diễn trình phát triển trí tuệ qua việc thâm nhập đạo lý Tứ Đế,hành giả bước vào quả vị Tu Đà Hoàn,(Sotapati),Tàu dịch là Nhập Lưu, đi vào dòng Thánh,bằng cách diệt trừ ba mối trói buộc(Tam Kết Sử),đó là 1/Thân Kiến(Sakkàyaditthi),ràng buộc mình vào thân Tứ Đại. 2/Nghi(Vicikiccha),không có lòng tự tín. 3/Giới Cấm Thủ(Silabbata-Paramasa)ràng buộc vào những quy luật,lễ nghi.Đây là 3 trói buộc đầu tiên trong 10 trói buộc,mà danh từ Phật Học gọi là Thập Kết Sử(Samyojana),trói buộc con người trong cảnh sinh tử,luân hồi.Hành giả tu tập thiền quán,chứng đắc quả vị Tu Đà Hoàn,phải tái sinh 7 lần mới chứng quả vị A La Hán.

- Nhờ tiếp tục diệt trừ tận gốc rễ 3 yếu tố ràng buộc trên,hành giả chứng đắc quả vị Tu Đà Hàm(Sakalagami)tàu dịch là Nhất Lai,nghĩa là một lần tái sinh nữa sẽ chứng đắc Niết bàn.

- Nhờ diệt trừ hai món Kết Sử trong 10 Kết Sử kế tiếp là 4/Tham Dục(Kamaraga)và 5/Sân Nhuế(Vyapada) nên đạt được địa vị thứ ba gọi là A Na Hàm(Anagami) tàu dịch là Bất Lai,nghĩa là không tái sinh trong cõi Dục Giới mà vãng sinh lên cõi Sắc Giới,rồi từ đó nếu tiếp tục hành trì thiền quán,có thể chứng đắc Niết Bàn.

- Để đạt được cảnh giới an lạc,giải thoát,hành giả cần dứt sạch 5 trói buộc còn lại(trong mười Kết Sử),đó là 6/Sắc giới sử(Ruparaga),giải thoát ràng buộc của Sắc Giới. 7/Vô sắc giới sử(Ariparaga),thoát khỏi ràng buộc của Vô Sắc Giới. 8/Mạn(Mana),thoát khỏi tròng tự mãn,kiêu mạn. 9/Xao động(Uddhacca)thoát khỏi trạng huống xao động. 10/Vô minh(Avijja),thoát khỏi mọi mê lầm,diệt sạch vô minh,chứng đắc Niết bàn.

338. Em thấy tu thiền quán khó khăn quá, em chỉ muốn tu Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng sinh.

- Niệm Phật cũng là một phương thức thiền định,trừ phi miệng em niệm mà lòng nghĩ đâu đâu.Niệm Phật mà “Nhất tâm bất loạn”(Tâm chuyên chú không loạn động)là một hình thức thiền định.

- Có 4 phương thức niệm Phật.Phương thức thứ 1 gọi là 1/Trì danh niệm Phật,miệng niệm sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật.”Trong phương thức trì danh niệm Phật,có hai phương pháp gọi là a/Kim Cang Niệm,niệm bằng tâm,nghe rõ mồn một từng tiếng Nam Mô A Di Đà Phật trong tâm và tai cũng nghe rõ từng tiếng Nam Mô A Di Đà Phật. b/ “Triêu Mộ Thập Niệm”,sáng tối mười niệm.Sáng sớm sau khi thức dậy,làm vệ sinh xong,ngồi chắp tay,mặt hướng về phía Tây,niệm Nam Mô A Di Đà Phật.Cứ một hơi thở là niệm danh hiệu Phật,được bao nhiêu lần thì cứ niệm bấy nhiêu và cứ như thế niệm trong mười hơi thở.Sáng sớm cũng như chiều tối đều thực hành phép thập niệm này.

- Phương thức thứ hai gọi là 2/Quán Tượng Niệm Phật, để hình tượng Đức Phật A Di Đà trước mặt,vừa niệm vừa quán tưởng hình tượng Phật A Di Đà,chuyên tâm trì niệm quán tưởng“bạch hào”(lông trắng)giữa hai chân mày của Phật,phát chiếu hào quang, đạt được Niệm Phật Tam Muội với trạng thái “nhất tâm bất loạn”.

- Phương thức thứ ba gọi là 3/Quán Tưởng Niệm Phật. Đây là phương thức quán tưởng Phật mà không cần hình tượng,quán tưởng“bạch hào”(luồng sắc trắng)giữa hai hàng lông mày của Phật,phát chiếu hào quang tỏa khắp núi Tu Di.Trong vô lượng ánh hào quang của Phật hiện ra vô số hóa thân Phật,hóa thân Bồ Tát.

- Phương thức thứ tư là 4/Thực Tướng Niệm Phật,tức là tham thiền,tìm hiểu sở niệm(đối tượng)năng niệm(người niệm)để rồi quán triệt không có năng,sở.Niệm mà không niệm,không niệm mà niệm.

- Tóm lại giữa niệm Phật và hành trì thiền quán thật ra không có hàng rào ngăn cách.Thiền Tịnh Song Tu(Vừa tu thiền vừa tu Tịnh Độ) chính là ý nghĩa này.

339. Gần đây em thấy báo chí Mỹ đề cập nhiều về thiền. Họ đã khám phá được gì?

- Trong tuần báo Time ra ngày 4 tháng 8,2003 có một bài với nhan đề The Science of Meditation(Khoa Học Thiền) đề cập đến hàng triệu dân Mỹ tham gia khóa thiền vì sức khỏe,vì an lạc thân tâm.Tác giả Joel Stein cho biết các khoa học gia nghiên cứu thiền,các bác sĩ khuyên bệnh nhân hành thiền,hàng triệu dân Mỹ hàng ngày hành trì thiền quán,với hình ảnh của sinh viên,luật sư,tù nhân hành trì thiền;với hình ảnh não bộ thay đổi do thiền quán.Giáo sư Herbert Benson,giáo sư Gregg Jacobs thuộc trường Y Khoa, Đại Học Harvard,giáo sư Andrew Newberg,trường Đại Học Pennsylvania,giáo sư Richard Davidson,trường đại Học Wisconsin đã sử dụng phương tiện khoa học tối tân và thiền sư để nghiên cứu về tác dụng thiền quán đến não bộ con người.

- Bài báo còn cho độc giả biết về phương thức hành trì,giới thiệu trung tâm thiền quán,sách vở,báo chí ngay cả websites liên quan đến thiền quán và thiền tập.

340. Chỉ cho em phương thức hành thiền, giản dị, dễ thực hành nhất?

- Em sống ở Mỹ lâu ngày nên cái gì cũng vội vã,cái gì cũng muốn giản tiện:Food to go,McDonald’s,Shopping Malls,One stop sale.Co lẽ một ngày nào đó em đòi có Xa Lộ Thiên Đường và xe Không Người Lái trên xa lộ ấy!

- Có lẽ ước vọng của em cũng có thể đạt được,vì cách đây mấy năm,tôi có đến tham dự một khoá thiền được tổ chức tại Los Angeles Conventoin Center(khóa thiền tại Convention Center!)với đầy đủ tiện nghi giống như One stop sale:thiền sư hướng dẫn,cà phê,nước trà, âm nhạc thiền. Đây là khóa nhập môn,nên rất dễ dãi,thoải mái!Chắc em có thể dự khóa này được.

- Thiền là tập trung tư tưởng trên một đối tượng.Muốn hành thiền có kết quả,hành giả phải sống cuộc sống lành mạnh,phải giữ gìn giới luật.Nên nhớ câu nói:Nhờ giới sinh định,nhờ định phát tuệ.

- Muốn hành thiền phải chuẩn bị tư lương:Trưóc hết phải dẹp bỏ tâm tham,sân,lười biếng,giao động,nghi ngờ,thuật ngữ Phật Học gọi là diệt trừ Triền Cái(những thứ trói buộc khiến ta khó thoát đạt được kết quả mong muốn),rồi kiếm nơi yên tĩnh,không TV,không phim chưởng,không hát cải lương,ngồi kiết già hay bán già,lưng thẳng,an trú vào chánh niệm.

- Muốn dẹp bỏ 5 Triền Cái,hành giả sử dụng 5 Thiền Chi(5 yếu tố giúp đỡ người hành thiền):lấy Tâm(hướng tâm vào đối tượng thiền quán) để diệt trừ lười biếng,ngủ gục;lấy Tứ(dán tâm trên đối tượng)nên diệt được sự nghi ngờ,phân vân;lấy Hỷ,lòng thanh thản,thoải mái thay cho sân;lấy Lạc,trạng thái khinh an thay cho dao động;lấy Nhất Tâm,không bị hỷ,lạc chi phối,thay cho tham dục.

- Thiền đem lại an lạc,danh từ Phật Học gọi là Hiện Tại Lạc Trú(Ditthadhamma-sukhavihàri),một sự an lạc,thoải mái,an tịnh không sợ hãi ngay bây giờ.Thiền vì vậy không khắc khổ,dị thường,không bí mật,trốn đời.

341. Ngoài phương thức ngồi thiền kiểu One Stop Sale ở Convention Center, cho em biết phương thức thực hành thiền cho người sơ cơ.

- Phương thức thiền cho người sơ cơ đó là pháp môn Anapànasati,Tàu dịch là Nhập Tức Xuất Tức Niệm,Việt dịch là Niệm Hơi Thở vào và Hơi Thở Ra,tức là Quán Sổ Tức hay Quán Hơi Thở Ra Vào,quan sát,thẩm tra,xem xét tâm qua từng hơi thở vào và từng hơi thở ra.

- Khi dùng tâm theo dõi hơi thở,dán chặt tâm trên hơi thở vào,hơi thở ra,không cho tâm rời khỏi hơi thở.Đây là phương pháp tu Chỉ Hay Định(Concentration).Mặt khác dùng trí tuệ quan sát 4 đối tượng(Tứ Niệm Xứ),đó là Thân(Kàya),Cảm Thọ(Vedana),Tâm(Citta),Pháp(Dhamma).

- Bốn đối tượng là nơi an trú của tâm.Mỗi đối tượng cung cấp cho hành giả 4 đề tài quan sát.Như vậy hành giả có cả thảy 16 đề tài quan sát,vừa suy tư quán tưởng,vừa theo dõi từng hơi thở ra vào.Đây là phương pháp tu Quán(Meditation).

- Sổ Tức Quán giúp cho hành giả phương pháp tu Định(Samatha) và tu Quán(Vipassana).Cả Chỉ và Quán,cả Định và Tuệ đều được hành trì trong pháp môn Anapànasati(Sổ Tức Quán)này.

- Từ cách đếm hơi thở vào ra trông có vẻ giản dị,nhưng trong thời gian ngồi thiền nửa giờ đếm không lầm lẫn,từ 1 đến 10,rồi trở lại 1 đến 10,tâm theo dõi hơi thở,dán chặt tâm vào hơi thở,thật không giản dị tí nào.

- Đếm hơi thở xong đi vào giai đoạn cao hơn là quán chiếu 16 đề tài của 4 đối tượng.

342. Mười sáu đề tài quán chiếu của bốn đối tượng Thân, Thọ, Tâm Pháp là gì?

- Đó là 4 đề tài về Thân,4 đề tài về Thọ,4 đề tài về tâm và 4 đề tài về pháp.

- Bốn đề tài về thân(Kàya)là: 1/Khi thở vào dài ta biết ta thở vào dài;khi thở ra dài ta biết ta thở ra dài. 2/Khi thở vào ngắn ta biết ta thở vào ngắn;khi thở ra ngắn ta biết ta thở ra ngắn. 3/Hơi thở vào chạy khắp thân thể,ta biết hơi thở vào chạy khắp thân thể;hơi thở ra khỏi toàn thân,ta biết hơi thở ra khỏi toàn thân. 4/Thân an tịnh khi thở vào,ta biết thân an tịnh khi thở vào;thân an tịnh khi thở ra,ta biết thân an tịnh khi thở ra.

- Bốn đề tài về Thọ(Vedanà) gồm 1/Cảm giác hỷ thọ khi thở vào;cảm giác hỷ thọ khi thở ra. 2/Cảm giác lạc thọ khi thở vào;cảm giác lạc thọ khi thở ra. 3/Cảm giác tâm hành(buồn,vui,không buồn,không vui)khi thở vào;cảm giác tâm hành khi thở ra. 4/An tịnh tâm hành khi thở vào;an tịnh tâm hành khi thở ra.

- Bốn đề tài về tâm(Citta): 1/Cảm giác về tâm ta thở vào;cảm giác về tâm ta thở ra. 2/Với tâm hân hoan ta thở vào;với tâm hân hoan ta thở ra. 3/Với tâm định tĩnh ta thở vào;với tâm định tĩnh ta thở ra. 4/Với tâm giải thoát ta thở vào;với tâm giải thoát ta thở ra.

- Bốn đề tài về pháp(Dhamma):

1.Quán vô thường ta thở vào,quán vô thường ta thở ra.

2.Quán ly tham ta thở vào;quán ly tham ta thở ra.

3.Quán đoạn diệt ta thở vào,quán đoạn diệt ta thở ra.

4.Quán từ bỏ ta thở vào;quán từ bỏ ta thở ra.

343. Tại sao phải đếm hơi thở từ 1 đến 10? Tại sao phải có 16 đối tượng làm cho khó tập trung tư tưởng, khó tập trung quán chiếu?

- Trong lúc sơ cơ nếu không dùng phương thức này hành giả dễ bị rơi vào trạng thái hôn trầm,thiếu tỉnh thức.Hành giả sẽ trở thành cái máy mà tưởng là tập trung,quan sát.Phương thức đếm hơi thở từ 1 đến 10 giúp ta tập trung tâm thức.Càng phức tạp mới càng chú tâm,mới càng tỉnh thức.

344. Muốn ngồi thiền phải biết điều hòa thân. Điều hòa thân bằng cách nào?

- Điều hòa thân rất quan trọng khi ngồi thiền.Làm thế nào để có thể ngồi lâu,lưng vẫn thẳng mà thân thể không bị tê đau,mỏi mệt,dao động.Phương cách ngồi gồm những động tác sau: 1/Ngồi kiết già,đầu chân trái đặt lên vế chân phải,rồi lấy đầu chân phải để trên vế chân trái,hoặc ngược lại,sau đó kéo hai bàn chân sát vào bụng.Cách ngồi kiết già này mới đầu không quen đau,tê chân,nhưng sau một hai lần,rất thuận lợi cho việc ngồi thiền.Nếu chưa ngồi kiết già được,thì ngồi bán già bằng cách bỏ một chân lên bắp vế chân kia. 2/Lưng thẳng,đừng để lưng sụn xuống hay cong. 3/Giữ đầu sống mũi,cổ và lỗ rún thẳng một đường. 4/Để bàn tay mặt lên bàn tay trái trên hai bắp vế,hai đầu ngón tay cái sát nhau,ép hai khuỷu tay vào bên hông,ép hơi mạnh để giữ lưng cho thẳng. 5/Đầu hơi cúi xuống,không quá cao mà cũng không quá thấp,mắt có thể thấy sống mũi. 6/Nhắm mắt vừa phải.

- Mới hành thiền nên ngồi từ 15 đến 30 phút, đừng quá một giờ.Ngồi trên nệm nhỏ.Ngồi một nửa phần nệm để hai đầu gối sát với sàn nhà.Chỗ ngồi thoáng mát.Ít ruồi,muỗi,kiến.Có thể ngồi trong mùng.Thời điểm ngồi thiền tốt nhất là buổi sáng vừa thức dậy hay buổi tối trước khi đi ngủ.Khi ngồi giữ thân tâm thanh tịnh,không ăn no,không uống rượu.

345. Làm thế nào để điều hòa hơi thở?

- Điều hoà thân xong tiếp theo là điều hoà hơi thở.Hơi thở thong thả,không gấp,không thở khò khè.Thở đều đều,nhẹ nhàng, đừng để niệm rời khỏi hơi thở.Chú ý dùng niệm theo dõi hơi thở,từ 1 đến 10,rồi trở lại 1 đến 10,liên tục không gián đoạn hay sai thứ tự.Nếu gián đoạn hay sai thứ tự thì bắt đầu đếm từ 1 đến 10…

346. Làm thế nào để điều hòa tâm?

- Khi điều hoà hơi thở thì đối tượng của hơi thở là thở vào,thở ra.Khi điều hòa tâm thì đối tượng là 16 đề tài về Thân,Thọ,Tâm,Pháp như đã nói ở trên.Niệm đề tài đầu cho đến đề tài thứ 16,tiếp tục không gián đoạn,không sai lệch.Nếu sai lệch hay gián đoạn lại bắt đầu từ đề tài 1 đến đề tài 16.

- Muốn cho dễ niệm,nên từng 4 đề tài làm chuẩn,sau qua 4 đề tài khác.

- Trong thời gian hành thiền khó nhất là cột niệm vào hơi thở và 16 đề tài.Nhiều khi tâm dao động,niệm chạy loạn,làm ta nghĩ đến chuyện đâu đâu.Phải chận đứng ngay và bắt đầu đếm,bắt đầu quán niệm.

347. Giới luật là một phần quan trọng trong Tam Học. Giới luật của Tăng Ni do Phật chế ra cùng một lúc hay thêm bớt tùy thời?

- Giới luật của Tăng Ni không phải do Phật đưa ra cùng một lúc mà tùy hoàn cảnh,tùy sự việc được dần dần thêm vào.

- Giới luật,nguyên ủy đặt ra giới luật,môi trường,hoàn cảnh chế ra giới luật được nói rõ trong luật Tạng,một trong Tam Tạng Kinh Điển,cho ta thấy rõ giá trị thực tiễn của Phật Giáo.

348. Em thấy Tăng Ni Bắc Tông trong mùa An Cư Kiết Ha., chư Tăng Nam Tông giữ giới không ăn quá giờ ngọ. Tại sao chỉ ăn một bữa? Tại sao chư Tăng Ni Bắc Tông chỉ giữ giới này vào mùa An Cư Kiết Hạ?

- Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn.

- Ngay khi thọ trai,chư Tăng Ni cũng hồi hướng công đức cho đàn na thí chủ đã cung cấp bữa ăn,nhớ ơn kẻ cày sâu cuốc bẫm làm ruộng,cấy gặt lúa…

- Ăn nhiều khó thiền định.

- Không phải chỉ vào mùa An Cư Kiết Hạ chư Tăng Ni mới không thọ trai quá giờ Ngọ,một số không dùng cơm sau giờ Ngọ.

- Các nước Phật Giáo Bắc Tông ở xứ lạnh,cần dùng cơm sau giờ Ngọ để bảo vệ sức khỏe.Một số chư Tăng phải làm lụng tay chân cần ăn uống sau giờ ngọ để đủ sức lao động,dần dần thành tập quán,dầu vậy họ cố gắng hành trì điều luật này ít nhất trong 3 tháng An Cư.

349. Em thấy giới luật phân chi Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, phân chia Tăng Già với Cư Sĩ có vẻ phiền toái và hơi bất công?

- Như trên đã nói sở dĩ Tỳ Kheo Ni có nhiều giới hơn Tỳ Kheo vì nhu cầu,nếp sống,sinh hoạt khác nhau,tuy nhiên những giới căn bản đều giống nhau giữa Sa Di,Sa Di Ni,Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni ngay cả Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di.

350. Cách phân chia cấp bậc trong Tăng Ni như Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng phải chăng tạo thành ranh giới làm cản trở tinh thần tập thể của Tăng Già?

- Để điều hành một tổ chức lớn,thứ tự cấp bậc rất cần,tuy nhiên không nên trọng hình thức mà quên nội dung.

- Trong Kinh Anguttara Nikaya,Phật dạy:“Này các Tỳ Kheo,dầu một vị sư 80 tuổi,90 tuổi hay 100 tuổi nếu nói không đúng thời,nói không chân thật,không phù hợp với Dhamma hay trái với giới luật;nếu vị sư ấy nói những lời mà người ta không để vào lòng quý trọng,những lời không đem lại lợi lạc cho kẻ khác thì vị đó chẳng qua là ông già ngu xuẩn.

- “Này các Tỳ Kheo,dù vị sư đó là người trẻ tuổi,tóc đang còn xanh,trong tuổi tráng niên mà nói lời hợp thời,nói lời chân thật,phù hợp với Dhamma,hợp với giới luật;nếu vị sư trẻ tuổi ấy nói những lời mà người ta để vào lòng kính trọng,nói những lời hợp thời,hợp lý,cẩn trọng, đem lại lợi lạc cho kẻ khác,vị đó được xem như là lão tăng thông thái, đạo hạnh.”

351. Phân chi Tăng Già, Cư Sĩ tạo thành hàng rào ngăn cách, vừa không thể hiện tinh thần bình đẳng, vừa làm cản trở cho việc cảm thông và hoằng truyền chánh pháp?

- Tăng Già và cư Sĩ có hai nếp sống khác biệt,hai vai trò khác nhau.Tăng Già là những người từ bỏ đời sống thế tục,dùng trọn đời mình vào việc tu chứng và hoằng truyền,có thì giờ để chuyên tâm tu học,hướng dẫn hàng Phật Tử qua sự tu chứng học hỏi của họ.Hàng cư sĩ bận việc gia đình,trần thế,không có đủ thì giờ nghiên tầm,hành trì.Họ cần được Tăng Già hướng dẫn và họ có bổn phận cung cấp những nhu cầu vật chất cần thiết để hàng xuất gia có thể chu toàn nhiệm vụ hoằng pháp độ sinh.

- Phân chia Tăng Già,cư Sĩ không có nghĩa cao thấp,trên dưới.Kinh Angutara Nikaya,quyển 3 có đề cập đến vị sư xin lỗi người cư sĩ nếu xúc phạm đến danh dự của người cư sĩ.

- Đại sư Henpitagedera Gnanasiha trong bài thuyết pháp phát thanh nói:“Thọ Đại Giới có ý nghĩa gì nếu ta không giữ gìn được Ngũ Giới…Nên nhớ chúng ta lặn hụp trong biển sinh tử luân hồi,có những người cư sĩ trước đây trong tiền kiếp là những vị sư và chúng ta hiện nay là những vị sư nhưng trước kia không có thiện duyên xuất gia…”

352. Em muốn biết về ý nghĩa và phương thức hành trì Bồ Tát Đạo.

- Thực hành Bồ Tát hạnh không phải dễ dàng. Đôi khi vì thói quen ta tụng bài Tứ Hoằng Thệ Nguyện,hạnh Bồ Tát mà ta không để ý đến ý nghĩa của nó. Đây là lời thệ nguyện đem tấm thân từ kiếp này đến kiếp khác để phục vụ chúng sinh:

Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Thật là vĩ đại.Con đường Bồ Tát(Bồ Tát Đạo)thật là khó khăn.Tư lương dùng để đi cho con đường ấy là Lục Độ hay Lục Ba La Mật(Paramitas),giúp hành giả đi đến bên kia bờ giác, đó là: 1/Bố thí trừ tham lam,keo lận. 2/Trì giới,trừ tà ác. 3/Nhẫn nhục trừ sân nhuế. 4/Tinh tấn trừ giải đải. 5/Thiền định trừ tán loạn. 6/Trí tuệ trừ ngu si.

- Muốn hành trì Bồ Tát Hạnh,phải tuân thủ Bồ Tát Giới,trong đó có 6 trọng giới và 28 khinh giới,làm tăng trưởng thêm Ngũ Giới của hàng tại gia.

- Trong 6 trọng giới,giới thứ 5 là không được nói xấu hàng Tứ Chúng,không khen mình,chê người.Giới thứ 6 là không bán rượu.Không những không uống rượu như ở Ngũ Giới mà không làm nghề bán rượu.

- Trong 28 khinh giới, ở giới thứ 8 Phật Tử phải thường nghe thuyết pháp,giới thứ 21 không trốn xâu lậu thuế,giới 22 không vi phạm luật lệ quốc gia,giới 16 cúng dường Tăng Ni không phân biệt vị thứ,giới 28 khi gặp người hoạn nạn nên săn sóc,giúp đỡ.

- Hạnh nguyện Bồ Tát phải được thực hành theo thứ bậc:Thập Tín,Thập Trụ,Thập Hạnh,Thập Hồi Hướng,Thập Địa.

-Thập Tín(mười đức hành trì mà tin tâm là quan trọng):tín tâm,niệm tâm.tinh tấn tâm,tuệ tâm, định tâm,bất thối tâm,hộ pháp tâm,hồi hướng tâm,giới tâm,nguyện tâm.

- Thập trụ(mười vị thế an trụ của Bồ Tát Hạnh):phát tâm trụ,trì điạ trụ,tu hành trụ,sanh quý trụ,phương tiện cụ túc trụ,chánh tâm trụ,bất thối trụ, đồng chân trụ,pháp vương tử trụ,quán đỉnh trụ.

- Thập Hạnh:hoan hỷ hạnh,nhiêu ích hạnh,vô hận hạnh,vô tận hạnh,ly si loạn hạnh,thiện hiện hạnh,vô trước hạnh,tôn trọng hạnh,thiện pháp hạnh,chân thật hạnh.

- Thập Hồi Hướng:cứu hộ hồi hướng,bất hoại hồi hướng,hồi hướng đến hết thảy chư Phật,hồi hướng đến mọi nơi,hồi hướng kho công đức vô tận,hồi hướng thiện căn bình đẳng,hồi hướng tất cả chúng sinh bình đẳng,chân như tướng hồi hướng,hồi hướng giải thoát không trói buộc,hồi hướng nhập vào cõi vô lượng pháp.

- Thập Địa:Hoan hỷ địa,ly cấu địa,phát quang địa,diễm huệ địa,cực nạn thắng địa,hiện tiền địa,viễn hành địa,bất động địa,tiện huệ địa,pháp vân địa.

353. Muốn xuất gia phải hội đủ điều kiện gì?

- Phải được sự ưng thuận của cha mẹ nếu là vị thành niên dưới 18 tuổi.

- Được sự ưng thuận của người phồi ngẫu nếu là bán thế xuất gia(xuất gia sau khi đã lập gia đình).

- Không phải là những người phạm pháp,trốn nghĩa vụ quân sự,trốn thuế,nếu là kẻ thành niên.

- Pháp tâm vào chùa học đạo,tu đạo.

- Được sự nhiếp độ của bổn sư.

354. Người xuất gia có phải là thành viên chính thức của Tăng Già? Muốn làm thành viên chính thức của Tăng Già phải hội đủ điều kiện gì?

- Chưa phải.Chỉ khi nào thọ Tỳ Kheo Giới xong mới là thành viên chính thức của Tăng Già.

- Muốn thọ giới Tỳ Kheo,thành viên chính thức của Tăng Già,phải ít nhất 20 tuổi,không có án lệ,không phải người hoạn(thiến),không bị bệnh truyền nhiễm,đã thọ Sa Di Giới, đã học Kinh,Luật,dự lễ thọ Tỳ Kheo.

- Nguyện dâng hiến cuộc đời của mình cho đạo,cho đời,danh từ thường dùng là“Thượng cầu Phật Đạo,hạ hoá chúng sinh”.

- Phật dạy người từ giã cha mẹ,anh em,bà con,thân thuộc,xuất gia làm Sa Môn,giữ 250 giới,sống đời tịnh hạnh,tu đạo giải thoát,phải quán đạt được cõi nguồn của tâm thức,hiểu ngộ pháp vô thượng,trong không có sở đắc,ngoài không có sở cầu,tâm không cố chấp,không cấu tạo thêm nghiệp.

- Phật dạy:Dù ở xa ta hàng nghìn dặm,nhưng thường nghĩ đến giới luật của ta,hành trì theo giới luật của ta,nhất định sẽ thấy đạo quả,chứ ở gần ta,thường ngày gặp ta mà không tuân hành giới luật thì vẫn không sao chứng được đạo mầu.

- Phật dạy:Bậc Sa Môn hành đạo đừng như con trâu kéo cày,thân tuy mệt nhọc mà tâm không chuyên nhất thì thật sự không phải hành đạo.

355. Nghi lễ Nam Tông và Nghi Lễ Bắc Tông khác nhau ở điểm nào?

- Thật ra không có hàng ranh giới rõ rệt vì qua sự chung đụng giữa Nam Tông và Bắc Tông,vì ảnh hưởng của tín ngưỡng nhân gian.

- Tuy nhiên ta có thể nói một cách tổng quát nghi lễ Nam Tông chú trọng đến việc tích lũy phước đức hơn là cầu Phật,Bồ Tát gia hộ như nghi lễ của Bắc Tông.Thí dụ Phật Tử Thái Lan hành trì nghi lễ là để tăng phước huệ trên đường đi đến giải thoát,giác ngộ.Ngoài thọ trì Tam Quy,Ngũ Giới,Phật Tử Thái Lan thọ Bát Quan Trai mỗi tháng 4 lần,cúng dường trai soạn cho chư tăng,đem phẩm vật đến chùa cúng phật,xuất gia một thời gian ngắn,cho con trai xuất gia,giúp tịnh tài bảo trì hay kiến thiết chùa,tháp.Tất cả đều hướng đến việc tích lũy phước đức cho kiếp sống hiện tại và tương lai.

- Những nghi lễ tại chùa phần nhiều được thực hiện có tính cách cá nhân hơn là tập thể gồm lễ dâng hoa,phẩm vật.Phật tử cầm hoa hay đèn đến trước tượng Phật lễ bái,tụng niệm, đôi khi họ đi quanh chùa,quanh tháp.Tại tư gia họ cũng làm lễ tương tự hai thời sáng chiều trong mỗi ngày.

- Đối với hàng Phật Tử Nam Tông hình ảnh Phật rất quan trọng,nhưng là hình ảnh của đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni.Phật Tử đảnh lễ Phật tỏ lòng kính trọng,chứ không phải đảnh lễ Phật để cầu xin cứu rỗi.Tuy nhiên vì ảnh hưởng của Phật Giáo Bắc Tông và tin ngưỡng nhân gian nên họ lễ Phật không phải chỉ tỏ lòng tôn kính không mà thôi,và trong những lễ công cộng,họ cũng tụng kinh tập thể.

- Phật tử ở các nước Phật Giáo Bắc Tông hành trì nghi lễ không khác Phật Tử Nam Tông vừa để tỏ lòng tôn kính,vừa cầu xin Phật hướng dẫn họ đi đúng đường.Khác Phật tử Nam Tông,họ cầu Phật gia hộ,họ không những thờ Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni mà còn thờ Tam Thế Phật,thờ Phật Di Đà,Phật Di Lặc và Bồ Tát,A La Hán.Nghi lễ Phật Giáo Bắc Tông có tính cách tập thể,Phật Tử cùng nhau hành lễ, đọc kinh,niệm Phật.

- Nghi lễ Bắc Tông thường kèm theo tiếng chuông,tiếng mõ,tiếng tang,tiếng kẻng,đôi khi âm nhạc nữa.

356. Nếu có thể xử dụng âm nhạc truyền thống vào nghi lễ Phật Giáo tại sao không dùng dụng cụ âm nhạc và âm nhạc hiện đại vào nghi lễ Phật Giáo?

- Chư Tăng Tây Tạng,Nhật Bản giáo phái Tịnh Độ không những sử dụng âm nhạc mà còn ca vũ để quảng bá Phật Pháp.

- Hiện nay trong những buổi lễ của Gia Đình Phật Tử và tại một số chùa có sử dụng âm nhạc hiện đại trong nghi lễ.

- Cần có những nhạc sĩ tài ba dùng khả năng của mình để chuyên chở đặc tính lời kinh,lời kệ Phật Giáo.

- Cần có những ban âm nhạc Phật Giáo được huấn luyện rành nghề mới làm cho nghi lễ trang nghiêm.

- Cần có sự sắp xếp trong chánh điện để âm nhạc có thể đóng vai trò trong nghi lễ Phật Giáo.

- Cần tuyển trạch một số nhạc khí,nhạc cụ thích hợp cho nghi lễ Phật Giáo.

357. Những lễ chính của Phật Giáo là lễ gì?

- Tùy theo từng khu vực.tuy nhiên nói một cách tổng quát tại các nước Nam Tông,dân chúng làm lễ Nguyên Đán.Tại Thái Lan,Lễ Nguyên Đán có ý nghĩa là tẩy tịnh,dứt bỏ mọi bất tịnh năm trước,bắt đầu năm mới thanh tịnh;Lễ Phật Đản,Lễ Phật Thành Đạo,Lễ Phật Nhập Niết Bàn,Lễ An Cư Kiết Hạ,Lễ Vu Lan,Lễ Dâng Y,Lễ Thọ Bát Quan Trai,Lễ Trai Tăng,Lễ Cầu Siêu,Lễ Cầu An,Lễ Đại Giới Đàn.

- Tại các nước Bắc Tông ngoài những lễ trên-trừ lễ dâng y-còn các lễ vía Bồ Tát,Lễ chư Tổ,Lễ Chẩn Tế…

- Chúng ta sẽ trở lại lãnh vực này ở phần VIII,nói về nghi lễ,hội hè, đình đám.

358. Chiêm bái có phải là một phương thức hành trì quan trọng trong Phật Giáo?

- Chiêm bái Thánh Tích là phần ngoài của thiền quán,là hình thức có tính cách tượng trưng trên đường tìm giải thoát.Xá Lợi Phật,những dụng cụ Phật thường dùng lúc tại thế như bình bát,tích trượng hay dấu chân của ngài được hàng đệ tử tôn kính phụng thờ ngay sau khi Phật nhập niết bàn.

- Chư Tăng Ni Phật Tử chiêm bái bốn thánh tích tại Ấn Độ,nơi Phật giáng sinh,thành đạo,thuyết pháp,nhập niết bàn.Có người còn thăm khổ hạnh lâm nơi Phật tu khổ hạnh sáu năm,thăm con sông Ni Liên Thuyền,nơi Phật tắm sau khi thọ dụng sữa đề hồ và trước khi ngồi dưới gốc cây bồ đề nhập thiền quán.

- Tại Trung Quốc,Tây Tạng chư tăng Ni Phật Tử chiêm bái các hòn núi thiêng.Tại Nhật Bản núi Hiei và Koya được xem là thiêng liêng nhất,nơi chư Tăng Ni Phật Tử đến chiêm bái, đảnh lễ,cúng dường.

- Theo truyền thống,Tăng Ni Phật Tử đến từng nơi chiêm bái hay đi kinh hành.Tại Nhật Bản khách hành hương đến đảo Shikoku,với đường kinh hành trên 1,000km,trên đường kinh hành có 88 ngôi chùa.Khách hành hương đi chung quanh hòn đảo,theo dấu chân của đại sư Kukai,tổ sáng lập Chân Ngôn Tông Nhật Bản.Tín đồ Thiên Thai Tông đi chiêm bái các ngôi đại tự Thiên Thai Tông trên núi Hiei.Những ngọn núi này đối với chư Tăng Ni tu Mật Tông là những Mandala sống động.Họ vừa chiêm bái vừa lạy.Hành trình chiêm bái đôi khi kéo dài 7 năm.

359. Tại sao các chùa Việt Nam không thờ tượng tổ Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi những vị có công lớn cho Phật Giáo Việt Nam, lại thờ tổ Bồ Đề Đạt Ma?

- Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề của Phật Giáo Trung Hoa.

-Tuy tổ Khương Tăng Hội có công đóng góp lớn vào gia tài Phật Giáo Việt Nam,vào lịch sử dân tộc Việt qua thuyết Trăm Con Trong Bọc Trứng,nhưng trên phương diện tu chứng,khó có thể so sánh với tổ Bồ Đề Đạt Ma.

- Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi,một vị tổ xây dựng dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi,không khác tổ Trúc Lâm xây dựng dòng thiền Trúc Lâm,nhưng vẫn không thể so sánh với tổ Bồ Đề Đạt Ma.

- Thưòng thường chùa chỉ thờ vị sơ tổ,còn những vị tổ khác không thờ,nghĩa là không có hình tượng trên Bàn Thờ Tổ,mặc dầu vào thời công phu sáng chư tăng ni đều đảnh lễ chư tổ.

360. Cho em biết về Lá Cờ Phật Giáo?

- Treo cờ,kết hoa là bày tỏ lòng thành kính.Thời Phật còn tại thế,dân chúng nghênh đón Phật,theo kinh sách,cũng treo cờ,kết hoa,nhưng chúng ta không biết lá cờ ấy hình dáng và màu sắc như thế nào.

- Vào thời vua A Dục việc treo cờ tại các bảo tháp,nơi thánh địa khá phổ cập.

- Tại Trung Quốc mỗi lần rước kiệu Phật,người rước kiệu cầm cây phướn đi đầu theo sau là năm cây cờ có năm màu sắc khác nhau,tượng trưng cho năm hướng Đông Tây Nam Bắc Trung.

- Cuối thế kỷ thứ 19, để phục hồi truyền thống lễ Phật Đản,Đại tá Olcott và đại sư Tích Lan có sáng kiến lập một lá cờ hình chữ nhật có năm màu sắc khác nhau tượng trưng cho ánh hào quang của Phật,và năm màu sắc này kết hợp lại ở đoạn cuối.Năm màu sắc ấy là màu xanh nhạt,màu vàng kim,màu đỏ thắm,màu trắng,màu đỏ tươi.Lá cờ này được bay phất phới trên nước Tích Lan nhân ngày Phật Đản 17 tháng 4,1885.

- Đại Hội Phật Giáo Thế Giới được tổ chức năm 1950 tại Colombo,thủ đô Tích Lan có sự tham dự của phái đoàn Phật Giáo Việt Nam do Thượng Tọa Tố Liên hướng dẫn,quyết định thành lập hội Phật Giáo Thân Hữu Thế Giới(World Fellowship of Buddhist).Một trong những Quyết nghị của Đại Hội là chấp nhận lá cờ do Olcott và các đại sư Tích Lan sáng tạo,thành lá cờ Phật Giáo Thế Giới.

361. Trong chùa thờ nhiều tượng Phật, Bồ Tát, A La Hán, v.v… Trước hết cho em biết có bao nhiêu loại hình tượng?

- Tại Tây Tạng có 7 loại hình tượng: 1/Phật,gồm pháp thân, ứng thân,hóa thân,quá khứ hiện tại và vị lai. 2/Bồ Tát và Bồ Tát hóa hiện gồm thánh tăng Ấn Độ,thánh tăng Lạt Ma Tây Tạng. 3/Thần giám hộ quốc gia và cá nhân. 4/Hộ pháp và quỷ thần. 5/Thánh thần Bà La Môn:tiểu thần,thiện thần,ác thần. 6/Quốc thần,thổ thần, địa thần. 7/Thần cá nhân.

- Tại Trung Quốc và Việt Nam gồm có 6 loại hình tượng: 1/Phật,gồm quá khứ hiện tại,vi lai. 2/Bồ Tát. 3/La Hán. 4/Hộ Pháp gồm Quan Công,Thánh Mẫu. 5/Chư Tổ, đặc biệt là Ngài Bồ Đề Đạt Ma. 6/Thổ thần, địa thần.

- Tại các nước theo Phật Giáo Nguyên Thỉ có 3 loại hình tượng: 1/Phật Thích Ca Mâu Ni. 2/Hàng Thánh Tăng, đệ tử của Phật. 3/Thổ thần, địa thần.

362. Xin cho biết về Tam Thế Phật.

- Tại Tam Tạng,Tam Thế Phật gồm Phật Nhiên Đăng(Dipankara) quá khứ với thế bắt ấn bảo hộ,Phật Thích Ca hiện tại,trong thế bắt ấn tay chỉ xuống đất, ý nói hàng phục chúng ma và Phật Di Lặc,Phật Vị Lai,với thế bắt ấn hoằng pháp.Tất cả ba vị Phật đều ngự trên tòa sen.

- Tại Trung Quốc và Việt Nam,Tam Thế Phật gồm Phật A Di Đà,quá khứ,Phật Thích Ca,hiện tại và Phật Di Lặc,vị lai.

363. Chùa Tây Tạng còn thờ 5 vị Phật nữa. Xin cho biết về 5 vị Phật này.

- Đúng vậy,tại Tây Tạng có thờ năm vị Phật,đó là Phật Tỳ Lô Giá Na(Vairocana),Phật A Súc(Akshobhya),Phật Bảo Sanh(Ratnasambhava),Phật A Di Đà(Amitabha) và Phật Bất Không Thành Tựu(Amoghasiddhi).

364. Xin cho biết về các vị Bồ Tát

- Ba vị đại Bồ Tát Ấn Độ đều được dân Tây Tạng tôn thờ đó là Bồ Tát Quán Thế Âm(Avalokiteshvara),Bồ Tát Văn Thù(Manjushri)và Bồ Tát Kim Cang Mật Tích(Vajrapani).

- Tại Trung Quốc và Việt Nam chư vị Bồ Tát được thờ trong chùa là Bồ Tát Quán Thế Âm,Bồ Tát Đại Thế Chí,thường thường đứng hai bên Phật A Di Đà;Bồ Tát Văn Thù,Bồ Tát Phổ Hiền thường thường đứng hai bên Phật Thích Ca;Bồ Tát Địa Tạng, đầu đội mũ tỳ lư,tay cầm tích trượng,hóa độ chúng sanh ra khỏi địa ngục.

365. Xin cho biết về các tôn tượng A La Hán.

- Những vị A La Hán là những vị đại đệ tử của Phật đã chứng quả vị A La Hán.

- Quả vị A La Hán là quả vị cuối cùng của Tứ Quả hay Tứ Đạo Quả: 1/Tu Đà Hoàn(Sotapatti),Tàu dịch là Nhập Lưu,vào dòng Thánh. 2/Tư Đà Hàm(Sadakagami)Tàu dịch là Nhất Lai,chỉ còn một kiếp nữa là chứng ngộ. 3/A Na Hàm(Anagami),tàu dịch là Bất Lai,không còn tái sinh làm người. 4/A La Hán(Arhat),Tàu dịch là Bất Sinh,giải thoát,không còn sinh tử luân hồi.

366. Có rất nhiều đệ tử Phật chứng quả A La Hán, tại sao trong chùa Trung Hoa và Việt Nam chỉ thờ 18 vị với những hình tướng có vẻ kỳ dị?

- Thập Bát La Hán gồm tượng 16 vị đệ tử của Phật được gửi đi các nơi hoằng đạo,cộng thêm hai vị đại sư Dharmatala và một vị hoà thượng Trung Hoa hoằng đạo tại Tây Tạng.

- Tín ngưỡng Thập Lục hay Thập Bát La Hán xuất phát từ Trung Quốc,truyền đến Việt Nam,Đại Hàn,Nhật Bản và Tây Tạng.

- 16 vị La Hán: 1.Pindolabhadradvaja(Tần Độ La Bạt Ra Đọa Xà). 2.Kanakavatsa(Ca Nặc Ca Phạt Sa). 3.Kanakabharadvajà(Ca Nặc Ca Bạt Lỵ Đọa Xà). 4.Suvinda(Tô Tần Đà). 5.Nakula(Nặc Cự La). 6.Bhadra(Bạt Đà La). 7.Karika(Ca Ri Ca). 8.Vajraputra(Phạt Xà La Phất Đa La). 9.Svaka(Thú Bát Ca). 10.Panthaka(Bán Thác Ca). 11.Ràhula(La Hầu La). 12.Nagasena(Na Ca Tê Na). 13.Ingata(Nhơn Yết Đà). 14.Vànavàsin(Phạt Na Bà Tư). 15.Ajita(A Thị Đa). 16.Cudapanthaka(Chú Đồn Bán Thác Ca).

- Những vị này hoằng hóa tại các nước khác nhau, được thể hiện trong những hình dáng đặc biệt theo cách nhìn độc đáo của các nhà điêu khắc hay họa sĩ Phật Giáo.

- Những vị A La Hán Ấn Độ khi đến Trung Quốc đã được mang hình hài của các vị lão ông Trung Hoa,ăn mặc kiểu Trung Hoa,hình tướng kiểu Trung Hoa.

367. Em thấy hình tượng của các vị Hộ Pháp, có vị trông dữ tợn, có vị trông hiền hòa, là ý nghĩa gì?

- Hộ pháp có nghĩa là hộ trì chánh pháp.Thường thường hình tượng của những vị hộ pháp được đặt trước cổng chùa,có ý là để bảo vệ Phật,Pháp,Tăng,bảo vệ chùa,tháp.

- Người có người lành,người dữ nên hộ pháp có người dữ người lành.Người dữ với hình tướng dữ,người lành với hình tướng lành, để đối phó với hai hạng người ấy,thật sự là để đối phó,dung hoà hai năng lực thiện ác của con người,quay về Phật,đều trở thành những vị hộ pháp,hộ đạo.Hình tướng dữ,lành chỉ là biểu hiện của hai đức tính,nhưng khi về với Phật thì đều là những vị Hộ Pháp,đều là những người tốt, đều đem lòng,đem sức hộ trì chánh pháp.

368. Tuồng như Tây Tạng còn có thờ Tứ Thiên Vương Thần?

- Đúng vậy.Tứ Thiên Vương gác cửa Mandala,gác bốn phương hướng của chùa.Bốn vị này nguồn gốc Mông Cổ như cách phục sức và vũ khí cầm tay cho thấy.Họ xuất hiện làm thần hộ pháp sau khi quân Thành Cát Tư Hãn tiến chiếm Tây Tạng,được vẽ hay nắn theo kiểu Trung Hoa,tay cầm kiếm,cầm cờ chiến thắng,cầm đàn,cầm tháp,thường thường được treo trên đỉnh hay đứng trước tiền đình chùa.

369. Phật Tử các nước, nhất là Phật Tử Tây Tạng, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan khi đến chùa thường đến bảo tháp lễ bái, trong khi Việt Nam không có tập quán ấy, lý do tại sao?

- Bảo Tháp nguyên thỉ được xây dựng để thờ xá lợi của Phật hay thờ những vật dụng của Ngài khi còn tại thế như bình bát,tích trượng…

- Bảo Tháp được xây làm đài kỷ niệm đánh dấu những biến cố lớn trong cuộc đời đức Phật:nơi Phật giáng sinh,nơi Phật thành đạo,nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên,nơi Phật nhập Niết Bàn.

- Bảo tháp sau này được xây dựng để thờ Phật,chứa đựng bảo tháp,kinh điển và thờ các bậc khai sơn chùa.

- Phần nhiều bảo tháp Tây Tạng và các nước theo Phật Giáo nguyên thỉ thờ Xá Lợi của Phật,chứa đựng bảo tháp nên Phật Tử khi đến chùa đều đến đảnh lễ bảo tháp,trong khi tại Việt Nam phần nhiều bảo tháp được xây dựng để thờ chư tổ khai sơn chùa và chư tổ cũng được thờ trong chùa nên họ vào chùa lễ Phật,lễ Tổ là đủ rồi.

- Bảo tháp qua quan niệm sùng bái của từng dân tộc đã có những hình thái và danh xưng khác nhau:tại Tích Lan tên là Dagoba,tại Thái Lan,Chedi,tại Tây Tạng,Chorten.

370. Có bao nhiêu loại Bảo Tháp?

- Bảo tháp có hai loại gọi là Cetiya và Stupa.

- Cetiya được xây cao từ 3m,4m đến trên 100m như ta thấy ngôi Cetiya tại Nakon Pathom,Thái Lan.

- Cetiya là ngôi Bảo tháp để chư Tăng và dân chúng đến lễ bái,không khác gì tượng Phật hay Cây Bồ Đề.

- Cetiya cũng được chia thành ba loại: 1/ Buddha Cetiya(Tháp Phật) hay Dhatu Cetiya(Tháp Xá Lợi),Bảo Tháp thờ xá Lợi của Phật. 2/ Paribhoga Cetiya,Bảo Tháp thờ y bát hay tám vật dụng Phật sử dụng khi Ngài còn tại thế. 3/ Dharma Cetiya là Bảo Tháp thờ một phần Tam Tạng Kinh Điển.

- Stupa thường là Bảo Tháp thờ xá lợi của những bậc cao tăng hay tro cốt của các hàng Phật Tử.

371. Cách kiến trúc Bảo Tháp như thế nào?

- Cetiya thường được xây hình tròn,như hình dáng bảo tháp Ấn Độ,Tích Lan,Miến Điện v.v…Đôi khi Cetiya cũng xây trên nền vuông.Cetiya hình tròn hay hình vuông có nhiều từng,mỗi từng thờ một hay nhiều tượng Phật.

372. Phật Tử các nước thường thường đến các thánh tích hành hương chiêm bái, Phật Tử Việt Nam ít đi hành hương chiêm bái thánh tích, tại sao có hiện tượng này?

- Hành hương chiêm bái thánh tích không những để tỏ lòng tri ân các bậc tiền bối có công xây dựng đạo pháp mà cũng là hình thức tăng trưởng tín âm,uống nước nhớ nguồn.

- Phật tử Trung Hoa Tây Tạng,Miến Điện,Tích Lan tổ chức hành hương hằng năm.Tại Việt Nam vì chiến tranh liên miên nên không thực hiện được,đó là điều đáng tiếc,mặc dù gần đây số người đi chiêm bái Chùa Hương,Núi Sam ngày càng đông,số Phật tử đi chiêm bái Ấn Độ ngày càng nhiều.

373. Xin cho biết về ý nghĩa thánh địa đối vối người Tây Tạng.

- Đối với người Tây Tạng,thánh địa-tiếng Tây Tạng gọi là Nechen-có thể là dãy núi, đỉnh núi cao,hồ,sông,suối,tháp,tu viện,Phật điện,hang động,thảo am.

- Với dân Tây Tạng,Thánh địa là đối tượng thiền quán giữa tâm và cảnh.Ngọn núi cao nơi gặp gỡ giữa thiên giới và nhân giới,là Thánh Địa:núi Kailash,Labchi,Tsari,Nyangchen Thanglha,Bonri,Khawa Karpo,Amnye Machen.Nước, đất,trời gặp gỡ nhau tại hồ,vì vậy hồ là thánh địa:hồ Tso Mapham,Yamdrock Tso,Lamo Latso,Namtso,Tso Ngon.Nơi hai dòng sông gặp gỡ nhau là Thánh Địa:sông Yarlung Tsangpo và sông Kyichu.Nơi nước và lửa gặp nhau là Thánh Địa:suối nước nóng Terdrom,Tretapuri,Chumi Gyatsa.

- Nơi Phật thành đạo,Bồ Đề Đạo Tràng(Bodhgaya) là thánh địa.Chỗ đức Phật ngồi tham thiền dưới gốc cây bồ đề là bảo Tọa Bất Hoại.Nơi Phật giáng sinh,Phật thuyết pháp lần đầu tiên,Phật nhập diệt là thánh địa.

- Nơi Guru Rimpoche đắc đạo tại Yanglesho trong thung lũng Kathmandu,Népal là thánh địa.Nơi Guru Rimpoche cất dấu bảo kinh là thánh địa.

- Hang Kỳ Xà Quật,Rừng Khổ Hạnh,hang động của Milarepa là thánh địa.

374. Xin cho biết về ý nghĩa thánh địa đối với người Trung Hoa.

- Người Trung Hoa dùng danh từ Phong Thủy:gió không thể hiểu,nước không thể bắt, để nói lên tính chất thiêng liêng liên hệ đến vận mệnh con người.Những nơi Phong Thủy thiêng liêng như Ngũ Đài Sơn,Nga Mi Sơn v.v…là thánh địa.

375. Xin cho biết sự sai biệt giữa tu viện, tự viện, chùa, thảo am và cốc.

- Tiếng Tây Tạng gọi tu viện là Gompa,nơi vắng vẻ,cách xa làng mạc,thị thành,nơi chư Tăng cư trú,chuyên tu thiền quán.Một số tu viện cách hẳn thế giới bên ngoài,rất khó đến, như tu viện Kyelang nằm trên ngọn núi cao 12,000 feet,tu viện Shergol ở Ladakh nằm trên mỏm đá.

- Tiếng Sanscrit gọi tu viện là Aràma hay Sangharama,nơi cư trú của Tăng Già.

- Tự viện là nơi cư trú của Tăng Già mà cũng là nơi Tăng Già được huấn luyện,học tập giáo lý và thiền quán.

- Chùa là nơi chư Tăng cư trú,nơi Phật tử đến tụng kinh niệm Phật, đến làm lễ cho Cửu Huyền Thất Tổ,bây giờ cũng là nơi tổ chức lễ cưới hỏi cho Phật tử,tổ chức các khóa tu học cho Phật tử,tổ chức lễ tưởng niệm,tổ chức hội thảo.

- Thảo am là nơi vị tăng cư trú chuyên tu thiền quán,thường thường làm bên cạnh đồi núi,nơi hoang vắng, ít người qua lại.

- Cốc là một hình thức khác của thảo am,thường làm trong khuôn viên chùa hay trong một thửa đất,dành cho Tăng,Ni chuyên tâm thiền quán hay tụng niệm,không tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

376. Xin cho biết những biểu tượng Phật Giáo quan trọng như Tòa Sen, Tòa Sư Tử.

- Biểu tượng Phật Giáo quan trọng là Tòa Sen,Tòa Sư Tử.Hoa sen thơm ngát,xinh đẹp,tươi mát, ở bùn mà không hôi tanh mùi bùn.Tòa sen là chỗ Phật ngồi,ngồi giữa nhân thế mà không bị thế nhân chi phối.Hoa sen nở trong cảnh giới Tịnh Độ,đón tiếp hàng tín tâm niệm danh hiệu Phật, được sinh vào Chín Phẩm Hoa Sen.

- Tòa Sư Tử cũng là nơi Phật ngồi.Sư Tử là vua của loài thú.Tiếng hống của sư tử vang cùng rừng núi.Đức Phật là thiên nhân chi đạo sư,ngồi trên tòa Sư Tử,vua của loài thú,lời dạy của Phật chuyển hoá vô minh,hùng vĩ như tiếng hống của sư tử.

377. Xin cho biết ý nghĩa của Bánh Xe Pháp.

- Bánh Xe Chuyển Pháp Luân, được thể hiện bằng chiếc bánh xe có 8 cọng,hai bên có hai con nai quỳ hầu,tượng trưng cho giáo lý Phật truyền dạy lúc ngài còn tại thế và hai con nai hiền lành tượng trưng cho hai đệ tử cư sĩ đầu tiên,Tapussa và Balluka,người Afghanistan,nghe Phật thuyết Pháp.

- Bánh xe(Cakra) là vòng tròn sinh tử triền miên.Giáo pháp Phật nói lên thực tướng của vạn pháp,diễn đạt con đường đạo đức cho nhân loại noi theo.

- Tám cái gọng hay cái tăm của Bánh Xe Chuyển Pháp Luân,tượng trưng cho Bát Chánh Đạo,tám Con Đường dẫn đến giải thoát giác ngộ.

- Bốn trục bánh xe tượng trưng cho bốn biến cố quan trọng trong đời đức Phật:giáng sinh,thành đạo,thuyết pháp,nhập niết bàn,và bốn chân lý(Tứ Diệu Đế).

- Sự hiện hữu liên hệ chặt chẽ với nghiệp báo(Karma),với luật nhân quả,với đạo lý Thập Nhị Nhân Duyên,không phải là thuyết tiền định mà luôn luôn chuyển biến như bánh xe lăn.

- Bánh Xe Pháp giữa bốn trục giả có một trục chính,tượng trưng cho đạo lý Trung Đạo,dẹp bỏ cực đoan thực thể và hiện tượng.Bánh xe ngừng di chuyển khi dòng sinh tử đã hết,khi con người không còn bị trói buộc bởi vô minh,sân hận, ái nhiễm.

- Theo truyền thống Tây Tạng,bánh Xe Pháp được chuyển động(Chuyển Pháp Luân) ba lần:lần thứ nhất tại vườn Lộc Uyển,sau khi Phật thành đạo,giảng pháp cho 5 ông Kiều Trần Như,lần thứ hai trên núi Linh Thứu giảng các kinh tuệ giác,lần thứ ba giảng kinh điển Mật Thừa.

378. Người Tây Tạng còn có biểu tượng Bánh Xe Thời Gian?

- Người Tây Tạng còn có Bánh Xe Thời Gian,không những là bộ phận máy móc điều hành năm tháng theo vòng quay của mặt trăng mà còn nói lên vòng thời gian trôi chảy mãi không dừng nghỉ.Vật thể,tâm linh, đại thể hòa đồng trong lễ Kalacakra,một nghi lễ tối mật trong Kim Cang Thừa,con đường dung hợp giữa tâm và thế giới bên ngoài.

379. Ý nghĩa Bánh Xe Sinh Tử của người Tây Tạng như thế nào?

- Bánh Xe Sinh Tử cũng là một biểu tượng Phật Giáo của người Tây Tạng.Bánh Xe Sinh Tử diễn tả bằng hình ảnh,ba cõi sáu đường(Tam giới,lục đạo),nhắc nhở chúng sinh biết cuộc đời vô thường biến đổi,cố gắng thoát cảnh sinh tử luân hồi.

- Theo cách vẽ truyền thống,tử thần Yama,tượng trưng cho số phận con người,đôi tay vạm vỡ nắm chặt đĩa tròn sinh tử.Vòng chính giữa là tam độc Tham,Sân,Si.Vòng tròn thứ hai nửa trắng,nủa đen tượng trưng cho hai hạng người thiện, ác.Vòng tròn ngoài cùng diễn tả 12 Nhân Duyên.Giữa vòng ngoài cùng và vòng đen trắng là vòng Lục Đạo.

380. Người Tây Tạng dùng Bánh Xe Cầu Nguyện như thế nào?

- Người Tây Tạng luôn luôn mang theo mình bánh xe cầu nguyện,trong sinh hoạt hằng ngày,trên đường hành hương.

- Bánh xe Cầu Nguyện thường thường được làm bằng kim loại,hình trụ,chung quanh chạm trổ thần chú,dưới có cán nếu là Bánh Xe Cầu Nguyện cầm tay,còn nếu để nguyên tại chỗ,bánh Xe Cầu Nguyện được đặt trên cái giá cao,ngang tầm tay,để trước chùa.

- Trong lòng bánh xe cầu nguyện là những bài thần chú viết trên giấy hay trên lá bối diệp.Bánh xe di chuyển theo hướng kim đồng hồ,hướng mặt trời mọc.Mỗi lần quay là mỗi lần cầu nguyện.

- Trứơc khi bước vào cổng chùa,khách hành hương thấy bánh xe cầu nguyện để trong một tòa nhà,chung quanh có đường kinh hành, để khách hành hương đi kinh hành đến lượt mình quay bánh xe cầu nguyện.

381. Người Tây Tạng còn có Cờ Cầu Nguyện?

- Đúng vậy.Người Tây Tạng cắm cờ cầu nguyện trên nóc nhà,trên nóc trại,bên cạnh cầu bắt ngang suối,tại các ngọn đèo hiểm trở,cắm gần chùa,gần thánh tích,tượng trưng cho chiến thắng tam độc Tham,Sân,Si,chiến thắng thần kì quỷ quái.

- Cờ cầu nguyện làm bằng vải 5 màu-vàng,trắng, đỏ,xanh lá cây,xanh nước biển,tượng trưng cho ngũ đại,ngũ căn,ngũ trần,ngũ thức.

- Chính giữa cờ cầu nguyện có vẽ hình con ngựa Langa,tượng trưng cho hạnh nguyện viên mãn, đôi khi được viết tên người cầu nguyện.Bốn góc vẽ hình con hổ,sư tử,rồng và con chim thần thoại Garuda.

382. Tràng hạt có phải là một biểu tượng?

- Đối với người Tây Tạng thì tràng hạt cũng là một biểu tượng,vì tràng hạt của họ gồm 108 hạt,chia làm 3 phần,mỗi phần 36 hạt,tượng trưng cho ngôi Tam Bảo.

- Với đại đa số chư tăng Ni,Phật Tử,tràng hạt là một dụng cụ cho hành giả niệm Phật,trì chú,giúp thanh tịnh hoá thân tâm,rất cần thiết trước khi nhập thiền,cho khách hành hương đeo và sử dụng hằng ngày.

- Tràng hạt gồm 108 hạt,54 hạt hay 18 hạt.Hành giả lần tràng hạt niệm Phật,Bồ Tát,niệm chú tùy theo giáo phái,tùy theo sở nguyện.

- Người Tây Tạng tin nếu lần tràng hạt,niệm chú,niệm danh hiệu Phật,Bồ Tát một triệu lần thì được hưởng vô lượng công đức.

- Khi tụng chú,niệm danh hiệu Phật,hành giả dùng tay phải lần từng hạt.Khi không sử dụng quấn quanh cườm tay hay đeo trên cổ.

- Tràng hạt thường thường làm bằng gỗ,nhưng cũng có thể làm bằng đá,ngọc hay một kim loại nào khác.Màu sắc của hạt theo người Tây Tạng tùy theo màu sắc của vị Phật,Bồ Tát,thánh thần liên hệ.

383. Nguồn gốc của xâu chuỗi hay tràng hạt phát xuất từ đâu?

- Trong Kinh Mộc Hoạn Tử,Phật bảo vua Ba Lưu Li:“Nếu nhà vua muốn diệt phiền não,phải xâu 108 hột Mộc Hoạn Tử,thường mang theo mình,hoặc đi, đứng,nằm,ngồi,luôn luôn dùng bàn chuỗi,hết lòng xưng niệm danh hiệu Phật Đà(Phật), Đạt Ma(Pháp) và Tăng Già(Tăng),không để cho tâm phân tán.”

- Tại Trung Quốc,khoảng 800 năm sau khi Phật nhập diệt,nhiều kinh sách đề cập đến việc sử dụng tràng hạt.Trong Tục Cao Tăng Truyện có đề cập đến việc nhiều người lần chuỗi,miệng niệm danh hiệu Phật.

- Khi ngài Huệ Viễn(334-416) sơ tổ Tịnh Độ Tông,đề xướng pháp môn niệm Phật,tràng hạt trở thành vật bất ly thân của hành giả Tịnh Độ.

384. Tăng Ni Phật Tử Tây Tạng xử dụng Giải Khăn Khata. Giải Khăn Thiêng này tượng trưng cho gì?

- Giải Khăn Thiêng Khata của người Tây Tạng là biểu tượng của lòng tôn kính,tri ân,là biểu tượng của thần lực gia trì.

- Khăn Khata làm bằng lụa,bằng vải,thường thường là màu trắng, đôi khi màu cam,màu vàng.Tại Mông Cổ,màu xanh da trời.Khăn dài gần 4m,rộng gần 1m,dùng để dâng cúng các bậc cao Tăng,nhân viên cao cấp. Đôi khi vị cao tăng nhận khăn,rồi dùng khăn tặng lại cho đệ tử,xem như Khăn Thiêng có công năng bảo trì đệ tử.

385. Chư Tăng Tây Tạng khi làm lễ xử dụng Quyền Chùy và Chuông Tay. Xin cho biết ý nghĩa của Quyền Chùy.

- Quyền Chùy danh từ tiếng Phạn là Vajra,có nghĩa là(sấm)sét,năng lực của thần Indra Ấn Độ Giáo.Phật Giáo khi truyền vào Tây Tạng sử dụng biểu tượng này mà người Tây Tạng gọi là Dorje,làm bằng kim loại hay bằng đá,với 1 đến 9 cái chỉa nhọn.

- Thường thường Dorje có 3 chỉa nhọn,tượng trưng cho Tam Bảo.Nếu chỉ có 1 chỉa nhọn do hai đầu gập lại tượng trưng cho sự dung hợp giữa thế giới vật thể và thế giới tâm linh,hai khái niệm nhị nguyện nhập nhất thể.Nếu có 2 mũi nhọn(rất ít)tượng trưng cho khái niệm nhị nguyên.Nếu có 4 mũi nhọn,tượng trưng cho 4 biến cố lớn trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca.Nếu có 5 mũi nhọn cụp lại thành vương miện,hay 4 muĩ cụp lại thành cái cán,tượng trưng cho Ngũ Đại,Ngũ Tuệ Giác,Ngũ Phật.Quyền Chùy với 9 mũi nhọn rất hiếm.

- Trong mọi hình dáng,Quyền Chùy là biểu tượng của thể tánh Như Như có thể chứng đắc qua thiền định.

386. Xin cho biết ý nghĩa của Chuông Tay.

- Chuông Tay danh từ Tây Tạng là Ghanta hay Drilbu, đối nghịch với Quyền Chùy, đồng thời bổ túc cho Quyền Chùy,bổ túc cho trí tuệ viên mãn.

- Đầu tay chuông đôi khi là hình bảo tháp, đôi khi hình Dorje,biểu dương không những tiếng mà còn tánh không và vô thường,vì tiếng chuông rung rồi chấm dứt,cho ta cảm giác hư ảo,biến thiên của sự vật,là biểu tượng của trực giác,thâm nhập không tánh.

387. Hai pháp khí Quyền Chùy và Chuông Tay sử dụng riêng hay sử dụng chung?

- Chuông tay và quyền chùy,tượng trưng cho quyền năng thế tình và màu nhiệm,là những pháp khí thường dùng trong nghi lễ lớn cũng như nghi quỹ thiền quán cá nhân trong Kim Cang Thừa.Thiếu hai pháp khí này thì nghi lễ Mật Giáo không còn ý nghĩa nữa.

- Quyền chùy và chuông tay luôn luôn liên hệ với nhau,không thể phân ly,không thể phá hoại,nói lên ý nghĩa kim cương bất hoại.

- Hành giả tay phải cầm Quyền Chùy,biểu tượng của tâm thường trú bất động,tay trái cầm Chuông Tay tượng trưng cho vô thường biến đổi.

- Hai pháp khí bất khả phân này trong tay hành giả Du Già tượng trưng cho sự dung hợp của nam lực,nữ lực,của chân đế,tục đế.

- Trong thế giới đối nghịch,có ngày có đêm,có thượng,có hạ,có mặt trời mọc,mặt trời lặn, đôi Chuông Tay và Quyền Chùy phản ảnh hình ảnh đối nghịch,tương duyên,hòa đồng bất khả phân,là bản lai diện mục của con đường Kim Cang,là hạt nhân,là chủng tử của năng lực dung hợp, đối nghịch,là bảo tháp của Thai Tạng Giới,của Vajradhàna,của thế giới thực tánh và thế giới hư ảo.

388. Em thấy đôi khi chư Tăng làm lễ bắt ấn. Cho em biết sơ qua về Thủ Ấn?

- Thủ Ấn,tiếng Phạn là Mudras,là những biểu hiện năng lực không thể diễn đạt bằng lời.

- Mudra có nghĩa là Ấn,là Dấu Hiệu,dùng để“dịch” ý nghĩa bằng phương tiện khác hơn lời nói,chữ viết,phát xuất từ Ấn Độ Giáo,nhưng cách diễn đạt thay đổi theo môi trường văn hóa. Đối với Phật Giáo Đại Thừa,cách bắt ấn không mấy xa lạ.

- Ấn sử dụng bàn tay,ngón tay.Bàn tay phải biểu hiện cho cõi Phật,bàn tay trái cõi người,ngón tay cái biểu hiện vũ trụ càn khôn,ngón tay chỏ là Phong,ngón giữa Hỏa,ngón áp út Thủy,ngón út Thổ.

389. Có bao nhiêu loại ấn?

- Nói một cách tổng quát có 5 loại Ấn biểu tượng của 5 đức Phật:Trí Quyền Ấn của Phật Đại Nhật,Xúc Địa Ấn của Phật A Súc,Thí Nguyện Ấn của Phật Bảo Sanh,Tam Ma Địa Ấn của Phật A Di Đà và Kiết Ma Ấn của Phật Bất Không Thành Tựu.

390. Ngoài ra còn có thủ ấn khác và cách bắt ấn như thế nào?

- Còn có 6 loại thủ ấn:

- 1/ Thiền Ấn(Dhyana Mudra) là cách bắt ấn hai tay để ngửa lên nhau,hai ngón tay cái chạm vào nhau,đặt trên đùi thế kiết già hay bán già. Đây là cách bắt ấn khi ngồi thiền,nên gọi là Thiền Ấn.Khi ngồi Kiết Già tay đỡ bình bát là thế ngồi của Đức Phật Dược Sư theo biểu tượng Tây Tạng.

- 2/ Địa Ấn(Bhumisparsha Mudra)là thế ấn của Phật Thích Ca lúc thành đạo:tay phải úp xuống đất,tượng trưng sự minh chứng của địa giới trước sự Tỉnh Giác của Ngài,nói lên sự vững chắc không thể hủy hoại, được nhân cách hóa qua hình tượng của Phật A Súc Bệ,Bất Động Phật(Akshobhya)và Phật Thích Ca Mâu Ni.

- 3/ Pháp Luân Ấn(Dharmacakra Mudra):hai tay để trước ngực,hai ngón tay cái chạm nhau,bàn tay phải ngửa lên trên,bàn tay trái dựng thẳng hay hướng vào ngực,diễn đạt thế đẩy bánh xe Pháp của Phật Thích Ca và Phật Di Lặc.

- 4/ Truyền Ấn(Vitarka Mudra):ngửa lòng bàn tay phải,hướng ra ngoài,lòng bàn tay trái úp xuống,cũng hướng ra ngoài,hai ngón tay cái chạm vào nhau,nói lên sự viên mãn của chánh pháp. Ở Tây Tạng người ta bắt Truyền Ấn ngược lại như ta thấy trong hình tượng Tara và chư Bồ Tát.

- 5/ Vô Úy Ấn(Abhaya Mudra), ấn pháp đầu tiên sau khi Phật thành đạo:ngửa bàn tay phải chỉa ra ngoài,cao ngang vai,tay trái dọc theo thân hình,biểu tượng đức vô úy,bảo hộ nhân thê trong hình dáng đứng hay đi,rất phổ cập ở Đông Nam Á.Phật Bất Không Thành Tựu,một trong năm vị Phật,thường bắt Ấn Vô Úy.

- 6/ Hoan Hỷ Ấn(Varada Mudra)tượng trưng cho sự vui mừng,đón tiếp:Bàn tay phải dang ra, úp mặt xuống đất,nói lên lòng từ mẫn cứu độ chúng sinh,thường liên hệ với Vô Uý Ấn.

391. Chư Tăng Ni, Phật Tử khi gặp nhau chào hỏi, hai tay chấp lại để ngang ngực, đó có phải là một loại Thủ Ấn?

- Có một loại thủ ấn rất thông dụng khi ta sử sụng mà không để ý đó là cách chấp hai tay trong hình hoa sen búp, để ngang ngực, để lễ Phật,chào hỏi,chúc tụng như ta thấy tại Ấn Độ,Tây Tạng,Thái Lan,Việt Nam v.v…

- Hình tượng học Phật Giáo có rất nhiều thủ ấn.Mỗi thủ ấn tượng trưng cho một đức tính,liên quan đến thần chú trì tụng.Trong nghi lễ, đặc biệt lễ Cúng Cô Hồn ở Trung Quốc và Việt Nam,thủ ấn được sử dụng để kiện toàn tâm pháp,hàng phục yêu ma,cần phải làm đúng theo quy tắc để tránh tai họa có thể xảy ra lúc đụng độ với quỷ thần.

392. Phật Giáo Thiền Tông diễn tả hành trình tu chứng qua bản Thập Ngưu Đồ. Có thể cho em biết một cách tổng quát về Thập Ngưu Đồ?

- Ngưu Đầu Thiền là phương thức thiền tập của ngài Pháp Dong, đồng môn của ngài Hoằng Nhẫn,tổ thứ 5 của phái Thiền Tông Trung Hoa.Ngưu Đầu Thiền được biểu hiện trong Thập Ngưu Đồ.

- Thập Ngưu Đồ là 10 hình vẽ về con bò và người chăn bò,biểu hiện mười đoạn đường tu chứng của người hành thiền,từ cảnh Vô Minh đến Kiến Tánh Thành Phật.

- Con bò có hai màu,màu đen và màu trắng.Màu đen tượng trưng cho bản tính bị vô minh che lấp,màu trắng tượng trưng cho bản tính thanh tịnh.Bò đen,bò trắng đều là một,chỉ khác nhau ở sắc lông.

393. Xin cho biết nội dung của Thập Ngưu Đồ.

- Thập Ngưu Đồ có thể chia làm ba phần,tượng trưng cho ba giai đoạn chính: 1/ Giai đoạn xung đột nội tâm,gồm 4 hình đồ. 2/ Sau khi nội tâm không còn xung đột,gồm 3 hình đồ. 3/ Kết quả của việc điều hòa nội tâm gồm ba hình đồ.

394. Cho em biết ý nghĩa của hình đồ 1.

- Trong gian đoạn một gồm 4 hình đồ.Hình đồ thứ nhất gọi là Vị Mục,chưa thu phục được con bò,chưa thu phục được nội tâm.Trong đồ hình,con bò màu đen,tượng trưng cho chân tính bị vô minh che lấp.Người chăn bò lấy cỏ dụ nó,giống như Kinh Điển Phật Giáo đưa ánh sáng chỉ đạo.Cảnh vật u tối,mây đen u ám,như kiếp sống luân tử,sinh hồi,trôi nổi trên biển đời đầy sóng gió.

395. Xin cắt nghĩa hình đồ 2.

- Hình đồ thứ 2 gọi là Sơ Điều,nội tâm bắt đầu được điều phục:Bò được Điều Phục bước đầu:người chăn bò đã thắt dây vào mũi bò,giơ roi dọa nó phải tuân theo.Mây đen đã biến mất nhưng mặt trời vẫn chưa mọc.Mõm con bò đã biến thành trắng:khẩu nghiệp đã được điều ngự.

396. Cho biết ý nghĩa hình đồ 3.

- Hình đồ thứ 3 gọi là Thụ Chế có nghĩa là bò đã chịu phục tùng,nội tâm được điều phục,nhưng vẫn còn cự nự,còn vương vấn.Người chăn bò không giơ roi dọa dẫm,nhưng vẫn cầm hờ trong tay.Mặt trời mọc lên nhưng trời vẫn còn mây.Trọn cái đầu con bò đã thành trắng: ý muốn nói trí tuệ đã minh mẫn,nhưng tình cảm và sinh dục vẫn còn,thân giữa và thân sau của bò vẫn còn đen.Tâm và trí chưa hòa nhau.

397. Cho biết ý nghĩa hình đồ 4.

- Hình đồ thứ 4 gọi là Hồi Thủ:Bò ngoảnh mặt nhìn người chăn,cảm thấy gần gũi, để cho người chăn buộc vào thân cây, ý muốn nói Hồi Đầu Thị Ngạn,quay đầu về bên kia bờ giác,Tâm và Trí bắt đầu hòa hợp,đầu,thân trước và hai chân trước trở thành màu trắng.Phần sinh dục đương còn đen.Cảnh trời trong vắt.Mặt trời đã lên cao.

398. Xin cho biết giai đoạn hai trên đường tu chúng sau khi đã điều phục được nội tâm. Cho biết ý nghĩa của hình đồ 5.

- Hình đồ 5 gọi là Thuần Phục:người chăn không cột bò vào cây mà bò vẫn đi theo người chăn một cách ngoan ngoãn.Tuy nhiên người chăn vẫn chưa hoàn toàn tin cậy,vẫn giữ roi và sợi dây.Tâm đã thuần phục,nhưng có thể vọng động.Phần trên và phần giữa thân bò đã trở thành trắng.Nước trên nguồn chảy xuống mát mẻ.Mặt trời lên cao tuy trời vẫn còn mây.

399. Xin cho biết ý nghĩa của hình đồ 6.

- Hình đồ 6 có tên là Vô Ngại:bò đã thuần phục,yên lặng nằm nghỉ.Phía sau đuôi còn một vết đen,tượng trưng cho tình dục vẫn chưa hoàn toàn chinh phục.Người chăn không còn lo ngại,thung dung tự tại ngồi thổi sáo,bò nằm yên lắng nghe tiếng sáo.Nền trời quang đãng,hoa trổ hương thơm ngào ngạt.Người và vật ung dung tự tại,tâm và cảnh tự tại ung dung.

400. Xin cho biết ý nghĩa của hình đồ 7.

- Hình đồ 7 có danh xưng là Nhậm Vận:bò được thả lỏng nhưng vẫn không rời người chăn.Người chăn không cần coi chừng bò,cũng không cần thổi sáo thoa dịu.Toàn thân bò trở thành trắng,sự xung đột nội tâm không còn nữa.Mặt trời lên đến đỉnh.Hoa lá mọc đầu,bò tha hồ ăn.Tâm và cảnh không còn phân ly.

401. Trong giai đoạn 3, hành trình tu chứng được diễn đạt như thế nào? Cho biết ý nghĩa của hình đồ 8.

- Hình đồ 8 tên là Tương Vong:Bò và người chăn không còn lưu luyến nữa,không coi chừng nhau nữa,thong dong tự tại.Mặt trời xế chiều,sao Bắc Đẩu xuất hiện.Mặt đất biến dạng.Tối và sáng xen nhau.Ngày và đêm lẫn lộn một màu.Thiện ác không phân.Tất cả hoà đồng.

402. Cho biết ý nghĩa của hình đồ 9.

- Hình đồ 9 gọi là Độc Chiếu,không còn hình bò nữa.Người và bò trở thành một.Tâm và cảnh không hai.Sao Bắc Đẩu rọi sáng. Ánh sáng trí tuệ rọi chiếu.

403. Xin cho biết ý nghĩa của hình đồ 10, hình đồ cuối cùng của diễn trình tu chứng.

- Hình đồ 10 có tên là Song Dẫn:hoàn toàn trở về Chân Không Tịch Tịnh,một vòng tròn,một trạng thái viên mãn,không người,không vật,không hai,không một.

404. Em tham dự nhiều buổi lễ Phật Giáo, nhưng không biết ý nghĩa. Trước hết nghi lễ có phải do Phật chế ra?

- Trong khi Phật còn tại thế,nghi lễ chiếm một vị thế rất khiêm nhường.Ngay cả Lễ Truyền Giới cũng rất giản dị.Nhưng sau khi Phật nhập Niết Bàn,hàng đệ tử muốn tỏ lòng tôn kính đã thiết lập nhiều đại lễ,nghi lễ.

405. Phật Giáo có bao nhiêu Đại Lễ?

- Phật Giáo Nam Tông cũng như Bắc Tông đều cử hành 4 đại lễ: Đại Lễ kỷ niệm Phật Giáng Sinh,Phật Thành Đạo,Phật Thuyết Pháp lần đầu tiên và Phật nhập Niết Bàn.

- Các nước Phật Giáo theo Bắc Tông còn làm lễ Vía Phật Di Lặc,Vía Quan Thế Âm,Vía Đức Địa Tạng,Lễ Vu Lan.

- Tại Tây Tạng,Chư Tăng và Phật Tử còn tổ chức Đại Lễ kỉ niệm ngày Hoàng Hậu Ma Gia thọ thai vào ngày rằm tháng giêng Âm Lịch.

406. Phật Giáo có bao nhiêu nghi lễ, hội hè đình đám?

- Tùy quốc gia,tùy địa phương,tùy thời điểm.

407. Có bao nhiêu nghi lễ hội hè đình đám trong Phật Giáo Nam Tông? Lấy Thái Lan làm tiêu biểu?

- Nghi lễ,hội hè, đình đám Phật Giáo Thái Lan hòa với phong tục tập quán Thái, được chia làm ba loại:nghi lễ tại gia,nghi lễ tại chùa và nghi lễ quốc gia.

- Về nghi lễ tại gia. Đức Phật không thiết kế nghi quỹ sinh nhật,cưới hỏi,ma chay v.v…cho hàng cư sĩ mà để cho họ hành trì theo phong tục tập quán địa phương.Nghi lễ tại gia có chư tăng tham dự.

- Tại Thái lan trong những nghi lễ cung đình,vì ảnh hường của Bà La Môn,nên có sự hiện diện của các đạo sĩ Bà La Môn.Tại lễ sinh nhật của vua và hoàng gia có sự hiện diện của nhà chiêm tinh(Horacàrya).Từ ngày vua Mongkut lên ngôi,vua ra lệnh dùng kinh Phật thay thế kinh Bà La Môn trong những lễ sinh nhật của vua và hoàng gia.

- Quần chúng mời chư Tăng đến nhà cầu siêu,cầu an,làm lễ xông nhà mới nếu không mời được đạo sĩ Bà La Môn.

- Nghi lễ tại tư gia phần nhiều rất đơn giản,không được ghi trong luật Phật,thường không liên hệ với đời sống của chư Tăng.

408. Cho em biết nghi lễ Phật Giáo liên quan đến đám cưới tại Thái Lan.

- Chư Tăng xuất gia sống độc thân,xem luyến ái là cội nguồn sinh tử nên không dự phần vào lễ hôn nhân,tuy vậy Phật tử vẫn mời chư Tăng đến nhà cầu nguyện,ban phước cho gia thất,cho ngôi nhà mới của cặp uyên ương.

- Chư Tăng đến nhà tụng kinh cầu nguyện trước khi lễ thành hôn được cử hành.Đôi khi chư Tăng ở lại trong thời gian cử hành hôn lễ,nhưng lại đứng ngoài hành lang hay trong rạp làm trước sân nhà.

- Chư Tăng tụng những bài kinh cầu nguyện sau:Namo,Saranagamana,Namakàrasiddhi Gàthà,Namokàratthaka Sutta,Ratana Sutta(phần tựa)và Parittas.

409. Cho em biết nghi lễ Phật Giáo liên quan đến sinh nhật tại Thái Lan.

- Nhân Lễ Sinh Nhật,gia chủ mời chư Tăng đến nhà tụng kinh cầu nguyện,thiết lễ trai tăng cầu phước.

- Lễ Lục Tuần đối với người Thái là lễ sinh nhật quan trọng nhất trong đời người,mừng đương sự sống lâu, đã hoàn tất 5 chu kỳ của đời người,mỗi chu kỳ 12 con giáp,đặc biệt đã trải qua chu kỳ thứ 5,chu kỳ của trí tuệ và kinh nghiệm. Ở đây ta thấy ảnh hưởng của truyền thống Trung Hoa.

- Trong Nghi Lễ Sinh Nhật,có nghi lễ giải trừ oan nghiệt.Chư Tăng tụng những bài kinh sau:Namo,Mahàkàruniko Nàtho,Ratana Paritta,Khandha Parita,Atànàtiya Paritta,Dhammacakkappavattana,Bojjhanga Paritta.

410. Cho em biết nghi lễ cầu an tại Thái Lan.

- Nghi lễ cầu an hay Lễ Tiếp Tục Mạng Sống,người Thái gọi là lễ Bidhì Sub Àyu,lúc đầu được hành trì tại miền Bắc Thái Lan trong trường hợp thân nhân lâm bệnh,hiện nay phổ cập toàn nước Thái.

- Thiết kế nghi lễ cầu an gồm những vật dụng sau:cây,cầu,cá,chim, ý muốn nói bệnh nhân nếu được lành bệnh,sống lâu là nhờ có lòng từ bi đối với chúng sinh,hữu tình cũng như vô tình.

- Trong buổi lễ chư Tăng tụng những Paritta và Kinh Unashivavijaya, được ghi trong kinh lá bối của Lào.

411. Nghi lễ tân gia của người Thái như thế nào?

- Phật tử Thái sau khi hoàn thành việc xây cất nhà mới,thường mời chư Tăng đến nhà làm lễ cầu nguyện gọi là Lễ Tân Gia.Nhân dịp này họ mời bà con,bằng hữu đến tham dự.

- Nghi lễ Tân Gia giống như nghi lễ tụng trước khi hôn lễ được cử hành.Sau thời kinh kết thúc,một vị sư hay cư sĩ đi từng phòng,dùng nhánh cây rải nước Cam Lồ. Đôi khi dùng dây thiêng buộc chung quanh hàng rào để ngăn ngừa tà ma, ác quỷ gây tai hại cho gia đình.

412. Lễ Táng, Đám Ma, Hỏa Táng của người Thái như thế nào?

- Đối với người Thái Lan,Lễ Táng rất quan trọng,nói lên sự thật của cuộc đời:sanh,lão,bệnh,tử.

- Theo truyền thống Thái,khi thân nhân sắp sửa qua đời,bà con,thân thuộc khuyên thân nhân niệm Phra Arahant(Phật),họ ghé sát tai người sắp quá vãng niệm danh hiệu Phật cho đến khi tắt thở.

- Những gia đình giàu có thường mang quan tài để giữa ngôi nhà đặc biệt trong khuôn viên chùa.Chư Tăng trì tụng trước linh cửu người quá cố,thường sử dụng dây thiêng Bhùsà Yong cột thân xác nằm trong quan tài kéo đến tay những vị sư hộ niệm,nhờ vậy người chết có thể tiếp xúc với kinh chú.

- Lễ Hỏa Táng của nhà vua hay hoàng gia được cử hành trong cái lều đặc biệt gọi là Phra Meru,làm bằng gỗ,lợp vải.Meru(Núi Tu Di) là hòn núi thần thoại,trung tâm của vũ trụ.Cái lều đặc biệt này được dựng trên bệ cao,có hình dáng của một hòn núi và cung điện.

- Sau lễ Hỏa Táng thân nhân thu thập tro bỏ vào hũ đem về nhà,chùa,tháp để thờ.Trong ngày hỏa táng,những gia đình giàu có thường ấn tống kinh sách,hồi hướng công đức cho người quá vãng.

- Trong Lễ Tang,Hỏa Táng chư Tăng thường tụng Abhidhamma,đặc biệt là Bộ Thắng Luận(Abhidhamma Sangala),vì đó là yếu nghĩa của Phật, đức Phật đã giảng yếu nghĩa này cho thân mẫu ở cung trời Đâu Suất.

413. Lễ Hỏa tang của chư Tăng gọi là gì? Tại sao chư Tăng khi viên tịch có vị hỏa tang, có vị nhập tháp?

- Lễ Hỏa Táng chư vị Hòa Thượng,Trưởng Lão,Cao Tăng gọi là Lễ Trà Tì.Nghi lễ rất chi tiết,kéo dài thời gian để đệ tử của các ngài,tại gia cũng như xuất gia rất đông, ở rải rác khắp nơi có đủ thì giờ về tham dự lễ.

- Tại các quốc gia theo Phật Giáo Nam Tông,sau lễ Trà Tì,tro cốt được nhập tháp thờ trong các ngôi tháp quanh chùa.Tại các quốc gia theo Phật Giáo Bắc Tông,tập quán trà tì không mấy phổ cập nên chư Tăng Ni khi viên tịch có vị hỏa tang,có vị nhập tháp.

414. Xin cho biết nghi lễ làm tại chùa gồm những nghi lễ gì?

- Tại Thái Lan nghi lễ làm tại chùa gồm:Lễ Tết Nguyên Đán,Lễ Cầu Mưa,Lễ Thắp Nến Chiến Thắng(Vô Minh),Lễ Bồ Tát,Lễ Nhập Hạ,Lễ Mãn Hạ,Lễ Dâng Y,Lễ Cúng Dường Vải,Lễ Phóng Đăng,Lễ Hội Công Đức,Lễ Khánh Thành chùa,Lễ An Vị Phật,Lễ Điểm Nhãn.

415. Cho biết nghi lễ quốc gia tại Thái.

- Nghi lễ quốc gia là lễ nghi do vua hay chính phủ tổ chức.Vì giáo hội Phật Giáo Thái Lan liên hệ với chính quyền,nên nghi lễ quốc gia gồm nghi lễ tôn giáo do chư Tăng chủ trì.

- Nghi lễ quốc gia gồm có:Lễ tết Nguyên Đán,lễ Cầu Mưa Thuận Gió Hòa,Lễ kỉ niệm ngày thành lập triều đại Chakri năm 1782,Lễ Gieo Mạ,Lễ Cày Ruộng,Lễ Đăng Quang vua Rama I(1782-1803),Lễ kỉ niệm vua Chulalongkorn(1868-1910),Lễ sinh nhật vua Thái hiện nay,lễ ban hành hiến pháp 1932.

- Trường tổ chức ngày lễ nhớ ơn thầy.

- Những sinh viên trước khi nhập Đại học hay xuất ngoại du học,trường tổ chức lễ Củng cố Đức Tin.

416. Xin cho biết nghi lễ Phật Giáo tại các nước theo Mật Giáo, điển hình là Tây Tạng.

- Nghi lễ mật Giáo được diễn tiến theo bảy giai đoạn,dựa vào mô hình 16 giai đoạn của Ấn Độ Giáo.Bảy giai đoạn đó là: 1/ Thỉnh mời(triệu thỉnh) 2/ Thỉnh mời thần linh an tọa. 3/ Dâng cúng hương,đèn,hoa,quả,nước,vật thực,đôi khi vòng Mandala. 4/ Tụng kinh tán dương công đức. 5/ Gia trì thần chú. 6/ Cầu nguyện phước đức hiện tại và tương lai. 7/ Hồi hướng.

- Chư Tăng và Phật tử Tây Tạng cử hành lễ Cầu An,Cầu Siêu,lễ Táng,Hỏa Tế,Lễ Trà Tỳ,Lễ Đặt Đá,Lễ Bồ Tát,Lễ Cầu Mưa,Lễ Cầu Nguyện Đầu Năm vào dịp tết Nguyên Đán,Lễ Kỉ Niệm ngày hoàng hậu Ma da thọ thai,Lễ Đâu Suất Giáng Trần,Lễ Phật Đản Sinh,Lễ Phật Nhập Niết Bàn,Thủy Lễ,Hội Hoa Đăng,Lễ Đản Sinh của Thánh Tăng Padmasambhava,Lễ Cầu Cơ,lễ Điểm Đạo,lễ Múa Quỷ Đội Mũ Đen trong lễ Tẩy Trần Cuối Năm.

417. Xin cho biết về Lễ Đản Sinh của thánh tăng Padmasambhava.

- Thánh Tăng padmasambhava (Lien Hoa Sinh) là vị đầu tiên đến Tây Tạng truyền thừa Mật Giáo,nên Phật Giáo Tây Tạng cử hành lễ Đản Sinh của ngài rất trọng thể.

- Lễ được tổ chức vào ngày 10 tháng 7 theo truyền thống Sikkim,nhưng tại nhiều nơi ở Trung và Đông Tây Tạng,lễ này được tổ chức vào ngày 10 tháng 5.

418. Xin cho biết lễ Cầu Cơ ở Tây Tạng.

- Tại tây tạng có ít nhất 4 loại Cầu Cơ,tùy theo mức độ quan trọng khác nhau:Cơ Cachun,Cơ Karmasar,Cơ Lhaka và Cơ Nagpa.

419. Xin nói sơ qua về Thần Cơ Cachum.

- Cơ Cachun có tầm vóc quốc gia,phát xuất từ thần thoại sau:Thần Cơ nguyên là vị thần của các bộ lạc Turki,có công chinh phục và thống nhất các bộ lạc Turki, được dân chúng tôn sùng, được thánh tăng Padmasambhava nhiếp phục thành thần Hộ pháp.Thần được thờ trong ngôi chùa Tây Tạng đầu tiên,chùa Samye và cũng được thờ tại tu viện Drepung.

- Ngài hóa sinh thành cơ Choje,lập gia đình,có khả năng tiên đoán vận mệnh quốc gia,số mạng quân vương,ngài chính là Thần Pehar(Pekar).Vào những thế kỷ sau,Thần Pehar đến cư trú tại tu viện Ganden,rồi trở thành Thần Cơ quốc gia vào thế kỷ thứ 17.Thần Cơ bây giờ là vị tu hành,thông thái,sống độc thân. Địa vị của ngài do truyền thừa chứ không phải thừa kế.Danh hiệu ngài là Kung(Vương)do vua Trung Hoa ban thưởng.Ngôi chùa ngài cư trú có vườn hoa,có sở thú.Ngài ăn mặc theo kiểu nhà sư phái Gelug, áo màu đỏ xẫm,đầu đội mũ vàng như mũ Tỳ Lư.

- Hàng năm ngài đến thủ đô Lhasa một lần vào ngày mồng hai tháng giêng,có Giám Tự chùa Derpung tháp tùng, được đón rước long trọng.Ngài được mời cư trú tại ngôi chùa đặc biệt ,phía đông Đại Tự Jokhang.Tại đây ngài đầu cơ,tiên đoán vận mệnh quốc gia và số mạng của triều thần trong năm.Ngài cũng giúp dân tiên đoán số mệnh của họ.Lời Cơ ngài giáng xuống trong hình thức các bài thơ, ý nghĩa bóng bẩy,dễ bị diễn dịch theo nhiều nghĩa.

420. Xin cho biết về Thần Cơ Karmasar.

- Thần Cơ Karmasar cũng do thần Pehar hoá sinh, địa vị thấp hơn thần cơ Nachun,không thông thái bằng thần cơ Nachun,có gia đình, đông đệ tử.

- Hàng năm vào tháng bảy,Thần Cơ Karmasar và tùy tùng long trọng đến chùa Sera tiên đoán vận mệnh quốc gia,Giáo Hội trong năm.Những Lời Cơ tiên đoán vận mệnh được dán lên cửa phía nam nơi ngài cư trú và cũng dán lên những cánh cửa chùa Sera.

421. Xin cho biết về Thần Cơ Lhaka.

- Thần Cơ Lhaka cũng có danh hiệu là Thần Cơ Kutemba,thường cư trú ở miền Tây Tây Tạng, đôi khi trong hình hài phụ nữ.

- Thần Cơ Lhaka giúp dân tiên đoán những gì có thể xảy ra cho họ,cho gia đình họ, đồng thời chỉ bày phương thức khử trừ tai họa hay lẫn tránh tai họa.

422. Xin cho biết về Thần Cơ Nagpa.

- Thần cơ Nagpa rất phổ cập,rất đông,xuất hiện trong hình hài nhảy múa(lên đồng).Những vị này thường thường học rất kém,có vợ con,khi làm lễ hay nhảy múa, đầu đội mũ cao,vành rộng làm bằng lông yak(một loài bò lông xù),hai bên có hình con rắn quấn,trên chóp có hình sọ người,có lông công,chung quanh có những chòm dây năm sắc bằng lụa, đôi khi tay cầm dao găm hay kim cang chùy, để trừ ma quái.

- Thần Cơ Nagpa giúp dân diệt trừ tà ma,bằng cách làm lễ,phát bùa-Bùa Địa Thần,Bùa Thiên Thần-cho dân chúng treo giữa cửa ra vào nhà.

423. Xin cho biết nghi lễ Phật Giáo Trung Hoa và Việt Nam.

- Ngoài những Đại lễ Phật Đản,Lễ Vía Phật Thành Đạo,Vía Phật Nhập Niết Bàn,Lễ Vu Lan,Nghi lễ cầu siêu cầu an, đám tang, đám giỗ,lễ Trà Tì,Lễ Thất Thất Trai Tuần,Lễ Khánh Thành chùa,Lễ An Vị Phật,Lễ An Cư Kiết Hạ,Lễ Qua Đường,Lễ Bồ Tát,Lễ Đại Giới Đàn,Lễ Thọ Bát Quan Trai,phật tử Trung Hoa và Việt Nam còn làm lễ Cúng Cô Hồn Chẩn Tế,Lễ Sám Hối,Phật Tử Trung Hoa làm lễ Thủy Lục Pháp Hội.

424. Xin cho biết sơ qua về Lễ Thất Thất Trai Tuần.

- Trước khi Phật Giáo du nhập vào Trung Quốc,dân Trung Hoa có khái niệm rất mập mờ về kiếp sau.

- Giống như dân Aryans tiên khởi,họ tin chết là hết,là vĩnh viễn từ giã cõi đời này,cát bụi trở về cát bụi.Kim,mộc,thủy,hỏa,thổ(Ngụ hành)trở lại nguyên chất thổ,hỏa,thủy,mộc,kim.

425. Phương thức gì làm cho vong hồn được siêu thoát?

- Có ba phương thức làm cho vong hồn được siêu thoát: 1/ Lễ Siêu Độ do chư Tăng chủ trì,làm tiêu trừ nghiệp chướng của người quá vãng. 2/ Bằng lời Kinh.Tăng Ni hướng dẫn,khai triển trí tuệ,soi đường cho người quá vãng. 3/ Tặng thức ăn,nước uống cho loài quỷ đói, đem lòng từ bi giúp kẻ khốn cùng.

426. Làm sao biết được vong hồn người chết được siêu thoát hay chưa được siêu thoát.

- Vị trí hơi nóng cuối cùng ở thể xác sau khi tắt thở lìa đời.

- Theo Tử Thư Tây Tạng trong vòng 49 ngày vong hồn đầu thai chuyển kiếp.

427. Tại sao phải cầu siêu mỗi năm khi đến ngày giỗ dầu người thân đã qua đời hàng chục năm?

- Lễ Kỵ,Giỗ có hai tác dụng:tôn giáo và tâm lý xã hội.Về mặt tôn giáo cầu nguyện cho người quá vãng siêu sinh lạc quốc.Về mặt tâm lý xã hội là để tưởng niệm người quá vãng,là cơ hội để bà con thân quyến gặp gỡ nhau,thắt chặt tình gia đình,tương thân,tương trợ.

428. Nếu người thân đã quá vãng và đã đi đầu thai trong vòng 49 ngày, vậy tụng kinh cầu nguyện cho người ấy thì người ấy có lợi ích gì không?

- cầu nguyện không những cho người thân mà cho toàn thể chúng sinh,mọi cô hồn phiêu bạt.

429. Xin cho biết sơ qua về Lễ Cúng Cô Hồn Chẩn Tế.

- Đây là truyền thống Mật Tông.Nghi lễ kéo dài 5 giờ đồng hồ ,thường được tổ chức vào buổi tối,lúc ngạ quỷ đi kiếm ăn.

- Lễ Chẩn Tế theo truyền thống Mật Tông do 3 vị chủ lễ,từ 6 đến 18 kinh sư hành lễ.Ba vị chủ lễ đắp y màu đỏ, đội mũ hiệp chưởng,những vị khác đắp y hậu thường,tay cầm linh.Trên bàn trước mặt để pháp khí như chuông,mõ,gương,hương trượng,muỗng v.v…

- Nghi lễ gồm có ba phần:Phần thứ nhất cầu Tam Bảo gia bị.Phần thứ hai chủ lễ và Kinh Sư dùng tích trượng mở cửa địa ngục,rồi dùng pháp khí, ấn,chú mở họng ngạ quỷ rưới nước Cam Lồ(nước đã được trì chú,bắt ấn làm phép),giải trừ nghiệp chướng,truyền thọ Tam Quy,hướng dẫn phát Bồ Đề tâm.Phần thứ ba,giảng pháp cho loài ngạ quỷ.Nhờ thần lực,chúng có thể thoát khỏi cảnh trầm luân.

430. Lễ Cúng Cô Hồn Chẩn Tế được tổ chức vào dịp nào?

- Lễ được tổ chức sau đám tang,nhân ngày húy nhật,sau lúc thiên tai,nhân họa như động đất,lụt lội,chiến tranh hay nhân dịp lễ Vu Lan,ngày Báo Hiếu,ngày Xả Tội Vong Nhân,ngày Rằm Tháng Bảy Âm Lịch.

431. Thường thường vào dịp Lễ Vu Lan, Phật Tử đến chùa dâng lễ, cầu nguyện cho Cửu Huyền Thất Tổ. Vậy Cửu Huyền Thất Tổ là chỉ cho những bậc tổ tiên nào?

- Nguồn gốc 4 chữ này không phát xuất từ Trung Quốc vì tất cả từ điển Trung Hoa như Từ Hải,Từ Nguyên,Khang Hy, Đại Từ Điển…không có cụm từ này,mà phát xuất từ Phật Giáo Việt Nam,như được ghi trong lời khấn nguyện: “Nguyện khắp mười phương,ba ngôi Tam Bảo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật,cùng chư vị Bồ Tát,tịnh đức chúng Tăng,từ bi gia hộ cho Cửu Huyền Thất Tổ,cha mẹ nhiều đời của đệ tử chúng con cùng tất cả chúng sinh sớm rõ đường lành…”

- Cửu Huyền không ám chỉ số thứ tự huyết thống.Chữ Cửu theo Từ Hải,có nghĩa là nhiều như Cửu Đại,Cửu Thế,Cửu Thiên,không có nghĩa là 9 đời,9 thế hệ,9 từng trời mà nhiều đời,nhiều thế hệ,nhiều từng trời.Chữ Huyền có nhiều nghĩa,trong đó theo Từ Hải có nghĩa là xa lâu,như Huyền Viễn.Như vậy Cửu Huyền là chỉ cho các bậc tổ tiên xa thật xa không thể tính nổi.

- Thất Tổ(bảy đời cha mẹ)trong tự điển Hán Việt Hoa không thấy đề cập.Trong Ngọc Âm Chỉ Nam cũng không thấy nói đến Thất Tổ mà chỉ nói đến Thất Tôn(bảy đời cháu).Thất Tôn là: 1/ Đích tôn(cháu nộ). 2/ Tằng tôn(cháu cố). 3/ Huyền tôn(chắt). 4/ Lai tôn(chít). 5/ Côn tôn(cháu đời thứ năm). 6/ Nhưng tôn(cháu đời thứ sáu). 7/ Vân tôn(cháu đời thứ bảy).Dựa vào Thất Tôn ta có thể kiến trúc thất tổ, đó là: 1/ Ông:Tổ phụ(ông ngoại, ông nội). 2/ Ông cố:Tằng tổ(Cao tổ). 3/ Ông sơ:Huyền tổ. 4/ Ông sờ:Lai tổ. 5/ Ông sẩm:Côn tổ. 6/ Ông cẩm:Nưng tổ. 7/ Ông Kỷ:Vân tổ.

- Trong kinh điển Phật Giáo cũng như cổ thư Ấn Độ,bảy là một thành số,chỉ cho số nhiều.Vì vậy khi nói đến bảy đời cha mẹ(Thất Tổ)nghĩa là cha mẹ trong nhiều đời,nhiều kiếp,từ quá khứ đến hiện tại,chứ không phải nhất thiết bảy thế hệ mà thôi.

432. Xin cho biết ý nghĩa Lễ Sám Hối.

- Lễ Cúng Cô Hồn Chẩn Tế là một trong nhiều phương thức giải trừ tai kiếp.Một phương thức khác tuy không linh đình,nhưng không kém phần linh ứng, đó là phương thức sám hối, ăn năn lỗi lầm gây ra từ bao nhiêu kiếp,nguyện chừa bỏ,dùng nước Cam Lồ tẩy trừ tội căn,gọi là Thủy Sám hay Từ Bi Thủy Sám.

- Đạo tràng Thủy Sám phát xuất từ câu chuyện của ngài Ngộ Đạt, được vua Đường Ý Tông phong làm quốc sư,tặng ngài pháp tọa làm bằng gỗ trầm hương,ngài dấy lòng cao ngạo và thụ hưởng nên bị bệnh nhọt ở đầu gối chữa mấy không lành,sau nhờ nước suối Từ Bi Tam Muội rửa sạch oan nghiệt.Từ đó ngài từ giã thủ đô hoa lệ, đến bên bờ suối dựng thảo am,chuyên trì Phật đạo,soạn tập sám văn đặt tên là Thủy Sám.

- Để tưởng niệm công hạnh của Ngộ Đạt quốc sư, để ghi nhớ sự vi diệu của nước Từ Bi Tam Muội,một vị cao tăng đời Tống,pháp hiệu là Tín Cô viết bài ký cho tập sám văn này.

- Sám văn Thủy sám trở thành bộ Kinh, được Phật tử Trung Hoa cũng như Việt Nam chuyên tâm hành trì để sám hối lỗi lầm quá khứ của mình, để đem công đức sám hối hồi hướng cho người thân đã quá vãng.

433. Sám Hối có hết tội lỗi không? Sám Hối khác với Rửa Tội của Cơ Đốc Giáo như thế nào?

- Sám hối,chữ Sanscrit là Ksamayati,gồm có hai ý nghĩa: 1/ Tỏ bày những lỗi lầm đã phạm 2/ Ăn năn nguyện không tái phạm.Theo Pháp Bảo Đàn Kinh,có hai loại Sám Hối gọi là Sự Sám Hối và Lý Sám Hối.Sự sám hối là theo nghi quỹ trước mặt chư Tăng,hay trước mặt bổn sư,hoặc trước mặt Phật làm lễ tỏ bày lỗi lầm,nguyện không tái phạm,hoặc tham dự lễ Hồng Danh Sám vào tối 14,tối 30 Âm Lịch.Lý Sám Hối biết mình có lỗi,bèn ra sức gội tâm thanh tịnh,tránh các tội lỗi,phiền não.

- Phật không rửa rạch tội cho mình,chư Tăng không rửa sạch tội cho mình,chính mình tự rửa sạch tội cho mình,chính mình quyết tâm ăn năn,nguyện chừa bỏ tội lỗi,nguyện không tái phạm.Phật,chúng Tăng,kinh chú chỉ chứng minh cho lòng hối cải,giúp người phạm tội làm tăng thêm,làm mạnh thêm ý chí dứt bỏ sai lầm.

434. Xin cho biết Lễ Thủy Lục Pháp Hội.

- Lễ Thủy Lục Pháp Hội thường được tổ chức liên quan đến Lễ Táng,rất thịnh hành tại miền Trung Trung Hoa,nhưng không mấy phổ cập tại Việt Nam.

- Nghi lễ này rất rườm rà,rất dài và rất tốn kém,kéo dài suốt 7 ngày đêm tại 7 bàn thờ, đôi lúc cùng làm một lượt.

- Mỗi lễ có một số chư Tăng hành lễ theo nghi thức định sẵn trong khi toàn thể chư Tăng trong chùa đều tham gia kinh hành niệm Phật.

- Lễ Thủy Lục Pháp Hội là để cầu nguyện cho tất cả chúng sinh,trên bộ cũng như dưới nước,hồi hướng công đức cho người quá vãng,cho thân nhân hiện tiền.

435. Nghi lễ xuất gia, thọ giới giữa Nam Tông và Bắc Tông có khác nhau không?

- Nói một cách tổng quát,nghi lễ xuất gia của các nước theo Phật Giáo Nam Tông tương đối giản dị hơn.

- Tuy nhiên tại Thái Lan,Lào,Cao Mên lễ tiễn chân giới tử vào chùa xuất gia được tổ chức như ngày hội:bà con,anh em,họ hàng vui mừng khiêng kiệu đưa giới tử đi vòng quanh chùa 3 lần,rất là nhộn nhịp,nhưng nghi lễ thọ giới thì rất giản dị.

- Theo Phật Giáo Nam Tông,muốn xuất gia hành đạo trước hết phải thọ Sa Di Giới.Với Phật Giáo Trung Hoa và Việt Nam,người muốn xuất gia phải được sư phụ Thế Phát,Thọ Ký, được sư phụ hướng dẫn cạo tóc,còn việc thọ Sa Di Giới thuộc về sau,khi trải qua thời gian hành đạo cần thiết,học xong kinh luật,nhất là thuộc kinh tụng buổi sáng,buổi chiều, thuộc Luật Sa Di.

- Lễ Thế Phát rất đơn giản.Vị bổn sư mời tất cả huynh đệ, đệ tử của Ngài;mời thân bằng quyến thuộc,bạn bè của người thế phát xuất gia đến chùa vừa để chú nguyện vừa làm nhân chứng cho người muốn phát tâm xuất gia quy Phật.Bổn sư ngồi trên bảo toạ,người thụ lễ quỳ trước bổn sư.Bổn sư giảng pháp nói về công hạnh xuất gia của Đức Thế Tôn khi ngài từ bỏ hoàng cung,xuất gia tầm đạo.Tiếp theo sư phụ giảng về bổn phận của người xuất gia,xong hỏi đệ tử có quyết tâm xuất gia hay không.Sư phụ hỏi 3 lần, đệ tử trả lời khẳng định 3 lần.Theo lời hướng dẫn của sư phụ, đệ tử hướng về phương Bắc, đảnh lễ quân vương(nhà cầm quyền)lần cuối,hướng về phương Nam đảnh lễ các bậc sinh thành dưỡng dục lần cuối,tiếp theo đến Chánh Điện lạy 9 lạy,ba lạy hướng đến Phật,ba lạy hướng đến Pháp,ba lạy hướng đến Tăng.

- Khi trở về điện Di Lặc,sư phụ thế phát cho đệ tử. Đệ tử từ đây sống trong chùa,làm công quả,học kinh luật chờ ngày thọ giới Sa Di do sư phụ truyền hay qua Đại Giới Đàn.

- Sau Lễ Thế Phát,bổn sư ban cho đệ tử Pháp Danh,dựa vào dòng kệ của Tông Môn.Thí dụ Tông Môn có câu kệ:Tánh Hải Thanh Trừng,Tâm Nguyên Quảng Nhuận…Pháp Danh của bổn sư là Tánh,như vậy pháp danh của đệ tử là Hải… .

436. Xin cho biết về Đại Giới Đàn của Phật Giáo Trung Hoa.

- Đại Giới Đàn được tổ chức để truyền 5 giới cho hàng cư sĩ,truyền 10 giới cho Sa Di,Sa Di Ni,truyền 250 giới cho Tỳ Kheo,truyền 348 giới cho Tỳ Kheo Ni,truyền 58 giới cho Bồ Tát tại gia cũng như xuất gia.Như vậy Đại Giới Đàn gồm 3 đàn tràng: 1/ Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di,Sa Di,Sa Di Ni Giới Đàn 2/ Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni Giới Đàn 3/ Bồ Tát Giới Đàn.

- Tại Trung Quốc trước năm 1949,thời gian tổ chức Đại Giới Đàn là 53 ngày,sau còn 37 ngày từ mồng một tháng ba đến mồng tám tháng tư Âm Lịch.

437. Xin cho biết cách tổ chức Đại Giới Đàn, cách huấn luyện giới tử truớc khi thọ giới tại Trung Quốc.

- Tôi xin lấy Đại Giới Đàn Bửu Hoa Sơn(giữa Nam Kinh và Trấn Giang) được tổ chức năm 1930 làm thí dụ điển hình.

- Theo truyền thống Trung Hoa,thủ tục truyền giới tại các Đại Giới Đàn chia làm hai thời kỳ:Thời kỳ thứ nhất là Ký Đường,thời kỳ giới tử ghi danh với đầy đủ chi tiết như tên họ,ngày sinh tháng đẻ,tên cha mẹ,tên bổn sư,sinh quán,trú quán,năm thế phát,nơi thế phát…thường kéo dài 10 ngày.Giới tử ghi danh xong cư trú trong Khách Tăng Đường,không phải phục dịch nhưng phải tham dự hai thời công phu sáng chiều.Thời kỳ thứ hai gọi là Phân Đường,phân chia ra từng toán từ 60 đến 70 giới tử, để huấn luyện thực tập về oai nghi tế hạnh,cách đi đứng nằm ngồi,cách phục sức,phục dịch,tiếp khách v.v…Vào thời kỳ này không chấp nhận thêm giới tử.danh sách giới tử đã hoàn tất.

- Những vị được chỉ định hướng dẫn thực tập,gọi là Dẫn Lễ Sư, ít nhất phải có 10 năm kinh nghiệm.

- Trong hàng giới tử hai người được chọn làm đại diện gọi là Sa Di Đầu và Sa Di Vĩ(Trưởng Chúng,Phó Trưởng Chúng),dựa vào tiêu chuẩn học vấn, đạo hạnh,tuổi tác,tướng mạo.

- Trong thời gian thực tập,giới tử phải học thuộc lòng 53 bài kệ hay chú cho mỗi động tác trong ngày.Thời gian thực tập kéo dài độ hai tuần.

438. Ai là người đứng đầu Đại Giới Đàn.

- Đại Giới Đàn được điều khiển bởi Tam Sư và Thất Chứng.Tam Sư là: 1/ Truyền giới Hoà Thượng(Upadhyaya,Việt Nam gọi là Đường Đầu Hoà Thượng), đại diện cho Phật để truyền giới,ngồi chính giữa. 2/ Yết Ma Hoà Thượng(Karmadana), đại diện cho đức Văn Thù,ngồi bên trái Truyền Giới Hoà Thượng,dùng lưỡi kiếm trí tuệ cắt sạch mọi tội chướng. 3/ Giáo Thọ Hoà Thượng(Acarya),ngồi bên phải truyền giới Hoà Thượng,tuyên đọc giới luật cho hàng giới tử biết để thọ nhận,hành trì.Thất Chứng là 7 vị giám sát xem nghi thức truyền giới có đúng theo quy cũ định sẵn hay không,là chứng nhân của buổi lễ,chứng nhân cho Đại Giới Đàn.

439. Giới Đàn Sa Di, Sa Di Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di diễn tiến như thế nào?

- Đêm trước lễ Truyền Giới đầu tiên,giới tử làm lễ sám hối.Sáng hôm sau,trước khi khai đàn,truyền 5 giới cho Ưu Bà Tắc,Ưu Bà Di,truyền 10 giới cho Sa Di,Sa Di Ni, đại diện giới tử với sự hướng dẫn của Dẫn Lễ Sư đến đảnh lễ Tam Sư,Thất Chứng,thỉnh cầu truyền giới.

- Sau khi Tam Sư Thất Chứng đã an tọa trên lễ đài trước chánh điện,hàng giới tử quỳ trước sân.Nghi lễ truyền Sa Di,Sa Di giới bắt đầu.Tiếp theo là lễ truyền Ngũ Giới cho hàng Cư Sĩ.Phần truyền giới thứ nhất chấm dứt.Giới tử xuất gia được phát y,bát, được ban Pháp Tự(tên riêng)và nếu cần pháp danh.Hàng cư sĩ chỉ có pháp danh mà thôi.

440. Giới Đàn Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni được chuẩn bị và diễn tiến như thế nào?

- Sau Giới Đàn Thứ Nhất,việc huấn luyện cho giới tử thọ Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni giới bắt đầu.Giới tử học quy tắc nghi lễ,học 250 giới cho hàng Tỳ Kheo,học 348 giới cho hàng Tỳ Kheo Ni.

- Sau 2 tuần lễ học tập,giới tử đến chánh điện làm lễ sám hối và thanh tịnh hóa thân tâm.

- Trong buổi lễ truyền giới Sa Di,Sa Di Ni và Ngũ Giới,mọi người đều có thể tham dự,nhưng trong lễ truyền giới Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni chỉ những giới tử liên hệ mới có quyền tham dự.

- Sau khi thọ đại giới,giới tử được đắp y thất điều(tại Việt Nam chỉ được đắp y ngũ điều(5 đường sọc)).Bây giờ họ là thành viên chính thức của Tăng Già.

441. Giới Đàn Bồ Tát được tổ chức như thế nào?

- Đây là lễ truyền giới lần thứ ba,lễ truyền giới Bồ Tát.

- Thành phần giới tử gồm Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni,Cư sĩ nam,Cư sĩ nữ,nguyện giữ 58 lời nguyện(Bồ Tát 58 giới,gồm 10 Trọng Giới và 48 Khinh Giới,khác với Bồ Tát giới chỉ dành riêng cho hàng cư sĩ gồm có 6 Trọng Giới và 28 Khinh Giới) được ghi trong kinh Phạm Võng,nói lên hạnh nguyện độ sinh,quyết tâm lăn mình vào nơi cùng khổ,cứu giúp chúng sinh,nguyện không thành Phật trước khi toàn thể chúng sinh thành Phật,nguyện không về cõi Cực Lạc trước khi toàn thể chúng sinh thoát cảnh luân hồi sinh tử.

- Toàn thể giới tử quỳ trước Tam Sư,Thất Chứng.Hàng Cư Sĩ được truyền giới trước,tiếp theo là Ni,sau cùng là Tăng.

- Giới Đàn Thứ Ba kết thúc sau khi Hoà Thượng Truyền Giới ban đạo từ,khuyên giới tử cẩn tâm hành trì.

442. Lễ Đốt Hương trên đầu cúng dường ngôi Tam Bảo được tổ chức vào lúc nào?

- Lễ Đốt Hương được tổ chức sau lễ Giới Đàn Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni,trước lễ Giới Đàn Bồ Tát.

- Tăng Ni Trung Hoa cũng như Tăng Ni Việt Nam khi thọ giới Sa Di,Sa Di Ni ,Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni,tỏ lòng biết ơn Tam Bảo.

- Sa Di,Sa Di Ni Trung Hoa đốt 3 nhúm hương trên đầu(Sa Di,Sa Di Ni Việt Nam đốt một nhúm hương trên đầu).Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni Trung Hoa đốt 9 nhúm hương trên đầu(Tỳ Kheo,Tỳ Kheo Ni Việt Nam 3 nhúm hương).

443. Ở những nơi nào không có Tam Sư, Thất Chứng, vô lẽ người muốn xuất gia cũng không được.

- Nếu có 5 vị sư cũng có thể tổ chức Đại Giới Đàn trong trường hợp không có Tam Sư Thất Chứng.

- Trong lịch sử Tích Lan,Miến Điện,khi không đầy đủ 5 vị sư họ phải đến các nước láng giềng thỉnh sư trao giới.

- Tại Cao Mên sau thời Pol Pot,không có sư để truyền giới,chư Tăng người Việt gốc Mên phải lên Nam Vang làm lễ truyền giới.

444. Sau giới đàn rồi còn phân biệt Tỳ Kheo Thủ, Tỳ Kheo Vĩ, Sa Di Thủ, Sa Di Vĩ có quá hình tướng, giai cấp qua không?

- Tỳ Kheo Thủ,Vĩ;Sa Di Thủ,Vĩ là chánh đại diện,phó đại diện của hàng giới tử thọ Tỳ Kheo,Sa Di làm lễ tác bạch dưới sự hướng dẫn của Dẫn Lễ Sư.Chức vụ này có tính cách tạm thời,xong buổi lễ không còn nữa.

- Địa vị,thứ bậc tự viện là để điều hành tự viện,thiền viện một cách nghiêm chỉnh chứ không phải hàng rào ngăn cách Tăng Ni.

445. Vai trò của âm nhạc trong nghi lễ Phật Giáo, trong nếp sống tôn giáo.

- Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong bình diện hành trì Phật đạo từ trước đến nay với cách đọc kinh, âm điệu tụng kinh ở các nước theo Phật Giáo Nam Tông.

- Tại các nước theo Phật Giáo Nam Tông âm nhạc được sử dụng trong nghi lễ Phật Giáo,nhưng những người chơi âm nhạc đều là hàng cư sĩ.

- Qua thời gian,chư Tăng Ni,Phật tử theo Phật Giáo Bắc Tông đã sử dụng ấn,tụng,chuông mõ,tang,khánh trong nghi lễ Phật Giáo.Gia đình Phật tử sử dụng âm nhạc,ca hát trong chương trình lễ Phật.

- Tại Nhật Bản,những vị Tăng hoằng truyền Tịnh Độ, đã sử dụng âm nhạc xem như là một phương thức hoằng hoá.Cây sáo Shakuhachi Nhật Bản thổi lên tiếng nhạc liên hệ đến thiền,có ảnh hưởng rất lớn với hành giả thiền tập.

- Phật Giáo khi truyền đến Trung Quốc đã sử dụng âm nhạc truyền thống để hoằng truyền.

- Phật Giáo Tây Tạng dùng kèn,trống,tù và,xập xõa trong nghi lễ.

- Nói tóm lại âm nhạc rất quan trọng trong việc quản bá giáo pháp Phật,cần được khai triển,phát huy.

446. Vai trò thi ca trong văn học Phật Giáo.

- Cũng như âm nhạc,thi ca đóng vai trò quan trọng trong nhiệm vụ hoằng truyền.Hàng thi sĩ tài danh Ấn Độ dùng tiếng Phạn sáng tác những bài thơ bất hũ để diễn đạt giáo lý Phật một cách ngắn gọn,thâm thúy và súc tích.Cao Tăng Trung Hoa,Việt Nam,Nhật Bản cũng dùng thi phú diễn đạt công năng tu chứng và cảm xúc của mình.Tập thơ bằng tiếng Anh The Light of Asia,gây xúc động lớn cho độc giả Mỹ.

- Thi phú Phật Giáo là một phương tiện thâm thúy,tế nhị cần được nâng đỡ và phát triển.

447. Vai trò hội họa, điêu khắc, kiến trúc trong mỹ nghệ Phật Giáo

- Những bức bích họa nổi danh tại Ajanta, Ấn Độ,tại động Đôn Hoàng, động Vân Cương, động Long Môn,Trung Quốc;những pho tượng Phật tại A Phú Hãn,ngôi tượng Phật Thích Ca tại chùa Từ Đàm,tại Vũng Tàu,tại Phật Học Viện Nha Trang;những ngôi bảo tháp tại Sanchi, Ấn Độ,tại Trung Quốc,Tây Tạng,Nhật Bản;những tu viện lớn như Nalanda, Ấn Độ,Drepung,Sera,Ganden,Tây Tạng,những ngôi chùa như Thiếu Lâm Tự,Ngũ Đài Sơn,Phổ Đà Tự Trung Quốc là những chứng tích huy hoàng của ngành mỹ nghệ Phật Giáo.

- Mỹ nghệ Phật Giáo là sản phẩm của cảm xúc thành tín, được thể hiện trong hội họa, điêu khắc,kiến trúc ở những nước theo Phật Giáo.

- Tại Đại Hàn trên 70%gia tài mỹ nghệ quốc gia là gia tài mỹ nghệ Phật Giáo.

448. Vai tró kịch nghệ, trình diễn, phim ảnh trong văn học Phật Giáo.

- Hình thức bắt ấn với ý nghĩa thâm thúy,trên hình thức cũng là một loại kịch nghệ,dùng để diễn đạt mật nghĩa mà lời nói không thể diễn tả được.

- Tại các nước theo Mật Giáo,nhảy múa biểu hiện sự hòa đồng giữa tâm và cảnh. Điệu múa vòng tròn của Tây Tạng trong đó những người tham dự,gồm chư Tăng nhảy lên cao,vặn mình giữa khoảng không,thể hiện sự linh động của thần linh,hòa đồng thần linh với mức độ chứng đắc của người nhảy múa.

- Tại Nhật Bản điệu nhảy Gigaku mang mặt nạ phát xuất từ Trung Quốc đã truyền đến Nhật Bản, được quốc vương Nhật bảo trợ,làm phương tiện hoằng hóa đạo pháp giữa nhân gian.

- Những bản kịch Noh cổ đại diễn tả thần Hộ pháp chiến đấu chống ma quỷ hãm hại Phật Giáo.

- Vào thời Trung Cổ,chùa Phật Giáo bảo trợ các gánh hát,diễn tả chuyện tiền thân Phật.Về sau những đoàn hát Kabuki,Bunraku lấy đề tài Phật Giáo làm nội dung diễn xuất,chẳng hạn như trình diễn lòng tư bi vô hạn của Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh.

- Tại Thái Lan với những điệu múa nổi tiếng,dùng để diễn đạt tư tưởng Phật,trình diễn những chuyện tiền thân Phật trên sân khấu.

- Trà đạo tại Nhật là một hình thức trình diễn nói lên tinh thần thiền giản dị mà thâm thúy, đơn sơ mà súc tích,khiêm cung mà tế nhị.Người tham dự cảm thấy mình đi sâu vào thế giới tỉnh thức,mọi cử động,mọi giáng điệu đều có ý nghĩa.

- Trên phương diện phim ảnh,một phương tiện hoằng pháp rất hữu hiệu,Phật Giáo không phát triển mấy.

449. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Ấn độ Giáo như thế nào?

- Mặc dầu sống trong bối cảnh văn hóa Ấn Độ, đức Phật và giáo lý của Ngài phủ nhận quan điểm Ấn Độ Giáo đương thời.

- Đức Phật phủ nhận hệ thống giai cấp xã hội Ấn Độ.

- Đức Phật phủ nhận quyền tối cao của giai cấp Bà La Môn.

- Đức Phật phủ nhận quyền năng của thánh kinh Vệ Đà.

- Đức Phật phủ nhận thuyết linh hồn bất tử của Ấn Độ Giáo.

- Đức Phật giảng dạy đạo lý Nghiệp(Karma),vạn pháp(Dharma),Luân Hồi,Vô Thường,Vô Ngã hoàn toàn khác hẳn chủ trương của 6 học phái Ấn Độ lúc bấy giờ.

450. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Kỳ Na Giáo (Jainism) như thế nào?

- Kỳ Na Giáo là một giáo phái lớn trong thời Phật còn tại thế.Giống như Phật Giáo,Kỳ Na Giáo chống lại độc quyền của Bà la Môn,chống lại độc quyền của Kinh điển Vệ Đà.

- Người sáng lập ra Kỳ Na Giáo là Nataputta Vardhamana(599-527 tkn),tại Vaishali,nơi Đại Hội Kết Tập Kinh điển II được tổ chức.Theo truyền thuyết,Vardhamana,cũng giống như Phật,sống trong nhung lụa,cũng lập gia đình,nhưng từ bỏ tất cả,xuất gia tầm đạo năm 30 tuổi(Phật xuất gia tầm đạo năm 29 tuổi),theo Goshala phái Ajivakas,chuyên tu khổ hạnh,nhưng sau đó rời bỏ Goshala,sống đời đạo sĩ theo hạnh đầu đà,không mặc áo quần,tu hành đắc đạo nên có danh xưng là Jina,Kẻ Chiến Thắng và Mahàvira,vị Đại Anh Hùng.

- Kỳ Na Giáo phát triển truyền thống tu khổ hạnh.

- Đức Phật chủ trương thuyết Trung Đạo và nếp sống trung đạo.

- Kỳ Na Giáo chủ trương linh hồn bất tử,khác với Phật Giáo chủ trương vô ngã.

- Kỳ Na Giáo phủ nhận sự hiện hữu của thần linh, đồng thời cho rằng nếp sống đạo đức thường tình không giúp gì cho việc cải thiện số mệnh con người.Giáo lý Phật trái lại xem nếp sống đạo đức là nền tảng trong lộ trình giải thoát.

451. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Khổng Giáo như thế nào?

- Đạo Phật đi đến đâu là hội nhập vào văn hoá nước ấy,làm phong phú và chuyển hoá nền văn hoá ấy.

- Khi Phật Giáo đến Trung Quốc cũng vậy.Lúc đầu gặp nhiều khó khăn,vì văn hóa sai khác hoàn toàn.Trung Quốc đã có một nền văn hoá xưa,dựa vào tinh thần Khổng Giáo và Lão Giáo.Ngôn ngữ văn tự cũng rất sai biệt.Tiếng Sanscrit khúc chiết,văn phạm rõ ràng,trong khi tiếng Trung Hoa ngắn gọn,văn phạm không quy hoạch,quan niệm trọng nam khinh nữ,quan niệm hiếu đễ,quan niệm về thời gian và không gian.

- Trong giai đoạn đầu các cao tăng Phật Giáo từ Ấn Độ,Trung Á đến hoằng truyền đạo phải dùng từ ngữ Khổng Giáo,Lão Giáo để diễn dịch tư tưởng Phật Giáo:quan niệm về giới luật của Phật Giáo hòa đồng với quan điểm hiếu nghĩa của Khổng Giáo.Về liên hệ gia đình,giữa chồng và vợ,quan điểm Phật Giáo là người chồng phải bảo vệ vợ,yểm trợ vợ,người vợ phải ủng hộ,an ủi chồng,khi đến Trung Quốc từ ngữ đổi thay,trong gia đình chồng là chủ,vợ có bổn phận vâng lời, những ngôn từ nói về sự âu yếm giữa chồng vợ như hôn hít trong văn học Sanscrit không xuất hiện trong từ ngữ Phật Giáo Trung Hoa.Những cụm từ cũng biến đổi để cho người Trung Hoa dễ hiểu,nên các nhà Phật học đã so sánh Ngũ Giới của nhà Phật như Ngũ Thường của Khổng Giáo,Ngũ Đại của Phật Giáo như Ngũ Hành của Khổng Giáo v.v…Nhưng sau một thời gian,khi Kinh sách Phật đã được dịch ra tiếng Trung Hoa,chư Tăng Ni Phật tử Trung Hoa đã thâm tín Phật Lý,những danh từ vay mượn của Khổng Giáo chấm dứt.Phật Giáo hoàn toàn chinh phục Trung Quốc, để đến đời Tống(thế kỷ thứ 11 đến 13),hàng Nho Gia đã vay mượn tư tưởng Phật Giáo để phong phú hóa tư tưởng Khổng Giáo trong Lý Học hay Tân Khổng Giáo.

452. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Lão Giáo như thế nào?

- Khi Phật Giáo truyền vào Trung Quốc không những bị Nho Gia chống đối mà còn bị Đạo Gia kích bác.

- Vào thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ tư,Lão Giáo phục hưng tại Trung Quốc,cũng chính là lúc Phật Giáo bắt đầu bành trướng tại Trung Quốc.Quan niệm thần tiên,khái niệm thiên nhiên của Lão Giáo dễ cho môn đồ chấp nhận giáo lý Phật.Lão Giáo còn nói Phật Giáo là một hệ phái của Lão Giáo. Đối với các bậc cao tăng Phật Giáo điều đó không quan trọng,vì mục tiêu của Phật Giáo là giác ngộ,giải thoát,nên nếu nói Phật Giáo là một giáo phái của Lão Giáo mà có thể đem giải thoát giác ngộ đến cho người Hán,thì cũng không có gì trở ngại.

- Tín đồ Lão Giáo thấy quan niệm giải thoát của Phật Giáo rất hấp dẫn.Vào giữa thế kỷ thứ hai tín đồ Lão Giáo cho rằng Lão Tử biến mất khỏi cảnh đời nhân thế một cách bí mật, đã trở thành Phật và bắt đầu hoá độ nhân gian.

- Danh từ Đạo trong Lão Giáo khá phù hợp với chữ Giác(Bodhi)hay Pháp(Dharma)của Phật Giáo,vì vậy trở thành danh từ Phật học“Đạo Pháp”.Bậc A La Hán của Phật Giáo trở thành Chân Nhân của Lão Giáo,Niết Bàn trở thành Vô Vị.

- Sự vay mượn từ ngữ Lão Giáo để cắt nghĩa giáo lý Phật chấm dứt vào thế kỷ thứ năm,thứ sáu. Đến lượt Lão Giáo vay mượn Phật Giáo.Hàng Đạo Gia cũng chia kinh điển của họ làm ba(Tam Tạng Kinh).

- Thiền phái Trung Hoa chịu và có ảnh hưởng đối với Lão Giáo.Vào thế kỷ thứ 11,vị thần chiến tranh của Lão Giáo,Quan Thánh,trở thành vị Hộ Pháp của Phật Giáo mà hiện nay ta thấy trong một số chùa Trung Hoa và Việt Nam có thờ.

- Với tinh thần dung hợp Phật Giáo chủ trương Tam Giáo Đồng Nguyên,làm nền tảng sống chung hoà bình,không kỳ thị,không cố chấp,không cực đoan.

453. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Thần Đạo tại Nhật Bản như thế nào?

- Thần đạo(Shinto)là một tôn giáo cổ xưa nhất của các truyền thống tôn giáo Nhật Bản.Thần Đạo không có vị sáng lập nên ta không thể biết niên đại hay nguồn gốc của Thần Đạo,nhưng những huyền thoại và nghi lễ xuất hiện vào thế kỷ thứ 3 trước kỳ nguyên.

- Thần Đạo tiếng Nhật gọi là Kami-no Michi.Kami có nghĩa là Các Đấng Bề Trên,không có danh hiệu,cho đến khi Phật Giáo truyền đến Nhật Bản với danh hiệu Phật Đạo(Butsudo)vào thế kỷ thứ 6 thì đạo của Kami mới có danh hiệu là Thần Đạo(Shinto)phát xuất từ tiếng Trung Hoa Shen-dao (Thiên Đạo).Phật Giáo liên hệ với Thần Đạo từ lúc truyền đến Nhật Bản.

- Vào những thế kỷ đầu,từ giữa thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 8,Phật Giáo được sự bảo trợ của quân vương,trong khi các điện thờ Thần Đạo cũng được phát triển,lên đến 3,000 trong số này một phần tư được quốc vương bảo trợ.Dưới thời Kasuga Taisha ở Nara do dòng họ Fugiwara sáng lập,Thần Đạo có chân đứng vững vàng và chính tại Nara sự tiếp xúc giữa Phật Giáo và Thần Đạo bắt đầu.

454. Xin cho biết diễn trình chuyển hóa Thần Đạo của Phật Giáo Nhật Bản như thế nào?

- Năm 735 Nara bị nạn(bệnh) đậu mùa,vua cho đúc một tượng Phật ngồi cao 48 feet(Đại Phật),một ngôi tượng bằng đồng lớn nhất thế giới,hiện nay được thờ tại chùa Todaiji(Đông Đại Tự)một ngôi chùa bằng gỗ lớn nhất thế giới.

- Đền Ise, đền thờ nữ thần mặt trời cầu ơn tế độ của Đấng Amaterasu.Vua nằm mộng thấy đấng Amaterasu hòa hiện trong hình hài của Phật Vairocara(Tỳ Lô Giá Na),một trong 5 vị Phật Mật Giáo. Đức Tỳ Lô Giá Na hào quang chiếu sáng như mặt trời,có khác gì Chánh Thần của Thần Đạo.Phật Giáo và Thần Đạo đã dung hợp trong khái niệm này.

- Mười lăm năm sau,biểu tượng thần Chiến Tranh Hachiman của Thần Đạo được rước đến chùa Todaiji để đảnh lễ Phật Tỳ Lô Giá Na,mang theo tịnh tài để hoàn thành ngôi chùa Todaiji vĩ đại.Phật Giáo đã biến Thần Hachiman thành Thần Hộ Pháp của Phật Giáo,hiện nay được thờ trong khuôn viên chùa Todaiji.

- Trong vài thế kỷ kế tiếp các nhà lãnh đạo Phật Giáo Nhật Bản cho thần thánh của Thần Đạo thực sự là các vị Bồ Tát hoá thân,Phật Giáo là giáo lý uyên nguyên của Thần Đạo.

- Vào thế kỷ thứ 13 và 14,một số hệ phái Phật Giáo hòa đồng với võ sĩ đạo(Bushido)dung hợp tinh thần Phật Giáo với tinh thần quốc gia Thần Đạo.Thời đại Shogun suy thoái kéo theo sự suy thoái của Thần Đạo vào thế kỷ thứ 15,16.Nhưng vào đầu thế kỷ thứ 17,Thần Đạo được phục hưng,cho rằng chư Phật là hiện thân của Kami và Hoàng Đế là con cháu Nữ Thần Mặt Trời.

- Hiện nay tại Nhật Bản trong hàng nghìn khuôn viên chùa,có đền thờ Thần Đạo.Trong khuôn viên Kasuga Taisha rộng lớn của Thần Đạo,những con nai thong thả gặm cỏ,như nhắc lại cảnh tượng rừng Nai,nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên tại Ba La Nại.

455. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Hồi Giáo.

- Iaran,Afghanistan,Pakistan,Kashmir,Trung Á,Tân Cương,Nam Dương,Mã Lai Á nguyên là những trung tâm Phật Giáo,có nơi lấy Phật Giáo làm quốc giáo,nhưng từ khi Hồi Giáo tiến chiếm những nước này,Phật Giáo gần như bị tiêu diệt,mặc dầu hiện nay tại Pakistan,Kashmir,Bangladesh,Nam Dương,Mã Lai cũng còn có những ngôi chùa Phật Giáo,có một số dân chúng còn đến chùa làm lễ,nghe pháp.

456. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo.

- Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo kéo dài từ nhiều thế kỷ. Ông J.Kennedy viết trong đặc san Journal of the Royal Asiatic Society năm 1902 cho rằng học thuyết của Sasilides sinh sống tại Alexandria là học thuyết Gnostics Phật Giáo.Nếp sống tự viện của phái Essence mà chúa Jesus Christ là một môn đồ,gần guĩ với nếp sống tự viện Phật Giáo hơn là Do Thái Giáo.

457. Gần đây các nhà học giả Cơ Đốc cho biết chúa Jesus có thời đến Ấn Độ học Phật Pháp?

- Giáo sư Holger Dersten,Khoa Thần Học và Sư Phạm, Đại Học Freiburg, Đức Quốc,chuyên viên nghiên cứu lịch sử tôn giáo,trong những cuốn sách chúa Jesus sống tại Ấn Độ(Jesus Lived in India),Thông đồng Jesus(The Jesus Conspiracy), Đức Jesus Nguyên Thỉ(The Original Jesus)chứng minh chúa Jesus trong thời niên thiếu đã đi theo con đường Tơ Lụa đến Ấn Độ, đã theo học Phật Giáo,sau đó đã trở lại Ấn Độ và qua đời tại Kashmir.

- Giáo lý của chúa Jesus truyền dạy 2,3 năm là giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thỉ.Câu chuyện đứa con lãng du trong Thánh Kinh và trong Kinh Pháp Hoa có nhiều điểm tương đồng.Ngoài ra tập quán lần tràng hạt,kính lễ Thánh Cốt(Xá Lợi),thuyết luân hồi,chưa bị xem là ngoại giáo thời Cơ Đốc Nguyên Thỉ,thuyết Tam Thân v.v…là những liên hệ quan trọng giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo lúc ban sơ.

458. Theo lịch sử Cơ Đốc Giáo thì chúa bị đóng đinh trên cây thánh gíá, làm sao trở về Ấn Độ và mất tại Kashmir?

- Giáo sư Dersten nóí Ngài được môn đồ Essence cứu sống sau khi bị đóng đinh trên cây Thánh Giá và đã hướng dẫn Ngài trở về Ấn Độ sống chuỗi ngày còn lại,rồi qua đời tại Kashmir.

459. Câu chuyện về Barlaam và Josaphat viết trong thánh điển Martyrologium không khác gì chuyện Thái Tử Tát Đạt Đa. Xin cho biết sự liên hệ như thế nào?

- Thánh Điển viết thân phụ của Josaphat không muốn con trở thành đạo sĩ nên cung cấp cho Josaphat một đời sống đế vương,nhung lụa,nhưng sau khi nghe đạo sĩ Cơ Đốc Barlaam giảng dạy về chân lý của sự sống,Josaphat bỏ nhà,theo đạo sĩ Barlaam học đạo.Sau khi qua đời hai vị này được phong thánh.

- Câu chuyện này đã được diễn tiến qua một lộ trình khá quanh co,khúc khuỷu,từ nguyên bản Sanscrit đến Pahlevi,Hy Lạp,Latin,rồi đến tiếng Pháp,tiếng Anh,tiếng Thụy Điển.

- Danh xưng Josaphat phát xuất từ chữ Bdhisattya(Bồ Tát),người Ả Rập phiên âm Dodasaph,người Hi Lạp dịch thành Ioasaph,người Tây Phương biến thành Josaphat và khi danh xưng Josaphat được thành hình thì dấu hiệu Bodhisatva đã hoàn toàn biến mất để Josaphat trở thành một vị thánh Cơ Đốc.

460. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo dó được liên tục và êm đẹp qua thời gian?

- Sự giao dịch giữa Ấn Độ và Âu Châu bị gián đoạn vì cuộc xâm lăng của quân Goths.Thành La Mã bị thất thủ năm 410.Số phận La Mã không khác gì số phận Kushan một trăm năm sau khi Bạch Hung tiến chiếm Ấn Độ,triệt tiêu tự viện ở Gandhàra.

- Mãi cho đến thế kỷ thứ 13 khi Giáo Hoàng Innocent IV được tin một số tín đồ Cơ Đốc sống chung với người Mông Cổ,gửi William xứ Tubuck thuộc phái Franciscan đến triều đình Đại Hãn thuyết phục Mông Cổ liên minh chống Hồi Giáo,thấy tín đồ Cơ Đốc phục vụ triều đình Đại Hãn thuộc phái Nestorians, đồng thời cũng thấy tín đồ Hồi Giáo,Lạt Ma Tây Tạng trong cung đình Mông Cổ, ông muốn thuyết phục tín đồ các tôn giáo khác theo Cơ Đốc Giáo nhưng không thành công.

- Marco Plo người Ý trong thời điểm này cũng đã đến Ấn Độ,Trung Quốc,xem tín đồ các tôn giáo khác mê tín,dị đoan,nhưng ông đã viết về Phật Thích Ca như sau: “Nếu Sagamoni Borca(cách phát âm Phật Thích Ca Mâu Ni của người Mông Cổ) được rửa tội, ông ta có thể trở thành một đại thánh của Chúa.”Rất tiếc Phật Thích Ca không rửa tội,vì vậy mặc dầu nếp sống của Ngài có thánh thiện mấy chăng nữa, được người đời sùng bái mấy chăng nữa,cũng chỉ là hàng tà ma,ngoại đạo.

461. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Cơ Đốc giáo sau thời Marco Polo như thế nào?

- Trong thời kỳ thiết lập chế độ thuộc sau ngày Vasco da Gama đến Ấn Độ năm 1497,các nhà truyền giáo Âu Châu đã đến Trung Quốc,Nhật Bản,Sri Lanka, Đông Dương v.v…đem văn hóa Âu Tây,văn minh Cơ Đốc đến các nước thuộc địa ,xem tín ngưỡng,văn hoá địa phương là bán khai ,mọi rợ.Cố đạo De Lubac và các nhà truyền giáo Tây Phương đã diễn tả Phật Giáo là“một tôn giáo ma quỷ,một bệnh dịch hạch,một đống trùng do những ma quỷ thành lập…”Noel Alexander trong cuốn Apology of the Dominican Missionaries of China,xuất bản năm 1,700 đã diễn tả giáo nghĩa chơn Không của Phật Giáo như sau: “Đó là một chủ nghĩa vô thần. Đạo lý Không mà họ cho là nguyên tắc căn bản của vạn vật,là tuyệt đích,là thanh tịnh,không đầu,không đuôi,không trí tuệ,không ham muốn…Cái tuyệt đích,cái chân lý mà họ tin tưởng là hoàn toàn dửng dưng với sự thế ,là tha hóa,là sự yên tĩnh biệt lập,yếm thế.”

- Vào thế kỷ thứ 18,Voltaire,Diderot sùng bái văn minh Trung Hoa,nhưng đến giữa thế kỷ thứ 19,hình ảnh văn hóa Trung Hoa bị xuyên tạc qua những báo cáo của các phái đoàn truyền giáo tại Trung Quốc gởi về.Họ muốn được sự ủng hộ tài chánh của dân chúng cho công tác truyền đạo,nên họ đã mô tả nếp sống của người Trung Hoa với nhãn quan không mấy chân thực.Một nhà truyền giáo nói Trung Quốc có 4 tà giáo, đó là Đạo Giáo,Phật Giáo, Đạo Thờ Cúng Ông Bà và Đạo Nghiện Thuốc Phiện!

462. Phải chăng Columbus là nguời đầu tiên khám phá ra Tân Thế giới (Mỹ Châu)?

- Châu Mỹ gồm hai tảng lục địa Bắc Mỹ và Nam Mỹ, được nối liền bởi dãy núi ngầm Panama dưới lòng biển vào cuối thời kỳ thứ ba Cổ Thạch.Phía cực Bắc của Bắc Mỹ cách biệt Châu Á bởi Eo Biển Bering.Nhờ Eo Biển này mà người gốc Châu Á,người Eskimo, đã đến Mỹ Châu cách đây trên 10,000 năm.

- Năm 1488 nhà thám hiểm Bồ Đào Nha(Portugal)Bartholomeu Diaz đi tàu buồm dọc theo duyên hải miền Tây Châu Phi,quanh Mũi Good Hope vào Ấn Độ Dương,rồi trở về Lisbon,báo cáo đã khám phá đường biển đi Ấn Độ.Hai năm sau Henricus Matellus,nhà địa dư học làm việc tại Ý,sử dụng khám phá của Diaz,vẽ bản đồ thế giới,cho rằng người Tây Phương có thể đến Viễn Đông(Far East)bằng đường thủy theo hướng Tây của Đại Tây Dương.

- Năm 1492 Nữ Hoàng Isabella nước Tây Ban Nha(Spain)bảo trợ cho Cristoforo Colombo(Columbus)trong 4 chuyến đi bằng tàu thủy từ năm 1492 đến 1503 để thám hiểm những hòn đảo West Indies và vùng duyên hải Trung Mỹ.Trong khi đó Vasco De Gama,theo chân Bartholomeu Diaz thám hiểm Mũi Goog Hope.

- Khi Columbus đổ bộ lên Bahamas tưởng rằng mình đã đến Ấn Độ,nên gọi dân xứ này là dân Ấn(Indian),nhưng sau để phân biệt với dân bản xứ vùng Tân Thế Giới với dân Ấn Độ tại Ấn Độ,họ gọi dân bản xứ là dân Ấn Độ Da Đỏ(Red Indians).

- Trước Columbus gần 1,000 năm,một phái đoàn Phật Giáo Trung Hoa do đại sư Hwui Shan hướng dẫn,từ Kipin(Kabul)thủ đô A Phú Hãn bây giờ,năm 458 đã đến nước Fu-Sang (Mexico)mang theo kinh sách,hình tượng Phật,hoằng truyền Phật pháp tại Mỹ Châu.

463. Bằng chứng gì để nói đại sư Hui Shan đến Mỹ Châu năm 458?]

- Năm 1761,M.De Guignes,một chuyên viên người Pháp,nghiên cứu văn học Trung Hoa,làm việc cho Acedemy of Inscriptions and Belles Lettres khám phá ra tài liệu trong văn khố Trung Hoa cho biết một tì kheo Trung Hoa tên là Hwui Shan đã trình báo cáo lên vua cuộc hành trình mà vị tỳ kheo ấy và 4 vị sư khác đã đến một quốc gia tên là Fu-Sang năm 458.Fu-Sang theo M.de Guignes chính là Mễ Tây Cơ.

- Tiến sĩ Karl Friedrich Neumann thuộc trường Đại Học Munich cũng đồng quan điểm với M.de Guignes.

- Năm 1875,Charles G.Leland,chuyên viên nghiên cứu dân ca Hoa Kỳ,xuất bản cuốn Fu-Sang on the Discovery of America by Chinese Buddhist Priest in the fifth Century,khẳng định quan điển của M.de Guignes.

- Năm 1885 Edward Payson Vining trong cuốn sách dày 800 trang tên là An Inglorious Columbus or Evidence that Hwui Shan and a Party of Buddhist Monks from Afghanistan Discovered America in the Fifth Century A.D.tán đồng quan điểm của M.de Guignes và Charles G.Leland.Trong cuốn sách dày này Vining đã trích dẫn tài liệu báo cáo của Tỳ Kheo Hwui Shan với chi tiết về cuộc hành trình của những vị sư Trung Hoa đến Tân Thế Giới,nếp sống cá nhân,nếp sống gia đình,tổ chức xã hội,tín ngưỡng,tập quán của dân bản xứ.

- Donald A.Mackenzie trong cuốn Pre-Columbian America,Myths and Legends trình bày chi tiết phong tục,tập quán,tín ngưỡng của dân bản xứ trước khi Columbus đặt chân lên Tân Thế Giới,nhấn mạnh ảnh hưởng Phật Giáo trong lễ nghi,phương cách xử thế,phương thức truyền đạo.

- Vining đi xa hơn nữa cho rằng địa danh Guatamala là do chữ Guatama và chữ Mala(theo tiếng Sanscrit có nghĩa là tràng hạt) ghép lại.Danh từ Maya,một dân tộc có nền văn minh cao tại Mexico và Trung Mỹ,phát xuất từ tên hoàng hậu Maya.Henrietta Mertz,nhà khảo cổ,cho rằng danh hiệu Tỳ Kheo Hwui Shan để lại trên những đọan đường ngài đi qua:Mõm Huineme(Hui rút từ chữ Hwui)tại California,Sacaton(rút từ chữ Sakya),các thị trấn Mễ Tây Cơ mang tên Hui(Hwui) như Wicam(đọc là We Sham),Huetama,Huichol,Zacatlan,Zacatecas v.v…

464. Tại Bắc Mỹ có di tích gì làm bằng chứng Phật Giáo đã đến Tân Thế Giới trước Columbus.

- Có hai khám phá gần đây.Khám phá thứ nhất là một tảng đá khắc chữ Vạn,một biểu tượng Phật Giáo và biểu tượng của Người Dân Da Đỏ, được tìm thấy tại Lakeside Mountains gần thung lũng San Jacinto,California năm 1914.Khám phá thứ hai là những hòn đá nặng từ 150 lbs đến 700 lbs tìm thấy dưới đáy biển tại Palos Verdes,California mà theo ông William Clewlow,giám đốc ngành khảo cổ thuộc Đại Học California,Los Angeles(UCLA),thì những hòn đá này có thể đã được người Trung Hoa dùng làm neo tàu cách đây từ 500 đến 1,000 năm.

465. Trước khi Columbus đến Tân Thế Giới, dân số và đời sống của dân bản xứ như thế nào?

- Cuối thế kỷ thứ 15,dân số thế giới vào khoảng 450 triệu.Trung Quốc và Ấn Độ mỗi nước 100 triệu. Âu Châu bị bệnh dịch hoành hành chỉ còn 80 triệu.Tại Châu Mỹ dân cư thưa thớt,trừ quốc gia Aztecs có 5 triệu và 3 triệu trong quốc độ Incas .

- Vào cuối thế kỷ thứ 15 các sắc dân Incas,Mayas,Aztecs ở Châu Mỹ bận rộn xây dựng nếp sống văn hoá,tín ngưỡng thờ cúng thần linh,thờ cúng ông bà,thì ở Phương Tây Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo đang tranh giành ảnh hưởng vùng Địa Trung Hải.

- Mỹ Châu thời tiền Columbus không những do các sắc dân Á Châu đến sinh sống cách đây trên 10,000 năm mà văn minh Châu Á, đặc biệt văn minh Phật Giáo đã có ảnh hưởng rất mạnh với các nền văn hoá cổ Aztecs,Toltec,Maya và Incas.

- Donald A.Mackenzie diễn tả phương thức truyền đạo của hàng Tăng Sĩ dân bản xứ với lời lẽ sau: “Đệ tử của Quetzalcoaltl,theo huấn thị của vị giáo chủ, đi khắp nơi giảng truyền đạo pháp…”Lời dặn dò này làm cho chúng ta nhớ đến lời Phật huấn thị cho 60 đệ tử đầu tiên của Ngài trước khi lên đường hoằng đạo.

466. Khi đến Tân Thế Giới, Columbus làm việc gì đầu tiên và diễn trình Cơ Đốc hóa dân bản xứ như thế nào?

- Khi Columbus đổ bộ lên Bahamas, ông không cần biết dân gọi hòn đảo đó tên gì, ông đặt tên cho nó là San Salvador,hòn đảo của Chúa Cứu Rỗi.Thủ đô Antiago của Chile là tên của vị Thánh Tổ của Tây Ban Nha .

- Năm 1600 tại vùng Tây Ban Nha xâm chiếm có khoảng 5,500 linh mục,phần nhiều thuộc dòng Tên và dòng Dominican đến truyền đạo.Chính quyền cai trị địa phương đập phá hình tượng Thần Linh lớn nhỏ,bắt giam người bản xứ còn thờ cúng thần linh.Khi chế độ thuộc địa cáo chung hầu hết công dân Nam,Trung Nam Mỹ đều là tín hữu của nhà thờ.

467. Đối với các nước Á Châu, các chính quyền thuộc địa đã đối xử như thế nào với tín ngưỡng cổ truyền của dân bản xứ, xin đơn cử một thí dụ.

- Khi đạo quân Bồ Đào Nha đến xâm chiếm Tích Lan năm 1501,mang theo các giáo sĩ Thiên Chúa với huấn thị:“Trước hết dùng hình thức giảng đạo để chuyển hoá,nếu không thành công thì dùng gươm dao”.Chính quyền Bồ Đào Nha không cho phép dân Sinhalese thờ cúng đạo cổ truyền trong tư gia hay nơi công cộng.

- Hòa Lan thay thế Bồ Đào Nha cai trị Tích Lan.Việc làm đầu tiên của họ là diệt trừ Thiên Chúa La Mã.Vua Tích Lan tại Kandy cho giáo sĩ Thiên Chúa tị nạn tại Kandy.Sau khi tiêu diệt xong Thiên Chúa La Mã,chính phù Hòa Lan nhắm đến Phật Giáo,ra đạo luật cấm những người không rửa tội theo Tin Lành,không được làm chủ tài sản đất đai tại Tích Lan.

- Anh Quốc thay thế Hòa Lan cai trị Tích Lan với chính sách tương đối cởi mở ,tôn trọng quyền tín ngưỡng của dân.

468. Vào giữa thế kỷ thứ 20 Giáo hội Thiên Chúa La Mã thay đổi lập trưòng với các tôn giáo khác?

- Giáo Hội Thiên Chúa La Mã trong ngũ thập niên qua đã có những cải tiến đáng kể:Giáo Hoàng John XXII mở rộng cửa trong Cộng Đồng Vatican II để phục hồi sinh lực Giáo Hội,nhưng Giáo Hoàng Paul VI phải gánh hậu quả nặng nề của nỗ lực canh tân này.Giáo Hoàng John Paul II trong 25 năm qua đã cố gắng tái trúc Giáo Hội cho kịp đà tiến của nhân loại, đồng thời khẳng định những giá trị đạo đức truyền thống.

- Về phương diện ngoại giao,bành trướng đức tin,Giáo Hoàng John Paul rất tích cực:Ngài đã thực hiện 102 chuyến công du ra nước ngoài,143 chuyến công du trên lãnh thổ Ý.Ngài đã tỏ lời xin lỗi dân Phi Châu vì chính sách nô lệ,xin lỗi thế giới về những hành hoạt trước đây,xin lỗi dân Do Thái,thăm viếng nứơc Hồi Giáo tỏ vẻ hòa hoãn,liên hệ với các Giáo Phái Tin Lành và Chính Thống Giáo.Ngài đã cho phát động thành lập Ngày Thanh Niên Thế Giới:300,000 thanh niên Thiên Chúa đã quy tụ tại Santiago de Compostela ở Tây Ban Nha năm 1989,một triệu tại Azestochowa, Ba Lan năm 1991,ba triệu tại Manila,Phi Luật Tân năm 1995,một triệu tại Paris năm 1997,hai triệu tại Rome năm 2000 đem lại niềm tin cho lớp thanh niên thế giới.

469. Hàng giáo phẩm Thiên Chúa La Mã và các giáo phái Cơ Đốc nhận định về Giáo Hoàng John Paul II thế nào?

- Giáo Chủ Chánh Thống Giáo tại Moscow cho Giáo Hoàng thiên nặng truyền bá hơn là tìm tựa điểm chung cho toàn thể Cơ Đốc Giáo .

- Giáo Hoàng đã tước bỏ vai trò truyền thống quan trọng của các dòng Tên,Dominican,Franciscan và thay thế bằng Đoàn Quân Chúa(Legion of Christ,Opus Dei)và những tổ chức tôn giáo bảo thủ.

- Giáo Hoàng hạn chế quyền hạn hay tẫn xuất những nhà thần học tiến bộ.

- Theo Tổng Giám Mục Kung,Giáo Hoàng trên phương diện đối ngoại cổ võ nhân quyền,nhưng đối nội lại hạn chế quyền hạn của các nhà thần học,không cho phụ nữ làm Linh Mục.Giáo Hoàng chủ trương giúp đỡ dân nghèo,nhưng nhất quyết chống uống thuốc ngừa thai.Giáo Hoàng chủ trương đối thoại với các tôn giáo nhưng không đặt họ ngang hàng v.v…

- Hiện nay Tòa Thánh không có Văn Phòng Dị Giáo,nhưng lại có cơ quan đặc trách truyền bá giáo lý do Hồng Y Ratzinger cầm đầu được xem như là cảnh sát viên tôn giáo.

- Theo Tổng Giám Mục Kung quyền hành Giáo Hội tập trung biến Giáo Hội thành “Ngục tù Trung Cổ”,dựa vào chủ nghĩa tôn thờ cá nhân.

470. Các nhà truyền giáo Cơ Đốc ngoài việc tryền giáo có đem lại lợi ích gì cho các quốc gia họ đến?

- Tại Việt Nam họ đã dùng mẫu tự Latin để làm chữ quốc ngữ.

- Tại Đại Hàn họ đã cải cách lối viết chữ Đại Hàn cho được phổ thông hơn.

- Tại các bộ lạc họ đã sáng chế nhiều kiểu viết cho các ngôn ngữ của các sắc tộc trên thế giới.

- Các nhà trí thức,các nhà khảo cổ Tây Phương đã “khám phá” Angkor Wat,Angkor Thom, “khám phá”gia tài văn học Sanscrit,giúp phục hưng Phật Giáo tại Tích Lan v.v…

471. Sau biến cố 9/11/2001 đã có sự xích lại gần giữa Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo?

- Nỗ lực tìm hiểu nhau, để thông cảm lẫn nhau giữa Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo được xúc tiến sau vụ 9/11/2001.Gần đây nhất tại Chủng Viện Thần Học Fuller(Fuller Theological Seminary) tại Passadena,với sự trợ giúp một triệu đôla của Bộ Tư Pháp, đang xúc tiến một dự án nhằm bắt nhịp cầu thông cảm với các nhà lãnh đạo Hồi Giáo.

- Dự án dự trù một số chương trình cụ thể: 1/ Khai triển khái niệm hoà bình giữa hai tôn giáo. 2/ Tổ chức hai khóa hội thảo mời các nhà lãnh đạo Cơ Đốc và Hồi Giáo tham dự để đào sâu vào phương thức thực hiện sống chung hòa bình. 3/ Biên soạn một số tài liệu liên quan đến hai phương diện lý thuyết và thực hành. 4/ Sau khi tham dự hai khóa hội thảo,những người tham dự có trách nhiẹm mở những lớp huấn luyện khai triển chủ trương và thực thi chủ trương.

- Nỗ lực trên đáng ca ngợi,tuy nhiên con đường thông cảm giữa ba truyền thống Do Thái,Cơ Đốc và Hồi Giáo dầu phát xuất từ Abraham,còn nhiều chông gai,trong lịch sử có nhiều trận chiến đẫm máu giữa ba giáo phái này.

- Những tín đồ Cơ Đốc đầu tiên,có thể nói là tín đồ Do Thái,vì đức Chúa Jesus cũng gốc Do Thái,nhưng bắt đầu từ thánh Paul,Cơ Đốc Giáo có một sắc thái đặc biệt,mặc dầu cùng thờ chung một Chúa?Còn tín đồ Hồi Giáo đầu tiên thì như thế nào?Nếu họ cũng thờ chung một Chúa Do Thái ,thì chắc chắn họ cũng thờ Chúa Cơ Đốc?

- Kinh Koran của Hồi Giáo đồng hóa Allah với Chúa mà Abraham đã “thần phục” đó là Islam,thần phục Chúa trong câu chuyện mà tín đồ Do Thái cũng như Cơ đốc đều biết,dựa vào Genesis 22,câu chuyện về Issac.

- Sự khác biệt về ba giáo phái phát xuất từ Abraham chỉ là sự sai khác về sắc thái hơn là đặc tính của Chúa.Vào thời Trung Cổ,tại Tây Ban Nha ba giáo phái sống hòa thuận với nhau.Học giả của ba giáo phái nói tiếng Latin, Ả Rập,Hebrew, đều cho rằng Chúa là Đấng Tạo Hóa,một ngày nào Chúa sẽ chấm dứt thế giới mà Chúa đã tạo ra. Cả ba đều quan niệm Chúa là vị phán xét ngày tận thế và yếu tố dùng để phán xét không dựa vào thành công vĩ đại trên trần thế mà là giá trị đạo đức.

472. Xin cho biết thêm về liên hệ giữa Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo La Mã qua Cộng Đồng Vatican II?

- Cộng Đồng Vatican II,trong bản Tuyên Ngôn về sự liên hệ giữa Giáo Hội và các Tôn Giáo Phi Cơ đốc,với lời mở đầu Nostra Aetate “Vào thời đại của chúng ta…”Cộng Đồng Vatican II đưa ra nhận định tổng quát về liên hệ tôn giáo,trong đó có hai điểm quan trọng:Thứ nhất Giáo hội Thiên Chúa không phủ nhận giáo lý “chân chính và thiêng liêng”của các tôn giáo khác.Thứ hai giáo hội cổ võ hàng tín hữu cần giao tiếp và hoạt động với tín đồ của các tôn giáo khác hòng phổ biến những đặc thù đạo đức và tâm linh của các truyền thống tôn giáo và giá trị của những truyền thống ấy trong xã hội và văn hoá của họ.

- Hai điểm trên rất tổng quát.Tín đồ Thiên Chúa Giáo nhận định thế nào gọi là chân chính và thiêng liêng?Nhận định thế nào về đặc thù đạo đức và tâm linh?Nhận định thế nào về giá trị văn hoá xã hội?

- Cộng Đồng Vatican II đặc biệt chú ý đến các truyền thống tôn giáo lớn như Do Thái Giáo,Hồi Giáo, Ấn Độ Giáo và Phật Giáo. Đối với Phật Giáo những lời lẽ trước đây vào thế kỷ thứ 17 trở đi của những nhà truyền đạo Thiên Chúa không còn nữa.

473. Xin cho biết những điểm sai khác căn bản giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo?

- Đối với Cơ Đốc Giáo tinh thần cứu rỗi rất quan trọng .Với Phật Giáo,đặc biệt với Tịnh Độ Tông cũng đề cập đến tinh thần cứu rỗi,nhưng không giống quan niệm cứu rỗi của Cơ Đốc Giáo.

- Chúa Cứu Rỗi của Cơ Đốc Giáo là trên tất cả, đầy đủ quyền uy và năng lực cứu độ muôn loài,ban phước giáng họa.Phật Di Đà của Phật Giáo là “tha lực” giúp người niệm Phật(tự lực) vãng sinh tịnh độ.Có tha lực mà không có tự lực vẫn không thể có kết quả tốt.

- Cơ Đốc Giáo dạy nếu ai có lòng tin ở Chúa sẽ được cứu rỗi.Tịnh Độ Tông dạy nếu ai tin vào Phật A Di Đà thì có thể vãng sinh Tịnh Độ.Mới nghe có vẻ giống nhau.Nhưng đức tin ở Phật A Di Đà phải được thể hiện bằng thiện hạnh,chứ không phải chỉ tin mà thôi.

- Giáo lý Cơ Đốc về sự cứu rỗi qua cây Thánh Giá rất khó cho người Phật tử chấp nhận.

- Quan niệm về Chân Lý giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo không giống nhau. Đức Chúa của Giáo lý Cơ Đốc là đấng siêu việt trong hình hài đức Jesus,vừa là nhân thể vừa là thánh thể. Đức Phật của Phật Giáo là con người qua công hạnh hành trì,chứng quả,giác ngộ.

- Đối với Cơ Đốc Giáo,chân lý tuyệt đối là cá nhân, đối với Phật Giáo,chân lý tuyệt đối là siêu nhân,ngoài phạm vi nhân cách.

- Đạo lý Tam Thể(Đức Chúa Cha,chúa Con,Chúa Thánh Thần) gần giống đạo lý Tam Thân(Pháp Thân, Ứng Thân,Báo Thân) của Phật Giáo.

- Khái niệm về linh hồn giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo khác nhau.Cơ Đốc Giáo quan niệm linh hồn bất tử.Phật Giáo chủ trương vô ngã.

- Phật Giáo không chủ trương mặc khải,ttrong khi đó Cơ Đốc Giáo quan niệm Chúa được mặc khải,Chúa Jesus là đạo,là Con Đường.

- Thuyết Nhân Quả của Phật Giáo đặt nặng trách nhiệm của từng cá nhân về đời sống hiện tại cũng như tương lai,trong khi truyền thống Cơ Đốc quan niệm những gì con người có là do ân sủng của đấng Bề Trên ban xuống.

474. Có những điểm giống nhau giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo?

- Thuyết Tam Thân(Pháp Thân,Ứng Thân,Báo Thân) của Phật Giáo và Thuyết Tam Thể(Chúa Cha,Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần) của Cơ đốc Giáo có những điểm tương đồng mặc dầu không hoàn toàn giống nhau.

- Đời sống độc thân của Tu sĩ Thiên Chúa Giáo và tu sĩ Phật Giáo.

- Nếp sống của hàng Tân Tăng Nhật Bản và của Mục Sư Tin Lành .

- Việc sử dụng nước Thánh và nước Cam Lồ.

475. Từ Bi của Phật Giáo và Bác Ái của Cơ Đốc Giáo giống nhau ở chỗ nào?

- Tình thương trang trải cho người cùng nòi giống,cùng sắc tộc,hay đồng đều cho tất cả mọi người,mọi vật?

- Từ Bi trong đạo Phật:Từ,Metta chữ Pali,Maitra chữ Sanscrit;Bi,Karuna.Người Trung Hoa dịch Từ là “Năng dự lạc”, đem lại hạnh phúc cho kẻ khác;Bi là “Năng bạt khổ” làm tiêu trừ đau khổ cho kẻ khác.Có 3 loại từ bi: 1/ Từ bi mà đối tượng là chúng sinh là từ bi của người cho chúng sinh là thực,muốn giải thoát cho những chúng sinh thực này khỏi những đau khổ,mộng tưởng của họ. Đây là từ bi có tính cách tình cảm,bị giới hạnh bởi những xúc cảm. 2/ Từ bi mà đối tượng là những tập hợp của các yếu tố là từ bi của người thấy chúng sinh là sản phẩm giả hợp của các nhân duyên,không có chủ thể. Đây là từ bi huyễn hóa đối với những hiện tượng huyễn hoá,sử dụng phương tiện huyễn hoá để giải thoát những chúng sinh huyễn hoá. 3/ Từ bi không có đối tượng,không ngã,không nhân không thọ giả,không có người có lòng từ bi,hai hiện hữu không còn riêng biệt,thoát khỏi hàng rào nhị nguyên để nhập thể đồng nhất, đó là lòng từ bi siêu việt.Những ai tìm cầu giải thoát cho riêng mình,không thể đạt đến giải thoát trọn vẹn,cứu giúp kẻ khác chính là cứu giúp mình,chuyên chở và phát triển cảm thông,từ ngữ và Tâm lý học Tây Phương là Empathy.

- Thánh Kinh dùng ba danh từ để cắt nghĩa lòng Bác Ái:Eros,Philia và Agape.Eros là tình thương đối với gia đình,bạn bè,những người thân thuộc.Philia là lòng nhân từ độ lượng giúp đỡ kẻ khác.Agape là tình thương cao cả nhất,tình thương phối hợp giữa Chúa và Người.Tình thương này được thể hiện trong Lời răn của Chúa, đó là tình thương quảng bá,không vị kỷ,tình thương cứu rỗi,toàn thiện.

476. Giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo có thể có sự đối thoại nghiêm chỉnh?

- Thế nào gọi là đối thoại nghiêm chỉnh? Đối thoại nghiêm chỉnh là trao đổi cho nhau những kinh nghiệm sống của mình trong việc hành trì,là gặp gỡ nhau để tìm cái hay,cái đẹp của nhau,chứ không phải để tuyên truyền dẫn dụ người khác theo đạo mình.

- Đối thoại nghiêm chỉnh là tôn trọng lẫn nhau,là thành khẩn với lòng mình,không phải cổ võ tự do tín ngưỡng,tôn trọng truyền thống,giá trị tín ngưỡng để rồi làm áp lực bắt người theo tôn giáo mình qua hôn nhân,qua công tác từ thiện,xã hội.

477. Linh Mục Thomas Merton có thể là nhịp cầu giữa Phật Giáo và Cơ Đốc Giáo?

- Thomas Merton(1915-1968) là một tu sĩ dòng Cistercian,sống gần trọn cuộc đời trong Tu Viện Gethsemani,Kentucky.Vào những năm cuối cùng ông chú tâm đến các truyền thống tâm linh Á Châu,nhất là Phật Giáo, đặc biệt là Thiền Trung Hoa và ông đã viết rất nhiều về kinh nghiệm hành thiền.

- Mẫu người lý tưởng đầy lòng từ bi của vị Bồ Tát khiến ông lưu tâm.Chân lý vượt ngoài hàng rào văn tự,ngôn thuyết của Phật Giáo là sức hấp dẫn lớn đối với Thomas Merton. Ông qua đời tại Bangkok khi tham dự phiên họp liên tông.

478. Thể chế tu viện là giây liên hệ thiết yếu giữa Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo?

- Thể chế tu viện là nhịp cầu tổ chức quan trọng nhất giữa hai truyền thống.Tu viện Phật Giáo là một tổ chức lâu đời nhất và hiện đương còn hoạt động trên thế giới và thể chế tu viện Thiên Chúa qua tòa thánh La Mã đứng hàng thứ nhì.

- Tại học viện Naropa Tây Tạng ở Boulder,Colorado thỉnh thoảng tổ chức những khóa cầu nguyện cho hàng tu sĩ thuộc các tôn giáo.Tăng Ni Phật Giáo cùng với linh mục,nữ tu Thiên chúa có dịp sống chung với nhau.

- Tháng 7 năm 1996,Tu Viện Gethsemani tổ chức một buổi hội luận với 50 tham dự viên của các tôn giáo, để trao đổi quan điểm về tín lý.Họ đồng ý cùng nhau sử dụng phương pháp cầu nguyện,thiền tập,đọc kinh để xâm nhập vào cái tinh túy của mỗi tôn giáo.Sau buổi hội luận,toàn thể tham dự viên đến mộ Thomas Merton cầu nguyện,tưởng nhớ người cách đó 30 năm đã thực hành đối thoại một cách thành khẩn.

479. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo như thế nào?

- Như anh em ruột trong một gia đình Phật Giáo.

- Trong cuốn Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo,của Thanh Sĩ và Vương Kim,cắt nghĩa như sau:

- Phậtxuất An Giang đủ phép màu

- Giáotruyền đạo thích rất cao sâu.

- Hòatrong sanh chúng gieo điều thiện.

- Hảoý đưa về kiến Bửu Châu .

- Theo cách cắt nghĩa này,tín đồ Hòa Hảo xem vị sáng lập là Phật tái sinh để giảng truyền giáo nghĩa của Đức Thích Ca đem lại hoà đồng,an lạc cho nhân loại,bồi bổ đạo đức,trau dồi trí tuệ để dự Đại Hội Long Hoa.

480. Tại sao gọi là Phật Giáo Hòa Hảo?

- Vì vị sáng lập,vị Giáo Chủ, Đức thầy Huỳnh Phú Sổ sinh năm 1919 tại thôn Hoà Hảo,một làng nằm trên bắc ngạn sông Vàm Nao,quận Tân Châu,tỉnh Châu Đốc.

- Ngày 16-4-1947 ngài mất tích khi đến dự phiên họp với cán bộ Việt Minh tại làng Tân Phú, ở Đốc Vàng,thuộc tỉnh Long Xuyên.

- Tín đồ Hòa Hảo không tin là ngài đã qua đời mà chỉ vắng mặt vì thời cơ chưa đến để ngài thừa hành sứ mạng thiêng liêng, đồng thời cũng là một thử thách cho tín đồ xem có thật tâm phụng hành quy củ đã vạch ra khi ngài vắng mặt.

481. Giáo lý và hành trì của Phật Giáo Hòa Hảo như thế nào?

- Giáo lý rút từ Tam Tạng Phật Giáo:“Rút trong các Luật các Kinh,tuỳ lòng không ép làm in giảng này .”, được ghi trong Sấm Giảng của Ngài.Sở dĩ Kinh sách do ngài nói ra gọi là sấm Giảng vì ngoài việc giải thích giáo nghĩa còn cho biết trước thời cơ.

- Giáo lý của Phật Giáo Hòa Hảo gồm hai phần:Nhân Đạo và Phật Đạo.Về Nhân Đạo đức Huỳnh Giáo Chủ muốn phục hưng thuyết Ngũ Luân(Quân Thần,Sư Đệ,Phụ Tử,Phu phụ,Huynh đệ),Ngũ Thường(Nhân,Nghĩa,Lễ,Trí,Tín),Tam Tòng(tại gia tòng phụ,xuất giá tòng phu,phu tử tòng tử),Tứ Đức(Công,Dung,Ngôn,Hạnh)của Nho Giáo.Về phương diện Phật Giáo, đức Huỳnh Giáo Chủ sử dụng thuyết Tứ Ân (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo, ân đàn na thí chủ hay đồng bào nhân loại),thuyết Tam Nghiệp(thân,khẩu, ý)qua Ngũ Giới,Bát Chánh Đạo của Phật Giáo.

-Đức Huỳnh Giáo Chủ ngã về thiền đốn ngộ của lục tổ Huệ Năng mà ngài cho là thiền vô vị: “Khuyên sư sải mau mau cải hối,Làm vô vị chánh đạo mới mầu…”mà chê trách Thần Tú hủ hóa Phật Giáo bằng làm chay,làm đám,chuông mõ,lầu phướn,xá bạc: “Là thầy đám hay bày trò khỉ,Mượn Kinh Luân tụng mướn lấy tiền.Chốn Diêm Đình ghi tội liên miên,Mà tăng chúng nào đâu có rõ .Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ,Từ xưa nay mấy có ai thành…”

- Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên tín đồ tu pháp môn Tịnh Độ: “Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh ,Ráng phụng hành kẻo phụ Phật xưa;Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng.”

- Đức Huỳnh Giáo Chủ dung hợp thiền định song tu như Thiên Thai Tông: “…Niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trước nhiễm trần ai .”

- Đức Huỳnh Giáo Chủ khẳng định ngài là đệ tử trung thành của đức Phật Thích Ca : “Đối với toàn thể tín đồ Phật Giáo,tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tử trung thành của đức Phật Thích Ca,tôi tin chắc rằng giáo lý giải thoát chúng sing chẳng những được truyền bá ở thiền lâm mà còn phải được thực hiện trên trường chính trị .”( Để hiểu Phật Giáo Hòa Hảo tr.129).

482. Nhưng Thần Tú đâu có hủ hóa Phật Giáo?

- Đạo Cao Đài trong giảng đàn nói:“Vốn từ Lục Tổ thì Phật Giáo đã bị bế lại,cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành.Chánh Pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh Giáo,lấp riêng pháp luật buộc mối Đạo Thiền…Chư Sơn ôm theo luật Thần Tú thì đừng mong mỏi về Tây Phương mà cửa Tây Phương vẫn cứ bị đóng,thì cơ thành chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy…”(Đỗ Vạn Lý:Tìm hiểu Đạo Cao Đài,quyển I,tr.35-36).Phật Giáo Hoà Hảo và Đạo Cao Đài đều đồng quan điểm về Thần Tú.

- Theo thiền sử,ngài Hoằng Nhẫn,tổ thứ năm dòng thiền Trung Hoa,có hai đệ tử xuất sắc, đó là Huệ Năng và Thần Tú.Huệ Năng(638-713) được truyền tâm pháp,sáng lập Nam Thiền,chủ trương đốn ngộ(chứng ngộ ngay tức khắc),nên gọi là Nam Đốn.Thần Tú(605-706) sáng lập Bắc Thiền,chủ trương tiệm ngộ(từ từ chứng ngộ),nên gọi là Bắc Tiệm.Bắc Tiệm cũng hành trì Như Lai Thiền,rất thịnh hành ở miền Bắc Trung Hoa,không tu phương thức Tịnh Độ,không làm cúng,làm đám,nhưng không biết tại sao lại mang tiếng chịu lời.

483. Cách quy y, thờ tự và nghi lễ Phật Giáo Hòa Hảo như thế nào?

- Không chú trọng vào hình thức,nghi quỹ quy y của tín đồ rất giản dị,giống như hình thức thọ giới của Tân Luật Tông Nhật Bản,có thể đến trước Đức Thầy xin quy y,có thể ở nhà với hai người chứng kiến làm lễ quy y,hoặc tự mình quy y lấy trước bàn thờ ngôi Tam Bảo.

- Cách thờ tự, ở trong nhà, ở căn giữa,thờ Cửu Huyền Thất Tổ và ngôi Tam Bảo,có thể thờ riêng hoặc từng trên thờ ngôi Tam Bảo,từng dưới thờ Cửu Huyền Thất Tổ,trước nhà dựng bàn Thông Thiên.

- Từ trước nơi thờ tự có thờ Trần Điều,di tích của Đức Phật Thầy Tây An,nhưng sau này đổi lại thành Trần Dà ,biểu hiện cho sự thoát tục và kết hợp của tất cả các màu sắc,tượng trưng cho sự hoà hợp nhân loại.

- Nghi lễ rất giản dị:Trước Cửu Huyền Thất Tổ đọc bài Dưng Hương(Dâng Hương) và bài Bái Tạ Cửu Huyền,rồi lễ 4 lạy,xá 3 xá.Tiếp đến lễ ngôi Tam Bảo, đọc bài Quy Y,rồi cắm hương,lạy 4 lạy,xá 3 xá.Tiếp theo ra bàn Thông Thiên cầu nguyện,lạy 4 hướng,mỗi hướng 4 lạy,3 xá.

- Sở dĩ lạy 4 lạy là lạy Tứ Ân,xá 3 xá có nghĩa xá Tam Thế Phật : Đức Di Đà, Đức Quan Thế Âm, Đức Đại Thế Chí(để hiểu Phật Giáo Hoà Hảo tr.137).

- Theo truyền thống Phật Giáo Việt Nam,Tam Thế Phật là Đức Di Đà, Đức Thích Ca và Đức Di Lặc.

- Trong kinh Sigalavada Sutta kể câu chuyện:Một hôm Phật gặp Sigala đảnh hành lễ 6 phương ,Phật hỏi Sigala làm lễ như vậy có ý nghĩa gì?Sigala trả lời là tuân theo lời di huấn của phụ thân.Phật dạy:Lạy hướng Đông là để tỏ kính ngưỡng cha mẹ.Lạy hướng Nam là tỏ lòng tôn trọng sư trưởng.Lạy hướng Tây là tỏ lòng thương mến người phối ngẫu.Lạy hướng Bắc là tỏ lòng mến chuộng bằng hữu.Lạy hướng Dưới là tỏ lòng yêu quý người giúp việc.Lạy hướng Trên là tỏ lòng kính mộ các bậc Trưởng Thượng,Sa Môn, Đạo Sĩ.Phải chăng bài kinh trên có ảnh hưởng đến phương thức hành trì lạy 4 phương?

- Trong Kinh Tứ Ân,trong nghi lễ buối sáng,chư Tăng đảnh lễ ân Tam Bảo, ân Cha Mẹ Tổ Tiên, ân Quốc Vương(người cai trị) Đất Nước, ân Đàn Na Thí Chủ (quốc dân).

484. Sự liên hệ giữa Phật Giáo và Cao Đài Giáo như thế nào?

- Phật Giáo và Cao Đài như anh em chú bác trong gia đình.

- Đạo Cao Đài có danh xưng là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, được khai sinh từ ngày đức Chí Tôn giáng trần qua đàn cơ,thâu nhận 12 môn đệ đầu tiên là các ông Ngô Văn Chiêu,Vương Quang Kỳ,Lê Văn Trung,Nguyễn Văn Hoài, Đoàn Văn Bản,Cao Hoài Sang,Lý Trọng Quý,Lê Văn Giảng,Nguyễn Trung Hậu,Trương Hữu Đức,Phạm Công Tắc,Cao Quỳnh Cư tại Hà Tiên,Phú Quốc năm 1920.Những vị này là Tông Đồ của đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.Họ không phải là giáo chủ mà là Tông Đồ.

- Thượng Đế xác định:…“Thầy nhất định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ cho các con mà thôi,chớ không chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nào cả.” Ở một đoạn đàn khác nói thêm:“…Tên là cái giả triền miên muôn đời,xuống lên,lên xuống luân hồi, đến tên Ngọc Đế mấy hồi đổi thay.Khi Xưng Giáo Chủ Cao Đài, khi xưng Thiên Chúa,khi khai Di Đà.Lắm hồi Bồ Tát Ma Ha,Bao lần Khổng Mạnh cũng Già này đây.”

- Như vậy ở đây Ngọc Hoàng Thượng Đế hiển hiện trong vô số hình hài.

- Không có người phàm nào làm Giáo Chủ Đạo Cao Đài,chỉ có Thượng Đế,nguồn tiên khởi của các tôn giáo,tín ngưỡng,do đó giáo lý của Đạo Cao Đài là giáo lý chân truyền,nguyên khởi của các tôn giáo.

- Theo tín đồ Cao Đài Thượng Đế chọn Việt Nam lập đạo,chọn người Việt Nam làm Tông Đồ.Nước Việt Nam chỉ có Ngọc Hoàng Thượng Đế làm chủ.Cao Đài,chỗ Thiên,Nhân hợp nhất,nơi Tam Tông(Phật,Lão,Khổng) quy lập Cao Đài Chân Tông,theo lời giải của đức Đại Tiên Ngô Văn Chiêu,tông đồ đầu tiên của Thượng Đế.

485. Giáo lý và hành trì của Cao Đài Giáo như thế nào?

- Cao Đài Giáo là tổng hợp những gì chân truyền và tinh túy của Tam Giáo.

- Sứ mạng của Cao Đài là làm cho các tôn giáo hiện hữu trên thế giới ý thức rằng tất cả tôn giáo đều phát xuất nguyên từ Thượng Đế…

- Cao Đài Giáo chủ trương tu phước và tu huệ.cá nhân con người là trung tâm của sự tu hành,tự độ,độ tha, được sự dìu dắt của một Hội Thánh gồm Cửu Trùng Đài,Hiệp Thiên Đài và Bát Quái Đài.

- Đệ tử đầu tiên của đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là quan phủ Ngô Văn Chiêu,trường trai giữ giới,vào tháng 3 tháng 4 năm 1921,lúc đang nằm trên võng,tình cờ thấy xuất hiện trước mắt phía Tây một Con Mắt Lớn, hào quang sáng chói.Vài ngày sau quang phủ cũng thấy như vậy,do đó Đạo Cao Đài đã lấy Thiên Nhãn làm biểu tượng tôn thờ. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chính thức ra đời năm 1926 .

- Muốn gia nhập Đạo phải có hai người đạo đức tiến cử,hướng dẫn đạo lý,trở thành tín đồ.Tín đồ có hai hạng,gọi là Hạ Thừa và Thượng Thừa.Hạ Thừa gồm những tín đồ có gia đình, ăn chay 6 hoặc 10 ngày trong tháng,giữ gìn Ngũ Giới,tuân hành Luật Đạo.Bậc Thượng Thừa là cấp lãnh đạo,phải để râu tóc, áo mặc thường phải dùng toàn vải trắng, ăn trường trai.

- Tín đồ Cao Đài thỉnh thoảng nhập tịnh thất trau dồi phẩm hạnh,tuân hành quy luật của Tịnh Thất.

486. Em thấy giáo lý của Đạo Cao Đài gần với Thông Thiên Học với Đại Ngọc Cơ, Xây Bàn; gần với Lão Giáo với biểu tượng Bát Tiên, Tứ Linh, Quả Càn Khôn, Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng; gần với Do Thái quan niệm nước Việt Nam, dân Việt Nam được Ngọc Hoàng Thượng Đế chọn với sứ mạng phục hồi đạo lý nguyên thỉ; giống Cơ Đốc Giáo với 12 vị Tông Đồ?

- Cao Đài Giáo là tổng hợp những gì tinh túy của tất cả các tôn giáo trên thế giới,nên có những nét giống như Phật,Lão,Khổng,Cơ Đốc,Do Thái v.v..không lấy gì làm lạ.

- Tín đồ Cao Đài ăn chay,giữ giới,tu phước,tu huệ,nhập tịnh thất,không khác gì Phật Tử.

- Danh từ sử dụng để giảng giải giáo lý xuất xứ từ Phật Giáo.

- Hoà thượng Như Nhàn,chủ chùa Giác Hải,Phú lâm,Chợ Lớn đã cúng ngôi chùa Từ Lâm,thường gọi là Thiền Lâm,cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, được đức Thượng Đế ban phong Chưởng Pháp Thiền Sư Linh Diệu Đạo Sĩ.

- Theo ông Lê Văn Trung phong trào Cao Đài là phong trào chấn hưng Tam Giáo dưới hình thức một Tân Tôn Giáo.Hoà Thượng Như Nhàn đã cho lập trai đàn ba ngày(18-20/11/1926) dưới danh nghĩa Phật Giáo Chấn Hưng hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

- Thông linh học qua phép Cầu Cơ là truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng,với 4 thần cơ:Thần cơ Cachum,thần cơ Karmasar,thần cơ Lhaka và thần cơ Nagpa.Lời cơ giáng xuống qua hình thức thơ,phú, ý nghĩa bóng bẩy.

- Thông Linh Học Chiêu Hồn Thuật(Spiritualism)Hoa Kỳ bắt đầu năm 1848 khi hai chị em 12,13 tuổi của gia đình họ Fox tại Hydesville,New York nghe những tiếng lạch cạch thần bí tại nông trại gia đình.Hai cô chế ra một thứ ám hiệu câu hỏi,trả lời,về sau trở thành bàn cơ,viết cơ,tiên tri.Chẳng bao lâu vào thập niên 1870 khắp vùng nhiều người cầu cơ xuất hiện cho biết có thể “nói chuyện” với những bậc vô hình ngoài hành tinh.

- Thông Linh Học phát triển sau nội chiến Hoa Kỳ,làm vơi bớt niềm khổ đau của bà con bị chết trong cuộc chiến, đồng thời cho họ niềm an ủi là những người quá vãng ấy thực sự còn tồn tại bên kia thế giới.Hội Biện Chứng Luân Đôn(London Dialectical Society) bảo trợ cuộc điều tra về hiện tượng này.Trong Ủy ban điều tra gồm những nhà khoa học nổi tiếng như Sir Alfred Russell Wallace.Tại Hoa Kỳ cũng có ủy ban điều tra tương tự.Cả hai đều nói cần phải nghiên cứu kỹ chứ đừng vội vàng cho là mê tín dị đoan.

- Một ngày vào tháng 7 năm 1874, Đại tá Henry Steel Olcott đến sạp báo mua tờ The Banner of Light,một tờ báo của Thông Linh Học,trong đó có bài viết về một hiện tượng xảy ra tại nông trại của hai anh em Eddy ở Chittenden,Vermont.Những người đến thăm trại có thể nói chuyện với thân nhân quá vãng . Đọc xong Olcott quyết định đến trại Eddy để điều tra và ông đã viết một bài trong báo Sun cho rằng những vật vô tình,như hình tượng,biểu tượng cũng có thể là những người từ bên kia thế giới.Ngày 14 tháng 10,Olcott trở lại.Lần này ông gặp bà Helena Petrova Blavatsky,một thần linh học gia,thông thạo Mật Giáo Tây Tạng,và một số bằng hữu.Họ,sau một thời gian đắn đo,quyết định thành lập Hội Thông Thiên Học, được ra mắt ngày 17/11/1875.

- Theo bà Blavatsky Hội Thông Thiên Học được thành lập là do lời huấn thị của các Tông Đồ Ấn Độ,Tây Tạng.

- Bà Blavatsky,tác giả cuốn Isis Unveiled,a Master-key to the Mysteries of Ancient and Modern Science and Theology,2 tập,dày 2,600 trang,quan niệm thông linh học là nấc thang thuận tiện để đi vào sự huyền bí của vũ trụ.

- Năm 1879 bà Blavatsky và ông Olcott đến Ấn Độ hợp nhất hai tổ chức Thông Thiên Học Ấn Độ và Hoa Kỳ với danh hiệu The Theosophical Society of Arya Samaj,sau đó đến Tích Lan thành lập 7 chi nhánh Thông Thiên Học,lấy tên là Buddhist Theosophical Society of Ceylon.

- Ngày 25-5-1880 bà Blavatsky và ông Olcott quyết định theo Phật,thọ Tam Quy,Ngũ Giới tại một ngôi chùa ở miền Nam Tích Lan .

- Năm 1882 ông Olcott trở lại Tích Lan lần thứ hai và lần thứ ba năm 1883,dành nhiều thì giờ giúp đỡ Phật Giáo Tích Lan trong nỗ lực canh tân,nhất là trên phương diện giáo dục ngoài đời.Sau đó ông đi Nhật Bản,Miến Điện vận động chấn hưng Phật Giáo.

487. Tình hình Phật Giáo Việt Nam hiện nay ở Việt Nam như thế nào?

- Từ ngày 30-4-1975 đến nay,tình hình tôn giáo nói chung,Phật Giáo nói riêng gặp nhiều khó khăn với chính quyền Cộng Sản.

- Ngày 22-11-1975,12 vị tu sĩ Tăng Ni chùa Dược Sư,Cần Thơ đã tự thiêu tập thể để phản đối chính sách của nhà cầm quyền đối với Phật Giáo.

- Chính quyền quyết định tu sĩ từ 18 đến 25 tuổi phải thi hành nghĩa vụ quân sự,tham chiến tại Cao Mên.

- 19 Tăng Sĩ Phật Giáo ở các cấp bị chính quyền giam giữ,các nhà lãnh đạo Phật Giáo như Hòa Thượng Huyền Quang,Quảng Độ,Thiền Ấn,Thượng Tọa Thông Bửu,Thông Huệ,Thanh Thế bị bắt,Hoà thượng Thiện Minh, Hòa Thượng Trí Thủ bị bức tử.

- Cơ sở giáo dục,xã hội của Phật Giáo bị tịch thu,một số chùa chiền , Phật tượng bị phá hủy.

- Phật Giáo bị phân hoá với sự ra đời của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Ban Tôn Giáo và Mặt Trận Tổ Quốc ngày 4-11-1981.

- Hòa Thượng Huyền Quang,Hòa Thượng Quảng Độ bị bắt nhiều lần,bị đi an trí nhiều nơi.Thượng Tọa Tuệ Sĩ,Trí siêu,Ni Sư Trí Hải v.v…nhiều lần vào tù ra khám.Hòa Thượng Đức Nhuận cũng không tránh khỏi cảnh lao lý.Nói tóm lại hầu hết những nhà lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại trung ương cũng như địa phương đều chịu cảnh tù tội, đàn áp,khống chế sau ngày Cộng Sản tiến chiếm miền Nam Việt Nam.

- Cũng có những lúc chính quyền nới tay như vào thời ông Nguyễn Văn Linh nhậm chức Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam sau khi Khối Cộng Sản Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ và gần đây qua sự tiếp xúc của Thủ tướng Phan Văn Khải và Hoà thượng Huyền Quang,nhưng rồi tình hình cũng không mấy khả quan.

- Phật Giáo tại Việt Nam hiện nay có hai tổ chức chính, đó là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được chính quyền xây dựng và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị chính quyền xem là bất hợp pháp.

488. Cũng dưới chính thể Cộng Sản tại sao các tôn giáo khác không gặp những khó khăn như Phật Giáo?

- Phật Giáo Hoà Haỏ cũng chịu nhiều khốn đốn.

- Có lẽ trên phương diện ngoại giao Phật Giáo không đủ uyển chuyển?Có lẽ phương thức khế lý khế cơ của Phật Giáo chưa được vận dụng một cách khéo léo?

- Có lẽ Phật Giáo đã không lượng sức mình ?

- Có lẽ cách hành hoạt Phật Giáo đã làm cho người ta bớt thương,bớt kính,bớt trọng?

489. Trong những cuộc tranh đấu, trong các phong trào vận động, Phật Giáo thường dùng từ ngữ Dân Tộc và Đạo Pháp làm như chỉ có Phật Giáo mới là dân tộc còn những tôn giáo khác, những chủ thuyết khác đều phi dân tộc?

- Tinh thần tự chủ của dân tộc Việt giúp nước Việt duy trì mạng sống qua bao nhiêu khó khăn lịch sử cũng chính là tinh thần tự chủ của Phật Giáo,cổ võ khả năng tự quyết định số mạng của mình.Truyền thống dung hòa,bao dung,tha thứ của dân Việt cũng chính là tinh thần bao dung,vô ngã,không chấp trước,không thiên kiến,không chật hẹp của đạo Phật.Hai tinh thần,hai truyền thống ấy đã cùng nhau sống,quyện vào nhau thành một thể duy nhất,phối hợp và hòa điệu trở thành dân tộc và đạo pháp.

- Nói như thế không có nghĩa Phật Giáo dành độc quyền mà bất kỳ tôn giáo nào,chủ thuyết nào dựa vào tinh thần tự chủ,dung hoà,bao dung,tha thứ của dân tộc Việt đều có quyền xem mình là dân tộc.

- Nói như thế không có nghĩa là những người tự nhận mình là người con Phật đều thể hiện được tinh thần truyền thống tốt đẹp ấy.

490. Các nhà lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam thường nói Phật Giáo nằm trong lòng dân tộc là muốn nói gì?

- Muốn tiếp tục truyền thống của Khương Tăng Hội trong thuyết Trăm Con Trong Bọc Trứng,nối tiếp truyền thống Trúc Lâm Yên Tử của Trần Nhân Tông trong tinh thần thiệp thế.

- Cố Hoà Thượng Thích Đức Nhuận tâm tình:“Nói riêng về dân tộc Việt Nam thì đạo Phật đã thể nhập vào dòng sống của dân tộc này không thể tách rời ra được nữa.Phật Giáo đã đến với dân tộc Việt Nam trong tư thế của một người bạn để cùng dân tộc Việt Nam chung chịu mọi bất hạnh của một nước nhiều lần bị lệ thuộc và chung vinh quang mỗi khi dân tộc quật cường.

- “Người bạn chí thiết lâu đời đó đã không còn là hai như thuở ban đầu nữa mà trở nên một thể duy nhất.Dù có muốn tách biệt cũng không còn biết đầu mối ở đâu mà tách biệt…”(Thích Đức Nhuận:Sứ mệnh của người Phật Tử đối với dân tộc và đạo Pháp,tr.14,Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới xuất bản,California,1995).

491. Chủ trương của Phật Giáo với dân tộc Việt Nam như thế nào?

- Để có thể tự lực,tự cường, để có thể duy trì truyền thống tự chủ,dung hòa bao dung với một dân tộc nhiều sắc tộc,ngài Khương Tăng Hội đã khai triển thuyết Trăm Con Trong Bọc Trứng.Người trên núi,người dưới biển cũng đều là con một nhà, đều từ trong Một Bọc Trứng mà ra.Không đùm bọc nhau,không thương yêu nhau thì khó có thể tồn tại và phát triển.

- Nước Việt Nam giữa lòng thế giới,muốn tồn tại,muốn phát triển,phải mở rộng cửa đón nhận,chọn những chất liệu tốt đẹp bất cứ từ đâu đến để chuyển hoá làm chất liệu dân tộc.

492. Phật Giáo sau nhiều thế kỷ suy thoái có đủ sức vận động dân tộc trong chủ trương trên?

- Trước những đòi hỏi cấp bách thời đại,trước hiện tình đất nước,Phật Giáo do tinh thần dân tộc, đạo pháp thúc đẩy,quá nhiệt tình trong sứ mạng,quá bao trùm trong hoài bão,dù các nhà lãnh đạo Phật Giáo hiểu rõ chưa chuẩn bị hành trang chu toàn mà đã hành động nên gặp nhiều thất bại hơn thành công.

- Điều mà các nhà lãnh đạo Phật Giáo tâm niệm là cứ xướng lên mục tiêu, để rồi dân tộc Việt,trong đó có Phật Giáo,từ từ giải quyết.Họ tin tưởng rằng với tinh thần vô ngã,bao dung,không sớm thì muộn,dân tộc ta sẽ vượt được những chấp trước tự thân để tự giải thoát và phục vụ dân tộc một cách có hiệu nghiệm như tiền nhân ta đã từng làm đối với dân tộc.

493. Thế nào là chuẩn bị hành trình? Chuẩn bị đảo chánh? Chuẩn bị cướp chính quyền?

- Trong lịch sử Phật Giáo không có lúc nào Phật Giáo chủ trương áp đặt thể chế chính trị bằng quân sự,cũng không bao giờ chủ trương cướp chính quyền. Đạo Phật Việt Nam không hề có những mưu đồ riêng về quyền lực,dù là quyền lực tôn giáo.

- Đạo Phật Việt Nam trong thời thịnh cũng như suy vẫn là một đạo Phật nhịn nhục,phục vụ cho nhân thế.Thời thịnh của Phật Giáo dưới triều Lý cũng là lúc văn miếu thờ Khổng Tử và các thánh Nho, điện thờ Lão tử được xây dựng tại thủ đô và khắp các làng xã.

- Chuẩn bị hành trang là thấm nhuần tư tưởng tự chủ,cởi mở,bao dung rồi áp dụng những tư tưởng ấy vào cõi đời sống cá nhân,cộng đồng,xem cá nhân chỉ là một phần tử trong xã hội.

- Hành trang là phương thức,kỹ thuật như thế nào để thể hiện tinh thần Phật Giáo và đời sống dân tộc rất phức tạp.

- Hàng trang là hàng ngũ lãnh đạo cũng như Phật tử được huấn luyện kỹ càng, được đãi lọc, được tổ chức cho đáo.

- Hàng trang là dẹp bỏ sự phân hoá,sự đối nghịch chấp trước.Mọi hành động,ngôn ngữ, ý nghĩ đều dựa và phát xuất từ lòng từ bi,từ Hạnh Nguyện Bồ Tát nhập cuộc để cùng san sẻ khổ vui,cùng tạo dựng xã hội lành mạnh,an bình.

- Hành trang là không kiêu hãnh vì thành công,không lo âu,nản chí vì thất bại.

494. Sau ngày 30-4-1975, một số người Việt Nam di tản đến các nước trên thế giới tị nạn, đa số đến Mỹ, trong đó có những người theo đạo Phật. Tại Hoa Kỳ lúc nầy đã có Phật Giáo chưa?

-.Tại Hoa Kỳ đã có Phật Giáo do người Mỹ đứng ra thành lập,do người Tây Tạng,Mông Cổ,Tích Lan,Miến Điện,Thái Lan, Đại Hàn xây dựng.

495. Phật Giáo đến Hoa Kỳ vào thời điểm nào? Ai là kẻ tiền phong?

- Hoa Kỳ là một quốc gia gồm dân bản xứ(Dân Ấn Độ Da Đỏ) và nhiều sắc dân đến định cư từ trước đến nay.Văn hoá của những sắc dân trước thời Columbus bây giờ hầu như chỉ là di sản.Tín ngưỡng do năm vị sư Trung Hoa mang lại cho dân bản xứ giờ đây gần như không còn nữa,do đó chúng ta chỉ nói Phật Giáo truyền vào Hoa Kỳ trong thời cận đại.

- William Jones(1736-1784) là một luật sư người Anh,chánh án tòa Thượng Thẩm Ấn Độ,giỏi tiếng Latin,Hi lạp,Pháp,Tây Ban Nha,Hebrew, Ả Rập,Sanscrit,nghiên cứu Kinh Thi Trung Hoa,nghiên cứu tài liệu liên quan đến Tây Tạng và Kashmir,nghiên cứu bản Phúc Âm Thánh Luke bằng tiếng Ả Rập,bản Thánh Thi(Psalm) David bằng tiếng Ba Tư và lịch sử chiến tranh Hoa Kỳ. Ông là bạn của Benjamin Franklin,là bậc đàn anh của Thomas Henry Colebrook,Chánh Án Tòa Hòa Giải Calcutta và Giáo Sư Sanscrit trường Đại Học Hãng Đông Ấn tại Fort William,của Brian Hodgeon,một công chức Anh tại Nepal,người đã gởi nguyên bản Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tiếng Sanscrit đến Calcutta,London,Paris, được Eugene Bournouf dịch ra tiếng Pháp và gởi cho Ralph Waldo Emerson,Henry David Thoreau tại Concord,Massachusetts.

- William Jones nghiên cứu ngôn ngữ tỉ giảo nói Sanscrit có một cấu trúc đặc thù,hoàn hảo hơn tiếng Hi Lạp,phong phú hơn tiếng Latin,bóng bẩy,trau chuốt hơn cả hai thứ tiếng ấy,nhưng cùng một cấu trúc văn phạm.

- Kho tàng Sanscrit mà Sir William Jones khai thác được trưng bày khắp thế giới,gồm Hoa Kỳ.

- Đó là những người bắt đầu làm quen với kinh điển Phật Giáo bằng tiếng Sanscrit vào cuối thế kỷ thứ 18,đầu thế kỷ thứ 19, đầu tiên là người Anh,sau người Pháp,người Mỹ.

496. Xin cho biết người Mỹ nào để ý đến Phật Giáo đầu tiên?

- Ông Henry David Thoreau(1817-1862). Ông đọc bản dịch Kinh Pháp Hoa bằng tiếng Pháp của Eugene Birnouf .Quá say mê với lời kinh,với chân trời Pháp Hoa mênh mông vĩ đại, ông liền dịch ra tiếng Anh để độc giả nói tiếng Anh được cái may mắn thưởng thức lời Kinh.Muốn thâm nhập lời kinh, ông từ bỏ đời sống xô bồ,vào rừng sống trong một cốc nhỏ, đọc sách,tham thiền,cuốc đất,trồng rau.

- Sức hút Đông Phương lôi cuốn Thoreau không phải Ấn Độ,không phải những kinh điển cổ xưa mà là một sức mạnh hiện đại,gần gũi hơn,luôn luôn tiềm tàng trong mọi người trên trái đất.Thoreau viết:“…Tinh thần Á Đông tiềm ẩn trong mọi người,những kẻ khai sơn phá thạch không dừng bước.Và càng đi xa về hướng Tây thì cũng chính là càng đi xa về hướng Đông..”

- Thoreau qua đời năm 1862.John Weiss đã nói về Thoreau năm 1865 như sau:“Với cuộc sống,Thoreau không có cao vọng,không bất mãn.Cuộc đời của Thoreau biểu hiện sự thanh thỏa,an lành,dung dị.Thoreau đi trong dòng đời như đệ tử của Phật,chắc chắn sớm đến đỉnh cao của tỉnh thức.”

-Thoreau xây nhịp cầu Đông Tây.

497. Các nhà trí thức Hoa Kỳ lúc bấy giờ, vào cuối thể kỷ thứ 19, nhìn Phật Giáo như thế nào?

- Một trong những người mà Thoreau quen biết qua sách vở là mục sư William Emerson,phái Unitarian,rất hâm mộ văn học,triết học Đông Phương.Con của mục sư William Emerson là Ralph Waldo Emerson,một thiên tài.Ralph say mê Á Đông nhưng chưa biết gì nhiều về Phật Giáo.Năm 1842 ông viết:“Phật Giáo:Mùa đông ,ban đêm,ru ngủ,là cuộc xâm nhập của Buddh bất tử và nó tiến dần,tiến dần từng bước một.Hãy để cho chủ trương Laissez-faire ấy,đó là Phật Giáo,trống trải,lạt lẽo,bất cân đối,nhưng rất hợp thời trang,về triết học cũng như chính trị,với nhiều danh từ đẹp đẽ được sử dụng để che đậy cái hỗn loạn bên trong:thiền lạc,tĩnh lạc,buông xả,thiền duyệt…tất cả Budd,Budd trần truồng..”

- Ngày 4 tháng 7,1855,Ralph Waldo Emerson nhận được ấn bản đầu tiên tập thơ Leaves of Grass(Thảo Diệp) của Walt Whitman,một đại thi hào Hoa Kỳ.Sáu ngày sau Ralph viết thư cho Sam Ward về tập thơ:“Thật tuyệt hảo,nói lên cái rộng lượng của Đông Phương,một Budd Mỹ …”Bài thơ cuối cùng Passage to India(Hành trình đến Ấn Độ) trong thi tập Leaves of Grass,Whitman viết:

Set Forth-Steer for the deep water only

Reckless O soul,exploring,I with thee and thou with me

For we are bound where mariner has not yet dared to go

And we will risk the ship ,ourselves,and all!

Tạm dịch:

Lướt sóng đi-vào nước sâu,sâu thẳm,

Hồn chơi vơi,khám phá mãi không ngừng,ta với người và người lại với ta,

Chúng ta đến nơi không thủy thủ nào dám đến,

Hiến dâng tất cả,cuộc đời,mạng sống,tàu thuyền xuôi!

- Whitman hướng về Ấn Độ tìm lẽ sống,tìm nguồn cảm hứng mới,mênh mông hơn,kỳ diệu hơn, mặc dầu phải lướt sóng gió sấm sét thời đại của nền văn hoá Ki Tô,của truyền thống ông cha và bối cảnh lịch sử.Whitman tiến mãi không ngừng,không phải chỉ tìm cảm hứng riêng tư mà còn để cung cấp cho thế hệ hiện tại và tương lai,ánh sáng nhiệm màu của trời Đông.

- Whitman là một Phật tử đặc biệt trong nhóm Siêu Việt Concord.

498. Tập thơ Phật Giáo nào đã làm cho độc giả Mỹ xúc động?

- Năm 1878 Edwin Arnold cho ra đời cuốn Light of Asia(Ánh Sáng Á Châu).Oliver Wenkell Holmes viết bài bình luận 26 trang đăng trong The International Review ca ngợi:“ Ý nghĩa và lời thơ thanh thoát,vượt qua những áng văn thế tình,ngoại trừ Kinh Tân Ước”.The Light of Asia tạo một ấn tượng đẹp đẽ và cảm động trong đầu óc và tâm khảm người Hoa Kỳ.Nhiều bà đã khóc khi đọc đoạn thơ Thái Tử Tất Đạt Đa từ giã vợ con,xuất gia tu đạo.

- Arnold bằng lời thơ bóng bẩy, đơn sơ,như bức tranh thủy mạc,diễn tả Phật nhập Niết Bàn,gọn ghẽ trong bốn dòng thơ ngắn:

He is one with life

Yet lives not.He is blest,ceasing to be.

Om Mani Padme Om ! The dewdrop slips

Into the shining sea !

Tạm dịch:

Người và Nguồn Sống biến thành nhất thể

Cuộc đời nhân thế đâu người trải qua.

Người xa sinh tử Ta Bà, đi vào Tịch Tịnh hư vô Niết Bàn,

Án Ma Ni Bát Mê Hồng!Giọt sương tan biến hòa vào hải quan!

Tập Ánh Sáng Á Châu đến với Hoa Kỳ đánh dấu diễn trình dài gần 100 năm kể từ ngày Sir William Jones khám phá kho tàng Sanscrit.Giờ đây Phật Giáo đối với Tân Thế Giới không còn xa lạ nữa.

499. Phật Giáo truyền đến Âu Châu, Mỹ Châu trải qua bao nhiêu giai đoạn?

- Trải qua ba giai đoạn,ba lãnh vực khác nhau:triết học,nghiên cứu,hành trì.

- Lãnh vực triết học bắt đầu từ Arthur Schopenhauser năm 1819 và tiếp tục nảy nở cho đến nay.Tư tưởng Phật Giáo của Schopenhauser đã ảnh hưởng đến nhạc sĩ trứ danh như Richard Wagner, đến triết gia thượng thặng như Bergson,đến nhà văn hóa sáng tạo như Helena Petrova Blavatsky của Hội thông Thiên Học.Gần đây ảnh hưởng Phật Giáo tràn ngập tư tưởng của những triết gia như Rickert,Jaspers,Wirtgenstein,Heidegger.

- Lãnh vực nghiên cứu bắt đầu cách đây 150 năm,từ Wilìam Jones khám phá gia tài văn học Sanscrit,Rhys Davids khai thác gia tài văn hóa Pali,các học giả Pháp trong trường Viễn Đông Bác Cổ,học giả Hoa Kỳ trong trường Ngôn Ngữ Á Đông đã bỏ công nghiên cứu văn học,tôn giáo Á Đông.

- Từ đỉnh cao triết học,từ vùng cao nguyên nghiên cứu,giờ đây chúng ta đi xuống miền đồng bằng của Phật Giáo đại chúng:trong vòng tám,chín chục năm lại đây nhiều Hội đoàn Phật Giáo đã mọc ra khắp xứ Hoa Kỳ với nhiều phương thức hành trì Phật Đạo.

500. Cộng đồng Phật Giáo ngoại quốc nào đến Mỹ đầu tiên?

- Cộng đồng Phật Giáo Trung Hoa.Năm 1848 vàng được khám phá tại Bắc San Francisco,lúc ấy người Trung Hoa rất ít tại Hoa Kỳ.Một năm sau 300 thương gia đến Mỹ.Năm 1852, 20,000 người Trung Hoa đến Hoa Kỳ làm công nhân khai thác mỏ vàng.Năm 1960 người Trung Hoa chiếm 10% tổng số dân California.Vào cuối thế kỷ thứ 19,tổng số người Trung Hoa tại Mỹ là 36,000 người.Năm 1867 các đoàn công nhân Trung Hoa bắt đầu đặt đường rầy xe lửa cho hãng Central Pacific.Dần dần người Trung Hoa làm đủ nghề nghiệp.

- Tại Mỹ người Hoa tổ chức thành từng bang,hội theo dòng họ,nguyên quán.Hội là trung tâm văn hoá và tín ngưỡng của người Trung Hoa di cư.Năm 1853 tại San Francisco Hội Sze Yap xây cất ngôi chùa đầu tiên.Năm 1854 Hội Ning Yeong xây cất ngôi chùa thứ hai.Cuối năm 1875 ở khu phố tàu tại San Francisco có 8 ngôi chùa.Cuối thế kỷ thứ 19,khắp nước Mỹ từ San Dieogo đến Vancouver,miền tây Canada,qua Nevada,trên 400 ngôi chùa Trung Hoa được xây cất.

501. Trên 400 ngôi chùa của người Trung Hoa xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 19 hiện nay còn tồn tại?

- Hầu hết những ngôi chùa này không còn tồn tại ,vì họ không có chư tăng đủ điều kiện hướng dẫn, đa số con cháu hoà nhập vào xã hội Hoa Kỳ.

502. Hiện nay tại Hoa Kỳ có những ngôi chùa Trung Hoa đồ sộ được xây dựng vào thời kỳ nào?

- Vào thập niên 1950 sau khi Lục Địa Trung Hoa lọt vào tay Cộng Sản,dân Trung Hoa từ Hoa Lục,Hong Kong,Singapore,Đài Loan di cư đến Hoa Kỳ,phần đông là những thương gia,trí thức.Họ đã xây dựng những ngôi chùa lớn,có chư Tăng Ni lãnh đạo,như chùa Phật Giáo Đại Đồng,Kim Sơn Thiền Tự,Vạn Phật Thành,chùa Tây Lai v.v…ở California;chùa Đại Thừa,chùa Đại Giác ở New York v.v…

503. Phật Giáo Nhật Bản đến Hoa Kỳ vào thời kỳ nào?

- Thiền học bắt đầu tại Hoa Kỳ năm 1891 khi thiền sư Soyen Shaku, đệ tử truyền tâm pháp của Imakita Rosen,dòng Lâm Tế, đến Chicago tham dự Đại Hội Tôn Giáo thế giới. Ngài được dân chúng Hoa Kỳ ngưỡng mộ một phần vì kiến thức văn hoá Tây Phương và văn minh hiện đại,một phần vì đức độ và được chân truyền.

- Sau khi tham dự Đại Hội và hằng hóa,ngài trở về Nhật cho đến năm 1905,theo lời mời của ông bà Russell,ngài trở lại Hoa Kỳ dạy thiền cho gia đình và giảng dạy Phật Pháp cho bạn bè của gia đình Russell cùng dân chúng trong vùng.Ông bà Russell là thương gia giàu có,đã thăm viếng Nhật Bản,xây một ngôi nhà trên ngọn đồi nhìn ra biển Thái Bình Dương,cách thành phố San Francisco vài cây số,đặt tên là Tịnh Quang Gia Trang(House of Silent Light).Bà Russell là người Hoa Kỳ đầu tiên học công án thiền.

504. Thiền sư Soyen Shaku, người truyền bá thiền học đầu tiên tại Hoa Kỳ có đệ tử nào sang giá?

- Hai đệ tử sáng giá,một Tăng,một Cư sĩ,đó là Nyogen Senzaki và Daisetz Suzuki.Nyogen Senzaki thông thạo cổ văn Trung Hoa,năm 18 tuổi đã học hết Tam Tạng kinh điển chữ Trung Hoa,học thiền Tào Động,Chân Ngôn,Luật Tông trước khi được Soyen Shaku truyền tâm pháp.Thâm nhập đạo lý vô thường,Nyogen Senzaki ví cuộc đời mình không khác gì cây nấm“không có rễ sâu,không có cành,không có hoa và có lẽ không có hạt giống.”

- Theo thầy đến Hoa Kỳ làm đủ mọi nghề từ quản gia,bồi tiệm ăn,khách sạn,làm bếp,dạy tiếng Nhật,viết bài về thiền cho các báo Nhật,dành dụm được ít tiền,thuê phòng dạy thiền,gọi là Thiền Thất Lưu Động,hướng dẫn thiền quán suốt 30 năm tại Hoa Kỳ.

- Tiến sĩ Daisetz Suzuki theo Soyen Shaku học đạo,tháp tùng thầy đi khắp Hoa Kỳ hoằng hoá.Sau chín tháng hoằng hóa tại Hoa Kỳ,Soyen Shaku viếng thăm Âu Châu, Ấn Độ,Tích Lan nơi ngài đã sinh sống tu học trên 20 năm,Daisetz Suzukit trở về Lasalle làm việc với Carus.Hai năm sau ông đến London,Paris trên đường trở về Nhật.

505. Thiền sư Nyogen Senzaky, đệ tử của Soyen Shau có truyền tâm pháp cho đệ tử nào không?

- Một trong hàng đệ tử xuất sắc của Senzaki là Robert Aitken,người Hoa Kỳ,một trong những pháp hữu tương đắc là Nakagawa Soen,từ Nhật đến Hoa Kỳ năm 1949.

506. Ngoài thiền sư Soyen Shaku dòng thiền Lâm Tế đến Hoa Kỳ hoằng đạo, có vị sư Nhật Bản nào thuộc dòng Lâm Tế từ Nhật đến Hoa Kỳ hoằng đạo?

- Thiền sư joshu Ssaki đến Los Angeles tháng 6,1962 theo lời mời của hai đệ tử Dr.Harmon và Fladys Weisberg,lúc đầu ở trong một căn nhà nhỏ tại Gardena,California,sau nhờ Phật tử đóng góp,xây dựng trung tâm thiền Cimarron năm 1966.

507. Ngoài phái đoàn thiền sư Soyen Shaku đến Hoa Kỳ năm 1905, có phái đoàn thiền nào đến Mỹ kế tiếp?

- Phái đoàn thiền Lâm Tế thứ hai do Sokatsu Shaku, đệ tử y chỉ của Soyen Shaku, đến Mỹ năm 1906 cùng 6 đệ tử.Sau một thời gian hoằng hoá Sokatsu Shaku trở về Nhật,trừ Sokei-an và Tomoko.Sokei-an tốt nghiệp trường mỹ nghệ San-Francisco,làm đủ nghề:sửa tượng,viết văn,hướng dẫn thiền tập.

508. Người phụ nữ nào có công truyền thừ thiền học tại Mỹ?

- Bà Ruth Fuller Everett,vợ của Charles Everett,một luật sư nổi tiếng ở Chicago.Sau khi ông Everett mất,bà thành hôn với Sokei-an Sasaki,nhưng chẳng bao lâu Sokei-an cũng qua đời.Trước khi chết Sokei-an yêu cầu vợ(bà Sasaki)sau khi ông chết phải qua Nhật mời một thiền sư danh tiếng đến Hoa Kỳ tiếp tục sự nghiệp hoằng hóa của ông, đồng thời giao trách nhiệm phiên dịch tập Rinzai-roku,một thiền luận dòng Lâm Tế, để làm tài liệu căn bản cho việc hành trì thiền đạo tại Hoa Kỳ.

- Bà Sasaki đến Kyoto năm 1949,học tiếng Nhật,học tiếng Trung Hoa,đặc biệt Cổ Ngữ Trung Hoa thời Đường,thời Tống,tham dự các khoá thiền và pháp thoại với thiền sư Zuigan Goto-roshi,người đã cùng Sokein-an đến Hoa Kỳ năm 1906.Năm 1956 bà được phép xây dựng một thư viện và một thiền đường 16 chỗ ngồi cạnh căn nhà bà đã cư trú năm 1949 để làm nơi huấn luyện cho các thiền sư phục vụ tại Hoa Kỳ như Robert Aitken,Phillip Kapleau,Walter Nowich, đồng thời dịch tài liệu thiền từ chữ Trung Hoa, Nhật bản sang chữ Anh.Năm 1959 bà được phép xuất gia,tích cực đào tạo nhân sự cho trung tâm thiền tại Hoa Kỳ.Bà qua đời năm 1967.

509. Dòng thiền Tào Động hoằng đạo tại Hoa Kỳ như thế nào? Ngoài ra còn có thiền phái Nhật Bản nào khác tại Hoa Kỳ?

- Một hệ phái thiền quan trọng khác là dòng thiền Tào Động được thiền sư Hosen Isobe truyền đến Hoa Kỳ năm 1934,được Shunryu Suzuki đến phát triển năm 1959. Trung tâm chính của phái Tào Động tại Hoa Kỳ đặt tại 1881 Bush Street,San Francisco,về sau tạo dựng thiền tự trong núi Tassajara,nơi đào tạo và quy tụ nhiều thiền sư Hoa Kỳ nổi tiếng,nơi áp dụng phương thức hành trì một cách nghiêm minh theo quy củ của Bách Trượng. Đệ tử chân truyền của ngài là Richard baker.

- Còn có một thiền phái nữa gọi là thiền phái tổng hợp,sử dụng hai phương thức hành trì của Lâm Tế và Tào Động ,do thiền sư Sogaku Harada chủ trương,được hàng đệ tử nổi tiếng như Hakuun Yasutani,Phillip Kapleau,Taizan Maezumi đem đến truyền bá tại Hoa Kỳ.

510. Hoa Kỳ có một dòng thiền do Ni cô Jiya Kennett thành lập. Xin cho biết sơ qua về dòng thiền này?

- Thiền sư Jiju Kennett là một ni cô người Anh được huấn luyện tại Nhật,đồ đệ của Koho Zenji.Sau khi đã hoàn mãn chương trình tu học,Ni sư đến Hoa Kỳ thành lập hội Truyền Giáo Thiền (Zen Mission Society) và tu viện Shasta Abbey.Tu viện có chi nhánh tại Canada,Anh và Hoa Kỳ.

- Nếp sống tu viện theo nếp sống của người Âu:dùng dao thìa thay vì đũa,ngủ trên giường thay vì ngủ dưới đất v.v…

511. Tịnh Độ Tông đến Hoa Kỳ vào thời kỳ nào? Diễn trình phát triển Tịnh Độ Tông tại Hoa Kỳ như thế nào?

- Tịnh Độ Tông do người Trung Hoa truyền đến Hoa Kỳ khi họ đến làm phu mỏ vàng và làm đường rầy xe lửa tại California.Ngôi chùa Trung Hoa đầu tiên được xây cất năm 1853,ngôi thứ nhì năm 1854 và cuối năm 1875 người Trung Hoa có 8 ngôi chùa tại San Francisco,cuối thế kỷ thứ 19,có trên 400 ngôi chùa ở Mỹ.

- Người Mỹ với tinh thần kỳ thị lúc bấy giờ đã gọi các ngôi chùa người Trung Hoa là “Nhà Khói”(Joss House) thờ thần thánh,tối tăm,mịt mù hương khói ,nghi lễ ồn ào,xa lạ.

- Qua thời gian, hầu hết những ngôi chùa Trung Hoa này không còn tồn tại nữa.Cho đến năm 1959,lớp người Trung Hoa mới từ Hoa Lục ,Hong Kong, Đài Loan,Singapore đến Hoa Kỳ tị nạn , định cư,sau khi xây dựng chùa và thành lập Hội Phật Giáo Hoa Mỹ(SinoAmerican Buddhist Association),Hội mời Hòa Thượng Tuyên Hoá , đệ tử của Hòa Thượng trưởng lão Hư Vân đến trụ trì.Phật tử ngày càng đông nên Kim Sơn Tự Viện phải dời đến địa điểm khác,mở Viện Dịch Thuật Phật Giáo Quốc Tế,mở Vạn Phật Thành,phát triển Tịnh Độ ,Luật,Thiên Thai,Mật,Thiền.

- Ngoài ra Phật tử Trung Hoa còn xây dựng những ngôi đại tự như chùa Phật Giáo Đại Đồng,chùa Tây Lai,mở Phật Học Viện,mở trường Đại Học Phật Giáo,phát triển hành trì Tịnh Độ.

512. Xin cho biết về các sắc thái của Tịnh Độ Tông. Tịnh Độ Tông Nhật Bản đến Hoa Kỳ vào thời kỳ nào? Diễn trình phát triển ra làm sao?

- Tịnh Độ Tông Nhật Bản thờ Đức Phật A Di Đà,Giáo Chủ Tây Phương Tịnh Độ,có 4 sắc thái đặc biệt:

- 1/Sắc thái Thiên Thai và Chân Ngôn,trong đó Phật A Di Đà là một trong Ngũ Trí Như Lai(Dhyani Buddha),ngự ở Tây Phương,có đức Phật Đại Nhật(Mahavaivocara)ngự ở chính giữa.

- 2/Sắc thái dung thông niệm Phật,theo đó công đức của một người tin tưởng ở Phật A Di Đà có thể chuyển đến người khác và ngược lại,hỗ tương công đức.

- 3/Sắc thái Tịnh Độ, chỉ dựa vào ba bộ kinh Tịnh độ, đặc biệt căn cứ vào lời nguyền của Phật A Di Đà.

- 4/Sắc thái Chân Tông,tín ngưỡng Di Đà được giảng dạy một cách chặt chẽ theo nguyện thứ 18 của Phật A Di Đà được mô tả trong Kinh Đại Bản Tịnh Độ.

Năm 1868 sau khi Minh Trị Thiên Hoàng lên ngôi,toán công nhân Nhật gồm 149 người đầu tiên đến Hawaii.Năm 1887 một toán 953 công nhân đến Hawaii làm trong các đồn điền.Ngày 12-3-1889 một nhà sư trẻ tuổi hiệu là Kahabi thuộc Tịnh Độ Chân Tông(Jodo Shinshu)quan tâm đến đời sống công nhân Nhật tại Hải Ngoại, đến Honolulu,thấy tại đây có vài ngôi chùa Trung Hoa theo Tịnh Độ Tông,thờ Phật A Di Đà và Bồ Tát Quan Âm, liền vận động xây dựng ngôi chùa Phật Giáo Tịnh Độ Nhật Bản đầu tiên tại Hilo.Năm 1894 một ngôi chùa Tịnh Độ Nhật Bản lớn được xây dựng trên đảo Hawaii.

Toán di dân Nhật Bản đầu tiên đến lục địa Hoa Kỳ năm 1869.Năm 1870 tại lục địa Hoa Kỳ chỉ có 70 người Nhật,trong số này có một tu sĩ Phật Giáo theo Tịnh Độ Tông tên là Renshi Takuyu Unegami.Năm 1890 số dân Nhật tại Hoa Kỳ là 2,039, phần nhiều theo Tin lành vì họ cho rằng hành trì tìn ngưỡng cổ truyền nơi đất lạ quê người chỉ gây thêm

khó khăn,rắc rối,mãi cho đến khi được ổn định họ mới quay trở về với nền văn hóa cũ.

Ngày 1 tháng 6,1947 Hội Phật Giáo Hoa Kỳ(Buddhist Churches of America) tổ chức Đại Hội.Năm 1947 Hội có 15,000 Hội viên thực thụ và vị lãnh đạo tinh thần thuộc tông phái Tịnh độ.Hội mở Phật HọcViện,tuyển chọn những vị sư biết hai thứ tiếng Nhật,Anh để hoằng đạo.Hội có nhiều chi nhánh.Hoạt động của Hội bao trùm nhiều lãnh vực văn hoá,giáo dục,tín ngưỡng tổ chức,Hội thành lập Hội Phụ Nữ,Thanh Niên.Trên phương diện giáo dục,Hội thành lập hai trung tâm giáo dục tại Hoa Kỳ:Viện Phật Học(Institute of Buddhist Studies) tại Berkeley,California được quyền cấp bằng Master cho sinh viên và Viện Phật Học Hoa Kỳ(American Buddhist Academy) tại New York.

513. Mật Giáo Tây Tạng có bao nhiêu giáo phái chính? Có bao nhiêu giáo phái Mật Giáo tại Hoa Kỳ?

- Có hai hệ phái chính mà ta thường gọi là Phái Mũ Đỏ và Phái Mũ Vàng(Hồng Phái và Hoàng Phái).

- Phái Mũ Đỏ lại có 3 chi phái, đó là:1/ Chi phái Nyingma hay Cổ Phái,thành lập năm 747 tại Tây Tạng.2/ Chi phái Karma Kargyu được thành lập vào thế kỷ thứ 11.

- Phái Mũ Vàng là phái Cải Cách,Gelugpa,môn phái chính của Phật Giáo Tây Tạng,Mông Cổ,thành lập vào thế kỷ thứ 15.Dalai Lama thuộc chi phái này.

- Sau khi Trung cộng tiến chiếm Tây Tạng ,Dalai Lama và một số chư Tăng,dân chúng Tây Tạng đến Ấn Độ tị nạn,từ đó truyền bá Mật Giáo đi khắp nơi trên thế giới .

- Tại Mỹ có 3 phái Mật Giáo:1/Mật Giáo Tây Tạng,Mông Cổ,có khi cũng gọi là Lạt Ma Giáo. 2/Chân Ngôn Tông Nhật Bản. 3/Một Bộ Phái Mật Giáo Nhật Bản khác hành trì trong rừng núi,đó là phái Shugendo.Trong ba giáo phái này,Mật Giáo Tây Tạng,Mông Cổ là quan trọng hơn hết.

514. Ai là người đầu tiên mang Mật Giáo Tây Tạng đến Hoa Kỳ? Vị này thuộc hệ phái Mật Giáo nào?

- Tarthang Tulku,phái Nyingma đến Hoa Kỳ năm 1968,thành lập trung tâm thiền Nyingma tại Berkeley,trung tâm thiền Tây Tạng đầu tiên dành cho người Mỹ .

- Tiếp theo là Chogyam Trungpa(1939-1987),thuộc giáo phái Karma Kagyu,chuyên hành trì Kim Cang Thừa,tốt nghiệp Đại học Oxford năm 1967,thành lập trung tâm thiền Samaye-Ling ở Scotland, đến New York năm 1970,dạy tại Đại Học Boulder, Colorado, thành lập trung tâm thiền Karma Dzong tại Boulder,trung tâm Phật Giáo Rocky Moutain,Dharmadatu Meditation Center,Trung tâm An Dưỡng,Học viện Naropa…tác giả của nhiều cuốn sách về Mật Giáo bằng tiếng Anh.

515. Hệ phái Nyingma đến Hoa Kỳ hoạt động như thế nào?

- Mở trung tâm thiền,dạy học,trước tác.

- Năm 1972 Dudjom Rimpoche(Jigdral Yeshe Dorje,1904-1987)thuộc phái Nyingma đến thăm Hoa Kỳ.Ngài là một Lạt Ma uyên bác ,tác giả của trên 40 tập sách về nhiều ngành, đến hoằng truyền phương thức thiền quán Dzogchen,thành lập nhiều trung tâm thiền tại Hoa Kỳ,Pháp,Canada.Thể theo lời yêu cầu của Dalai Lama,ngài soạn bộ lịch sử hệ phái Nyingma,toàn bộ Phật học và lịch sử Tây Tạng .

516. Các giáo phái Mật Giáo Nhật Bản tại Hoa Kỳ như thế nào?

- Hệ phái Shingon(Chân Ngôn Tông) được truyền thừa vào Trung Quốc năm 720,vào Nhật Bản năm 816,vào Hoa Kỳ năm 1912,thành lập chùa Koyasan Buddhist Temple tại Los Angeles .

- Hệ phái Shugendo là hệ phái Mật Giáo thứ 2 của Nhật Bản tại Hoa Kỳ.Môn đồ của hệ phái này có tên là Yamabishi,Sơn Cư,có nghĩa là những kẻ sống trên núi.Trụ sở chính của hệ phái này đặt tại San Francisco,dưới sự hướng dẫn của Anagarika Govinda và tiến sĩ Neville Warwick.

517. Nhật Liên Tông của Nhật Bản truyền đến Hoa Kỳ khi nào?

- Nhật Liên Tông có duyên với Hoa Kỳ khi Yoshigirai Kawai,tu sĩ Nhật Liên Tông,thành viên của phái đoàn Phật Giáo Nhật Bản tham dự Đại hội Tôn Giáo Thế Giới năm 1893 tại Chicago.Một trăm năm sau,ba đại biểu của Nhật Liên Tông đến Hoa Kỳ tham dự Đại Hội Tôn Giáo cũng tại Chicago.

- Nhật Liên Tông do Nhật Liên(Nichiren 1222-1282)thành lập,có hai chi phái: 1/ Nhật Liên Chân Tông(Nichiren Hoshu)do Nikko Shonin,đệ tử của Nichiren thành lập sau khi Nichiren viên tịch. 2/ Hội Soka Kyoiku Gakkai sau đổi ra Soaka Gakkai do Tsunesaburo Makiguchi thành lập năm 1930,được thừa kế bởi Josei Toda(1900-1958),rồi Daisaku Ikeda(1928- ),là một tổ chức có Tăng,Cư Sĩ với trách nhiệm và quyền hạn được phân định rõ ràng.Năm 1991,sự hợp tác giữa Tăng sĩ của Nichiren Shoshu và tổ chức cư sĩ Soka Gakkai không còn nữa khi Nikken Shonin trục xuất tất cả thành viên cư sĩ của hội Soka Gakkai ra khỏi giáo hội,từ đó Soka Gakkai là một tổ chức Phật Giáo Nhật Bản hoàn toàn cư sĩ.

- Từ ngày tách thành hai,tuy chư tăng có những ngôi chùa truyền thống nhưng không phát triển mấy,trong khi Soka Gakkai bành trướng mạnh mẽ.Chư Tăng biến những hội Pháp Hoa(Hokke-Kyo)trước đây được thành lập tại mỗi chùa thành Ban Hộ Trì Tam Bảo,không có Chủ tịch,không có cấp lãnh đạo mà chỉ là những Chúng Trưởng,có trách nhiệm hướng dẫn hội viên hành trì giáo nghĩa Nhật Liên dưới quyền lãnh đạo của Chư Tăng và có trách nhiệm hộ trì chùa .

- Năm 1960,chủ tịch Soka Gakkai,ông Daisaku Ikeda đến Hoa Kỳ xiển dương Giáo nghĩa Nhật Liên, số hội viên tăng lên từ 700,000 gia đình năm 1960 đến 16,000,000 người năm 1970.Tại Hoa Kỳ năm 1963 Hội Soka Gakkai có 10 chi nhánh,năm 1974 hội có 258 chi nhánh khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và 20 chi nhánh ở Trung,Nam Mỹ và Caribbean và 60 đoàn sinh viên trong các Đại Học Mỹ.Năm 1966 hội xây dựng trung tâm Quốc Tế Soka Gakkai tại Miami,Florida trên một thửa đất rộng 125 acres,chi phí trên 25 triệu đô la .

518. Phải chăng hoạt động của Soka Gakkai không thuần túy tôn giáo?

- Mục tiêu của Soka Gakkai là Kosen-rufu,nghĩa là chuyển hóa thế giới qua giáo nghĩa Nhật Liên,hoạt động nhiều mặt:tôn giáo,văn hoá,thanh niên,chính trị,xã hội .

- Về lãnh vực chính trị, Soka Gakkai thành lập một tổ chức chính trị riêng biệt,lấy danh hiệu Komeito(Đảng Chính Phủ Trong Sạch) không trực thuộc Soka Gakkai mà là một tổ chức ngoại vi của Soka Gakkai.Tại Nhật Bản Đảng Komeito có nhiều Đảng viên đắc cử vào Hội Đồng Tỉnh,Thị Xã,Hạ Viện,Thượng Viện.

519. Phật Giáo Theravada (Nguyên Thỉ) đến Hoa Kỳ năm nào? Hoạt động như thế nào? Ai là người đầu tiên dịch tài liệu tiếng Pali ra tiếng Anh? Hội Pali Text Society thành lập năm nào?

- Người đầu tiên dịch tài liệu viết bằng tiếng Pali ra tiếng Anh là George Turner, một công chức Anh phục vụ tại Tích Lan,năm 1826 Turner dịch bộ Mahavamsa (Đại Sử) Chữ Pali ra chữ Anh.

- Hội Pali Text Society chuyên dịch Tam Tạng kinh điển Palibra tiếng Anh được T.W.Davids thành lập năm 1881, được phu nhân và sau đó cô L.B.Horner kế tiếp hoạt động .

- Người Âu Châu theo truyền thống Theravada đầu tiên là Charles Henry Allen Bennett(1872-1923),người Anh,với pháp hiệu Ananda Metteya.

- Hội Phật Giáo Luân Đôn được thành lập năm 1924,do Christmas Humphreys,một luật gia nổi tiếng và một học giả Phật Giáo nổi danh , lãnh đạo .

- Tại Hoa Kỳ trước năm 1966 không có chùa Phật Giáo Theravada , nhưng một số chư Tăng Theravada như Tích Lan được mời đến dạy các trường Đại Học Hoa Kỳ,tổ chức các lớp học Phật pháp,hướng dẫn thiền Vipassana(Thiền Minh Sát).

- Ngôi chùa Theravada đầu tiên tại Hoa Kỳ là chùa Tích Lan tại Washington D.C do Hòa Thượng Bope Vinita xây dựng năm 1966.Hiện nay chùa Theravada rất nhiều gồm chùa Tích Lan,Miến Điện,Thái Lan,Lào,Cao Mên,Việt Nam .

- Thiền Vipassana rất phổ cập tại Hoa Kỳ.Những trung tâm thiền lớn của người Hoa Kỳ như Spirit Rock,San Francisco Zen Center v.v…của người Hoa Kỳ thường xuyên tổ chức những khóa thiền cho thiền sinh Mỹ.

520. Thông thường mỗi khi Phật Giáo đến đâu đều hội nhập vào văn hóa xứ ấy, làm phong phú và dần dần chuyển hóa. Phật Giáo Mỹ trên diễn trình chuyển hóa đã gặt được kết quả gì đáng kể?

- Năm 1887 tờ báo Phật Giáo đầu tiên , tờ the Buddhist Ray ( Tia Sáng Phật Giáo) xuất bản tại Mỹ do Philangi Dasa ở Santa Cruz , California làm chủ bút .

- NĂm 1893 , Charles T.Strauss , gốc Do Thái , là người Phật tử đầu tiên thọ Tam Quy Ngũ Giới tại Hoa Kỳ do Dhammapala , người Tích Lan hướng dẫn .

- Trước đó 3 năm Đại Tá Henry Steel Olcott và bà Helene Blavatsky , sáng lập viên Hội Thông Thiên Học Hoa Kỳ đã Quy Y , thọ Ngũ Giới tại Tích Lan ngày 25-5-1880 .

- Tiến sĩ Walter Yeeling ( Evans-Wentz, 1878-1965) tốt nghiệp Đại Học Stanford , Oxford , Rennes , đã đến với Phật Giáo với tất cả nhiệt tình, là tác giả của cuốn The Tibetan Bơk of the dead : The Tibetan of The Great Liberation ( Tử Thư Tây Tạng : Đại Giải Thoát Thư Tây Tạng ).

- Bà Ruth Fuller ( 1883-1967) dành gần nửa đời mình cho truyền thống thiền ở Hoa Kỳ .

- Paul Carus ( 1852 , một học giả Phật Tử Hoa Kỳ Gốc Đức , tác giả tập Gospel of The Buddha ; Karma : A Story of Early Buddhism , Buddhism and Its Christian Crtics…

- Philiip Kapleau , Jeffrey Block ( Bikkhu bodhi ) , Joseph Goldtein , Jack Kornfield , Sumedho , Dr. Alexander Berzin.Prof.Jeffrey Hoplins, Jonathan Landaw , Robert Alexander Farra Thurman , Turrel W.Wylie , Robert Aitken , Richard Baker , Bernard Glassman , Dennis Merzel , Walter Norwick , Joe Stevens , Alfred Bloom , Ken Wilber và vô số học giả , trí thức Hoa Kỳ đã đến với Phật Giáo , học Phật , hành trì Phật đạo .

- Sau thời gian 50 năm , trong đà chuyển hoá , Phật giáo Mỹ đã bắt đầu trưởng thành , nhiều cơ sở Phật Giáo Mỹ được thành lập , đặc biệt là những thiền viện đạo tào nhân sự cho Phật Giáo Hoa Kỳ .

521. Xin cho biết sắc thái đặc biệt của Phật Giáo Hoa Kỳ?

- Họ không có Ngũ Đài Sơn , không có núi Phú Sĩ với truyền thống Phật Giáo lâu đời trong cảnh trí thiên nhiên để chiêm bái . Họ tự tạo dựng lấy , họ dành thì giờ 3 năm để tạo một con đường mòn trên núi nối liền 9 trung tâm cách hàng nghìn cây số làm con đường chiêm bái , từ Santa Cruz đến Rock Spirit , đến Green Gultch Farm Tại Marin County , California.

- Ngoài học đạo , tu thiền , họ dấn thân vào công tác từ thiện , y tế xã hội : thành lập The Buddhist Alliance for Social Engagement , sử dụng nhân viên tình nguyện giúp tù nhân , nhà thương , nhà tạm trú cho những kẻ vô gia cư ; thành lập Zen Hospice Project giúp bệnh nhân sắp sửa qua đời ; thành lập Caregiver Volunteer giúp bệnh nhân nấu súp , thay khăn trải giường , đấm bóp , kể chuyện đạo cho bệnh nhân nghe tại nhà riêng ; thành lập Public Educational Program giúp đỡ các tổ chức y tế có cách nhìn khác về vấn đề sống chết ; tổ chức Pentagon meditation Club , hướng dẫn nhân viên Bộ Quốc Phòng về thông điệp hòa bình của Phật ; thành lập học viện lấy tên là Barre Center for Buddhist Studies , theo mô hình của Đại Học Nalanda ; thành lập nhà xuất bản kinh sách lấy tên là Wisdom Publication ; thành lập Hội Bảo Trợ Tăng Già Tây Phương ( The Friends of the Western Buddhist Order ) ; thiết lập phòng thông tin Phật Giáo Nữu Ước ( Buddhist Information Service of New York ) ; thiết lập trung tâm Margaret Austin Center tại Houston , Texas làm nơi an dưỡng , nghe pháp , tu niệm v.v…

522. Ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đại chúng Hoa Kỳ như thế nào?

- Trong ký bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tháng 11 năm 1988 , một nhà bình luận chính trị đã nói về Mario Cuomo , Thống Đốc Nữu Ước , khi ông này không chịu ra tranh cử ứng cử viên Dân Chủ , như sau : “ Cuomo rất là Zen , ông ta tranh cử bằng cách không ra tranh cử .” Ai có thể tưởng tượng được danh từ Zen của Phật Giáo Nhật Bản chỉ cách đây hơn 50 năm bây giờ đã trở thành một đề tài chính trị Hoa Kỳ . Danh từ Zen từ chữ Thiền Trung Hoa , chữ Thiền từ chữ cổ Phạn Dhyana đã lưu chuyển qua một thời gian 3000 năm , vượt qua một không gian mênh mông , từ chân núi Hy Mã Lạp Sơn đến vùng Trung Á , đến đồng ruộng dọc lưu vực sông Hoàng Hà , sông Dương Tử , đến những ngôi chùa cheo leo trên đỉnh núi Phù Tang và cuối cùng trèo lên các cao ốc chọc trời Nữu Ước !

- Trong buổi lễ trao giải Oscar cho các tài tử điện ảnh Hollywood , Adam Yauch , ca sĩ 33 tuổi đã cùng ban nhạc trình bày bản Bodhisattva Oath ( Bồ Tát Nguyện ) cho thính giả Hoa Kỳ nói lên hoài bão cứu người tiềm ẩn trong lòng dân chúng .

- Đại Học Syracuse tổ chức Hội Thảo với chủ đề The Flowering of Buddhism in America ( Phật Giáo Nở Hoa Trên Đất Mỹ ) . Đại học Michigan tổ chức Hội thảo với chủ đề World Buddhism in North America ( Phật Giáo Thế Giới tại Bắc Mỹ ) , Viện Phật Học Bekerley , California tổ chức Đại Hội với chủ đề Buddhism in America : An Expending Frontier ( Phật Giáo Hoa Kỳ : Một biên thùy mở rộng ).

- Hoa Kỳ là một Hiệp Chủng Quốc . Trên đất Mỹ có nhiều giáo phái Phật Giáo , với những truyền thống khác nhau , Phật Giáo Mỹ đang cố gắng tạo cho mình một sắc thái đặc biệt .Con đường còn dài , nhiều chông gai , nhưng cũng nhiều triển vọng .

523. Phật Giáo Việt Nam đến Mỹ vào thời điểm nào? Ngôi chùa Phật Giáo Việt Nam đầu tiên được tạo dựng tại Hoa Kỳ là ngôi chùa nào?

- Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân và Pháp sư Thích Giác Đức là người đầu tiên đem Phật Giáo Việt Nam đến Hoa Kỳ . Năm 1966 Hòa Thượng sang Mỹ qua chương trình trao đổi Giáo sư và dạy tại trường Đại Học UCLA ( University of California , Los Angeles ) , thành lập Quốc Tế Thiền Viện năm 1970 , thành lập Viện Đại Học Đông Phương năm 1973 .

- Để đáp ứng nhu cầu Phật Tử sang Hoa Kỳ tị nạn năm 1975 , Hoà Thượng sáng lập chùa Phật Giáo Việt Nam tại Los Angeles năm 1975 , chùa A Di Đà 1976 , thành lập Hội Liên Hữu Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ năm 1976 .

524. Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ phát triển như thế nào?

- Năm 1978, sau 3 năm hoạt động , 14 đơn vị cơ sở địa phương được hình thành , một Đại Hội Phật Giáo được tổ chức tại chùa Phật Giáo Việt Nam , Los Angeles trong ba ngày 29,30,31 tháng 12 , 1978 , quy tụ trên 50 Đại Biểu của 14 đơn vị . Đại hội quyết định thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ .

- Năm 1979 hòa thượng Thiên Ân mời hòa thượng Thích Đức Niệm đến Hoa Kỳ thành lập Phật Học Viện Quốc Tế . Sau vài năm , một Đại Giới Đàn được tổ chức tại Phật Học Viện Quốc Tế.

- Năm 1980 Hòa Thượng Thiên Ân xúc tiến việc thành lập Đại Tòng Lâm Phật Giáo tại Palmdale , California , cùng chư tăng các nước thành lập Hội Đồng Tăng Già Phật Giáo Miền Nam California ( The Buddhist Sangha Council of Southern California ).

- Ngày 29,30,31 tháng 8 và 1 tháng 9 , 1980 , với tư cách Ủy Viên Hoằng Pháp , Thượng Tọa Thích Nguyên Đạt tổ chức Đại Hội Hoằng Pháp tại Seattle , tiểu bang Washington , với sự tham dự của 15 đơn vị , ngoài ra còn có sự tham gia của Thượng Tọa Suhita , Ni Cô Sakita người Hoa Kỳ , Hòa Thượng Khampiro , Phó Tăng Thống Lào . Đại hội thảo luận về chương trình hoằng pháp , tài liệu giáo dục và việc đào tạo nhân sự cư sĩ cũng như Tăng Già .

- Ngày 23 tháng 11, 1980 Hoà thượng Thiên Ân viên tịch , hưởng thọ 56 tuổi đời , 44 năm tuổi đạo .

525. Sau Hòa Thượng Thiên Ân viên tịch năm 1980, Tổng Hội Phật Giáo Viết Nam tại Hoa Kỳ hoạt động như thế nào?

- Năm làm lễ Đại Tường của Hòa thượng Thiên Ân cũng là năm Tổng Hội tổ chức Đại Hội kỳ II vào ngày 1,2,3 tháng 1 , 1982 tại giảng đường Ananda , Viện Đại Học Đông Phương , với sự thanh dự của 83 Đại Biểu chính thức thuộc 20 đơn vị .

- Trong kỳ Đại Hội này chức vụ Chủ tịch được thay thế bằng Hội Chủ do Hòa Thượng Thích Mãn Giác lãnh đạo .

526. Ngoài Tổng Hội, Phật giáo Việt Nam có tổ chức nào khác?

- Sau khi Tổng Hội được thành lập năm 1978 , chư Tăng Ni họp tại Washington D.C ngày 6-5-1979 thành lập Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại , do Hòa Thượng Thích Tâm Châu làm Thượng Thủ , suy tôn 7 vị Thượng tọa lên Hòa thượng , gồm hòa thượng : Tâm Châu , Trung Quán , Thanh Cát , Chân Thường , Tường Vân , Lương Sơn và Hoà Thượng Giác Niên .

527. Như vậy đầu năm 1979 Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ có hai tổ chức: Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ và Giáo Hội Tăng Già Việt Nam Hải Ngoại, ngoài ra còn có tổ chức nào khác?

- Từ năm 1984 cho đến năm 1991, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoà Kỳ gặp khó khăn . Phật Giáo Theravada Việt Nam vẩn nằm trong Tổng Hội , nhưng một số chùa đã dần dần đứng ra ngoài Tổng Hội , thành lập những tổ chức riêng biệt .

528. Xin cho biết sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ.

- Vào tháng 9 năm 1991 các vị lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam ở hải ngoại nhận được bức Tâm Thư của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu gởi từ Huế , Việt Nam ngày 10-9-1991 , trong đó có những đoạn :

- “ Trong lịch sử truyền bá Phật Giáo Việt Nam cũng như thế giới , có lúc rất bi thảm đầy tủi nhục , nhưng có lúc vẻ vang đáng tự hào . Lúc bi thảm là lúc bản thể của Tăng Ni bị lu mờ , nội bộ của Tăng Ni bị phân hóa , thành phần của Tăng Ni có nhiều điều dị biệt , giới hạnh suy kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ , phiến diện . Trái lại , lúc vẻ vang là lúc nội bộ chúng tăng hòa hiệp , biết gạt bỏ những quyền lợi riêng tư , những ngã chấp tầm thường để tiến xa trên con đường tịnh hành , lấy giác ngộ giải thoát làm cứu cánh , lấy bản nguyện độ sanh làm sự nghiệp …

- “ Bởi vậy , từ quê hương và cũng chính từ kinh nghiệm bản thân , tôi hằng nghĩ đến , nếu không muốn nói là luôn luôn lo âu và theo dõi những sinh hoạt của Tăng Ni Việt Nam đang tu học và hành đạo ở hải ngoại , những người con của Giáo Hội , “đem chuông đi đánh ở xứ người” , một việc làm cao quý nhưng cũng đầy phức tạp . Với niềm thao thức đó , nay tôi có mấy lời tâm huyết gởi đến quý vị : Vì rằng , năm nay tôi đã xấp xỉ cử tuần , sự sống có thể ngừng lại bất cứ lúc nào và sự từ giã anh em trong trọng trách của mình cũng chưa kỳ hẹn được , nên tôi thiết tha kêu gọi quý vị hãy phát huy hơn nữa bản thể của Tăng Già mà đoàn kết hòa hiệp , hãy cùng nhau thể hiện tinh thần tương kính , tương thuận , tương giáo , tương sám , như luật dạy .

- Hãy vì sự tồn tại của Giáo Hội , vì sự quang vinh của đạo pháp và dân tộc mà gạt bỏ những quan điểm dị biệt để cùng hoằng dương chánh pháp, làm được nhiều Phật sự cụ thể , hữu ích và lớn lao hơn nữa như có nhiều vị đã thực hiện…”

Bức Tâm Thư trên là chất xúc tác mạnh mẽ khiến Chư Tăng Ni và Phật Tử Hoa Kỳ nỗ lực ngồi chung lại với nhau .

529. Ngoài bức tâm thư, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu có gửi lời nhắn nhủ nào nữa cho Tăng Ni Phật Tử hải ngoại?

- Ngài gởi thông điệp đề ngày 31 tháng 10 , 1991 . Trong bức thông điệp Hòa Thượng Thích Đôn Hậu đề nghị những biện pháp cụ thể trong việc hình thành thống nhất Phật Giáo Việt Nam ở hải ngoại , trong đó có :

- …“ Tất cả chư Tăng nguyên trước đây từng là Giáo phẩm , nhân sự , Tăng sĩ thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất , nay đang hành đạo và tu học tại nhiều quốc gia trên thế giới , nên có kế hoạch thành lập một Giáo Hội hợp nhất , lấy tên là một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại hải ngoại”.

- “ Nguyên tắc tổ chức của GHPGVNTN tại hải ngoại căn bản dựa theo hiến chương của GHPGVNTN đã ban hành năm 1964 , do một Ban Đại Diện ( hoặc có thể là Ban Điều Hành v.v….) trực tiếp lãnh đạo và chịu trách nhiệm với Hội Đồng Lưỡng Viện tại quê nhà .Tuy nhiên cũng có thể tùy theo điều kiện và bối cảnh cụ thể hải ngoại mà nghiên cứu phối hợp tổ chức sao cho hợp lý , hữu hiệu nhằm thể hiện tinh thần hoà hiệp cao độ , tạo cho lịch sử truyền giáo của Giáo Hội tại hải ngoại có hệ thống chặt chẽ và quy mô hơn …”

530. Sau khi nhận được tâm thư của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu và Giáo Chỉ của Hội Đồng Lưỡng Viện trong nước, chư Tăng Ni Phật Tử hải ngoại đáp ứng như thế nào?

- Hòa Thượng Mãn Giác , Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đã đọc bức tâm thư trong lễ khai mạc Đại Hội ngày 21 tháng 9 , 1991 .

- Phái đoàn đại biểu tham dự Đại Hội bày tỏ tâm nguyện thành khẩn đáp ứng tâm thư .

- Ban tổ chức Đại Hội mở phiên họp đặc biệt để thành lập ban Vận động Thống nhất .

- Ban Hướng Dẫn Trung Ương của gia đình Phật Từ Hoa Kỳ triệu tập phiên họp khẩn cấp vận động thống nhất và yêu cầu các ban hướng dẫn Trung Ương Canada , Úc Châu , Tân Tây Lan , Âu Châu vận động thống nhất .

- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ , Âu Châu , Canada triệu tập phiên họp đặc biệt để liên lạc với Úc Châu , Tân Tây Lan trong vận động thống nhất .

- Đại diện ban vận động gặp Hòa Thượng Thích Thanh Cát , Viện chủ chùa Giác Minh , Palo Alto cung thỉnh đứng ra tổ chức Đại Hội Thống Nhất . Ngày 1-10-1991 Hòa Thượng Thích Thanh Cát mời chư tôn đức Tăng Ni dự phiên họp thảo luận việc thống nhất , hầu làm tròn vai trò của bậc “ Chúng trung tôn”.

531. Tại sao Giáo Chỉ của Hòa Thượng Đôn Hậu không kêu gọi Phật tử đoàn kết, hợp nhất?

- Vì Chư Tăng đoàn kết hợp nhất , thì Phật tử hợp nhất , đoàn kết .

532. Đại Hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ được tổ chức ở đâu? Ngày tháng năm nào? Bao nhiêu đại biểu tham dự? Ai vắng mặt?

- Ngày 25-27 tháng 9 , 1992 Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo được tổ chức tại San Jose , hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất , trên 200 đại biểu của gần 100 đơn vị tham dự .

- Hòa Thượng Thích Thanh Cát vì trọng bệnh không thể tham dự . Hòa Thượng Thích Mãn Giác cũng vì trọng bệnh không thể tham dự nhưng có gửi thư chúc mừng Đại Hội . Thượng Tọa Pháp Châu , Nguyên Đạt không dự Đại Hội và không cho biết lý do .

533. Xin cho biết cơ cấu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ.

- Trong Kỳ Đại Hội Thống Nhất ngày 25 , 26, 27 tháng 9 , 1992 tại San Jose Đại Hội đã thông qua Quy chế của GHPGVNTNHNHK , gồm 8 chương , 38 Điều , được tu chính lần thứ nhất ngày 11 tháng 10 , 1996 , gồm 8 chương , 34 Điều , được tu chính lần thứ 2 ngày 1 tháng 9 , 2000, gồm 8 chương , 35 Điều .

- Theo Quy chế của GHPGVNTNHNHK , tổ chức của Giáo Hội gồm 3 cơ quan : 1/ Cơ quan quyết nghị : Hội Đồng Đại Diện , 2/ Cơ quan giám sát : a/ Hội Đồng Giám Luật . b/ Hội Đồng Giám Sát , 3/ Cơ quan chấp hành : a/ Hội Đồng Điều Hành . b/ Chánh , Phó Đại Diện Miền .

534. Để sinh hoạt Phật sự được thuận lợi, Hoa Kỳ được chia thành bao nhiêu Miền? Với danh xưng gì?

- Hoa Kỳ được chia thành 12 miền lấy pháp hiệu của 12 vị Cao Tăng Việt Nam như sau :

- 1/ Miền Vạn Hạnh gồm Nam California , từ Bakersfield về hướng Nam gồm tiểu bang Hawaii .

- 2/ Miền Liễu Quán gồm Bắc Cali từ Bakersfield về hướng Bắc .

- 3/ Miền Khuông Việt gồm các tiểu bang Alaska , Oregon , Washington.

- 4/ Miền Khánh Hoà gồm các tiểu bang Montana , Idaho , Wyoming và Colorado .

- 5/ Mìền Khánh An , gồm các tiểu bang Nevada, Arizona , New Mexico và Utah .

- 6/ Miền Quảng Đức gồm các tiểu bang North Dakota , Southa Dakota , Nebraska , Kansas , Missouri , Iowa và Minnesota .

- 7/ Miền Tịnh Khiết : tiểu bang Texas .

- 8/ Miền Tuệ Tạng gồm các tiểu bang : Wisconsin , Michigan, Illinois , Ohio và Kentucky .

- 9/ Miền Vĩnh Nghiêm gồm các tiểu bang Tennessee , Missisippi , Lousiana , Alabama, Arkansas và Oklahoma .

- 10/ Miền Phước Huệ gồm các tiểu bang Connecticut , New York , Massachusetts , Vermont , New Hampshire và Maine .

- 11/ Miền Thiện Luật gồm các tiểu bang Pensylvania , New Jersey , Maryland , Delaware , Rhode Island , Virginia , West Virginia và Washington D.C .

- 12/ Miền Tố Liên gồm các tiểu bang North Carolina , South Carolia , Georgia và Florida .

535. Xin cho biết thành viên và quyền hạn cũng như trách nhiệm của Hội Đồng Đại Diện.

- Hội Đồng Đại Diện gồm quý vị Hoà Thượng , Thượng Tọa trên 50 tuổi đời , 20 tuổi Đạo , thuộc các Tông Phái , hệ phái Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ , giới luật thanh tịnh , có thành tích phục vụ chánh pháp .

- Hội đồng đại diện có nhiệm vụ :

- 1/ Đề nghị cấp chứng điệp cho hàng giáo phẩm từ cấp Thượng Tọa trở lên .

- 2/ Ban Giáo Điệp vào dịp Lễ Phật Đản hàng năm .

- 3/ Ấn định đường lối hoạt động của GHPGVNTNHNHK / VPII VHĐ

- 4/ Tuyển thỉnh Chánh Văn Phòng Thường Trực của Hội Đồng Đại Diện , chủ tịch và các thành viên của Hội Đồng Giám Luật , Chủ tịch và các vị Phó chủ tịch Hội Đồng Điều Hành .

- 5/ Tấn phong Chánh văn phòng Hội Đồng Đại Diện , Hội Đồng Giám Luật , Hội Đồng Giám Sát và Hội Đồng Điều Hành .

536. Xin cho biết thành viên và quyền hạn cũng như trách nhiệm của Hội Đồng Giám Luật.

- Hội Đồng Giám Luật gồm 3 vị trở lên . Chủ Tịch Hội Đồng Giám Luật do Hội Đồng Đại Diện tuyển thỉnh có trách nhiệm :

- 1/ Giám sát các hoạt động của Giáo Hội về lãnh vực nghi lễ và giới luật.

- 2/ Đề nghị các biện pháp chế tài lên Hội Đồng Đại Diện đối với các thành viên Giáo Hội vi phạm giới luật .

537. Xin cho biết thành viên và quyền hạn cũng như trách nhiệm của Hội Đồng Giám Sát.

- Hội Đồng Giám Sát do Chủ Tịch phụ trách , gồm 3 thành viên được bầu trong Đại Hội Khoáng Đại , có nhiệm vụ :

- 1/ Kiểm soát các hoạt động của Hội Đồng Điều Hành ( trừ lãnh vực nghi lễ và giới luật thuộc phạm vi của Hội Đồng Giám Luật ).

- 2/ Thụ lý và đề nghị các biện pháp sửa đổi , chế tài liên quan đến lãnh vực hành chính , tài chính của Hội Đồng Điều Hành , của các cơ sở thuộc Giáo Hội lên Hội Đồng Đại Diện .

538. Xin cho biết thành viên và quyền hạn cũng như trách nhiệm của Hội Đồng Điều Hành.

- Chủ Tịch và các vị Phó Chủ Tịch do Hội Đồng Đại Diện tuyển thỉnh , các thành viên khác như Tổng Vụ Trưởng , Tổng Thư Ký , Phó Tổng Thư Ký , Thủ Quỹ , Phó Thủ Quỹ do Đại Hội khoáng đại bầu cử , có nhiệm vụ :

- 1/ Thi hành chính sách , chủ trương của Hội Đồng Đại Diện .

- 2/ Điều hành các ngành hoạt động của Giáo Hội cấp Trung Ương .

539. Xin cho biết thành viên và quyền hạn cũng như trách nhiệm của Đại Diện Miền.

- Ban đại diện miền do hai vị chánh , phó đại diện miền được Hội Đồng Điều Hành tuyển thỉnh có nhiệm vụ yểm trợ và đôn đốc công tác Phật Sự tại địa phương , các cơ sở Giáo Hội trong miền .

540. Xin cho biết sự liên hệ giữa Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhật Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quê nhà.

- Y cứ vào Điều 36 Hiến Chương tu chính năm 1973 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất quy định sự liên hệ giữa Giáo Hội Quê Nhà và hải ngoại .

- Y cứ vào điều 13 của Quy Chế GHPGVNTNHNHK / VPII VHĐ thì vị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Của Giáo Hội PGVNTNHNHK được Hội Đồng Lưỡng Viện của Giáo Hội Mẹ chuẩn y và bổ nhiệm là Phó Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đặc trách hải ngoại .

- Y cứ vào Điều 6 của Quy chế HPGVNTN hải ngoại tại Hoa Kỳ / VPII VHĐ liên hệ tinh thần và là văn phòng II Viện Hoá Đạo của GHPGVNTN tại quốc nội .

541. Trong các văn kiện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ có kèm theo Văn Phòng II Viện Hóa Đạo là ý nghĩa gì?

- Theo Quyết Nghị số 27/ VPL / VHĐ của viện Hoá Đạo Giáo Hội Mẹ do Hòa Thượng Thích Huyền Quang ký ngày 10-12-1992 ở Điều 3 và Điều 5 xác định vị thế của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Hoa Kỳ .

- Điều 3 : Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ có địa vị như một Giáo Hội cấp Quốc Gia , nhưng có tư cách đại diện tòan quyền Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất quốc nội trong thời gian không hạn định .

- Điều 5 : Văn phòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ cấp Liên Bang được coi như Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN quốc nội .

542. Xin cho biết sự liên hệ giữa Giáo Hội Trung Ương và Giáo Hội Đơn Vị Cơ Sở địa phương về mặt hành chánh, tài chánh, pháp lý như thế nào?

- Về mặt hành chánh , tài chánh và pháp lý giáo hội hay đơn vị cơ sở địa phương hoàn toàn tự trị , căn cứ vào Điều 24 và Điều 29 của Quy chế GHPGVNTNHNKH / VPII VHĐ.

- Điều 24 : Cơ bản của GHPGVNTNHNHK / VPII VHĐ là đơn vị cơ sở ( Tu viện , Tự viện , Phật Học Viện , Tịnh Xá , Niệm Phật Đường , các tổ chức và Hội Đoàn Phật Giáo ) do Ban Điều Hành Cơ Sở địa phương phụ trách . Thành Phần Ban Điều hành Cơ Sở do Giáo Hội Cơ Sở địa phương quyết định .

- Điều 29 : GHPGVNTNHNHK / VPII VHĐ có nhiệm vụ bảo vệ tất cả cơ sở tôn giáo của giáo hội tại các địa phương với sự nhìn nhận chủ quyền riêng về phương diện pháp lý cũng như tài chánh của những cơ sở địa phương đó .

543. Xin cho biết thành quả của Phật Giáo Việt Nam nói chung tại Hoa Kỳ? Những vị sư nào có ảnh hưởng lớn với cộng đồng Phật Tử Hoa Kỳ?

- Tại Hoa Kỷ trên 200 tự viện được thành lập , kinh sách , báo chí , tài liệu nghiên cứu được xuất bản .

- Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đã thành lập viện Đại Học Đông Phương , đã độ cho nhiều Tăng Ni người Hoa Kỳ .

- Hòa Thượng Nhất hạnh rất có ảnh hưởng đối với giới Phật tử Hoa Kỳ. Những tác phẩm của Hòa thượng bằng nhiều thứ tiếng là sách đầu giường của Phật tử Việt Nam cũng như ngoại quốc .

- Hòa Thượng Thích Hộ Giác phát triển và điều hành các tổ chức Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ .

- Những vị thượng tọa trẻ tuổi của Phật Giáo Việt Nam được dân chúng mến mộ , mời giảng đạo , hướng dẫn thiền như Thượng Tọa Nguyên Hạnh , Viên Lý , Huyền Việt , Giác Đẳng , Minh Dung , Hằng Trường , Phụng Sơn , Pháp sư Niên trưởng Thích Giác Đức v.v…

544. Xin cho biết hiện tình Phật Giáo tại Canada, Trung và Nam Mỹ.

- Phật Giáo Canada hoạt động rất mạnh , hầu hết những đô thị lớn đều có cơ sở Phật Giáo .

- Nói chung trong vòng bốn thập niên qua , dân chúng vùng Trung , Nam Mỹ đã đến với Phật Giáo ngày càng đông .

- Tại Brazil ( Ba Tây ) Đoàn Phật Học Naljorma hoạt động tích cực . Khởi đầu Đoàn chỉ có 20 đoàn viên , sau hai năm hoạt đông số đoàn viên lên đến 120 .

- Tại Venezuela , trung tâm Phật Giáo Tasmigar Norte Gonpa được xây dựng trên đảo Margarita , nơi nhiều khoá tu học được tổ chức .

- Tại Colombia , trung tâm Phật Giáo Yamantaka ở Bogata được thành lập , nơi tổ chức những khóa tu học cho mọi lớp tuổi , ngay cho những bệnh nhân ung thư và bệnh AIDS .

- Tại Mexico , tình hình phát triển Phật Giáo khả quan , nhiều khóa huấn luyện , thuyết giảng , hành trì được tổ chức tại nhiều trung tâm Phật Giáo.

- Tại Argentina (Á Căn Đình ) những khoá tu Bát Quan Trai thường xuyên được tổ chức tại trung tâm Phật Giáo Tashigar ở thủ đô Buenos Aires .

PHẦN XI: PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA, XÃ HỘI, CHÍNH TRỊ

545. Kinh sách Phật Giáo bằng chữ Nho, chữ Pali, hay dịch ra tiếng Việt bằng từ ngữ quá xưa, em đọc mà không hiểu mấy.

- Lãnh vực này cần được cải tiến , cần dùng ngôn ngữ thời đại để giảng giải Phật Lý .

- Tuy nhiên đôi khi khó hiểu giúp ta cố gắng tìm tòi , gián tiếp gíup đỡ cho người đọc Kinh sách Phật thấm nhuần hơn , thâm nhập Phật Lý hơn .

- Có một số Phật tử cho tụng kinh chữ Nho , chữ Pali lời lẽ thâm thúy , súc tích hơn .

546. Em thấy vào Chánh Điện phải cởi giày, dép để ngoài cửa trông có vẻ luộm thuộm, mất trật tự, thiếu trang nghiêm, đôi khi giày dép bị lạc hay bị mất.

- Hiện nay có một số chùa làm những bục kệ để xếp giày dép ; có chùa cho phép mang giày dép vào Chánh Điện .

- Tuy nhiên vào Chánh Điện cởi giày , dép là một hành động cung kính đối với Phật , một sắc thái văn hóa rất Á Đông mà những thiền đường người Âu Mỹ cũng áp dụng .

547. Vào chùa tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật mà mặc Âu phục, ngồi dưới đất thật hết sức bất tiện, nhăn áo quần, không thoải mái tí nào.

- Hiện nay có mộ sốt chùa để ghế dài kiểu nhà thờ để Phật Tử ngồi , có nệm để quỳ .

- Tuy nhiên đây cũng là một phương thức để duy trì phần nào phong tục Việt Nam .

- Đức Phật dầm sương dãi nắng 6 năm khổ hạnh tìm đạo giải thoát cho chúng ta , bây giờ chúng ta được vào chùa lạy Phật , được nghe Pháp mà sợ nhăn quần nhăn áo ?

548. Các nhà lãnh đạo Phật Giáo nói Phật Giáo và dân tộc Việt Nam dính liền nhau, hòa hợp cùng nhau thế mà tại một số chùa không có chương trình dạy tiếng Việt, dạy lịch sử, văn hóa Việt?

- Thường thường chùa nào có gia đình Phật Tử đều có chương trình dạy tiếng Việt cho đoàn sinh và thiếu nhi Việt Nam .

- Muốn chương trình dạy tiếng Việt , lịch sử , văn hóa Việt được duy trì và phát triển cần sự đóng góp tích cực của phụ huynh . Ở vài nơi chương trình dạy tiếng Việt , lịch sử , văn hóa việt được tổ chức nhưng thiếu phụ huynh tình nguyện dạy , đôi khi phụ huynh cũng không cho con em đến học nữa !

- Do đó cần nỗ lực thêm nữa về phía Chư Tăng Ni cũng như phía phụ huynh .

549. Trong 28 năm qua sinh sống ở Mỹ, mặc dầu với nhiều cố gắng của Tăng Ni, Phật Tử, của các anh chị trưởng, số lượng đoàn viên Gia Đình Phật Tử vẫn còn khiêm nhượng. Làm thế nào để cải tiến?

- Gia đình Phật Tử Vụ trong Tổng Vụ Thanh Niên mấy năm qua đã cố gắng điều chỉnh tình trạng này , tuy nhiên thành quả vẫn không được khích lệ cho lắm . Không những số đoàn viên Gia Đình Phật Tử mà ngay cả số lượng Phật Tử đi chùa , tham gia Phật sự ngày càng bớt đi .

- Tại sao như vậy ? Vì sinh kế ? Vì ảnh hưởng văn hoá địa phương ? Vì thiếu chương trình duy trì và phát triển hữu hiệu ? Vì chính trị chi phối ? Vì sự phân hoá nội bộ ? Vì ít quan tâm đến vấn đề ? Vì tập quán “ Ai tu nấy được , ai có duyên thì đến với chùa ?” Vì đức tin kém ?

- Đây là trách nhiệm của toàn thể Tăng Ni , Phật Tử , mỗi người một tay để xây dựng ngôi nhà Phật Giáo thêm vững chắc .

550. Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đang bước theo dấu chân của Phật Giáo Trung Hoa đến Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ thứ 19?

- Các nhà lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ thấy rõ nguyên nhân tại sao trên 400 ngôi chùa Trung Hoa được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 đến nay hầu hết không còn nữa . Những nguyên nhân chính khiến cho Phật Giáo trung Hoa ở đợt một bị suy thoái là không hội nhập với nền văn hóa bản xứ , không phối hợp hay không có chương trình hoằng pháp chung , là mỗi ngôi chùa sống riêng rẽ cho mình , là tinh thần Lục Hòa không được áp dụng và triển khai .

- Mặc dầu ý thức rõ ràng , nhưng ta vẫn đi dần theo dấu chân của Phật Tử Trung Hoa ! Làm gì đây ! Làm gì đây !

551. Phật Giáo Tây Tạng tại Hoa Kỳ với số lượng Tăng ít ỏi, với dân số Tây Tạng không đông mà họ tổ chức được nhiều trung tâm huấn luyện, nhiều thiền viện hướng dẫn Phật Tử Hoa Kỳ. Giáo phái Nhật Liên tại Hoa Kỳ thành lập ít nhất 60 đoàn Sinh Viên Phật Tử tại các trường Đại Học Hoa Kỳ. Phật Giáo Việt Nam có bao nhiêu thiền viện dạy người ngoại quốc, bao nhiêu Trung Tâm huấn luyện, bao nhiêu đoàn Sinh Viên Phật Tử, Học Sinh Phật Tử tại Hoa Kỳ?

- Rất là khiêm nhượng .

552. Muốn duy trì và phát triển cần hội nhập vào văn hóa xã hội địa phương. Phật Giáo Việt Nam đã có thành quả gì trong nỗ lực hội nhập ở Mỹ?

- Văn hoá là phương tiện thuận lợi nhất để khai triển và phát huy tinh thần Phật Giáo trong bối cảnh Hoa Kỳ . Các nhà tiền phong Phật Giáo đã dùng diễn đàn văn hoá đưa đạo Phật vào Mỹ . Công tác này còn được tiếp tục phát triển .

- Gần đây qua hoạt động của các giáo phái Nhật Bản , Tây Tạng , Theravada , Việt Nam , Đại Hàn , Hoa Kỳ về ngành tâm lý , tâm lý trị liệu , Hoa Kỳ đã đến với Phật Giáo một cách hăng say . Những ban đồng ca Phật Giáo , những ban nhạc Phật Giáo Mỹ ra đời .

- Tuy nhiên nói một cách tổng quát , Phật Giáo Việt Nam vẫn còn đóng khung trong cộng đồng Việt Nam , càng ngày càng teo lại vì cộng đồng Việt Nam ngày càng hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ .

- Phật Giáo Việt Nam phần nhiều chỉ còn bám vào những người chưa hội nhập để tồn tại !

553. Quan điểm của Phật Giáo về chiến tranh và hòa bình như thế nào?

Soyen Shaku kêu gọi : “ Luật quốc tế đã thành công trong việc bảo vệ quyền lợi quốc gia bằng biện pháp thương thuyết thay vì chiến tranh . Chúng ta hi vọng nỗ lực này được phát triển mạnh để thế giới được hưởng ánh sáng hòa bình vĩnh cửu thay cho đám mây mờ chiến tranh chém giết lẫn nhau mãi bao phủ . Chúng ta sinh ra không phải để đánh nhau . Chúng ta sinh ra để khai thông trí tuệ , để trau dồi đạo đức dựa vào ánh sáng chân lý …”

- Mặc dầu với những lời lẽ thành khẩn của một nhà sư , chiến tranh thường xảy đến trong lịch sử loài người , ngay cả chiến tranh tôn giáo !

- Một trong những giới cấm quan trọng của Phật Giáo là giới sát . Vì vậy chủ trương của Phật Giáo là hòa bình , bất bạo động , dung hợp , hòa giải.

- Chủ trương bất sát này có thể thực hiện được không trong trường hợp bị ngoại xâm ? Dưới quyền sinh sát của một chế độ độc tài ? Đây là một đề tài được Ban Chấp Hành Hội Phật Giáo Hoa Kỳ ( American Buddhist Congress) đưa ra thảo luận trong phiên họp tháng 6 năm 1999 .

- Mục tiêu chính của Tịnh Độ Chân Tông Hoa Kỳ là cổ cõ hòa bình thế giới qua việc tu dưỡng tâm tính : “ Tiên tu kỳ thân , hậu bình thiên hạ…” Các thiền sư và đạo sư Mật Giáo tích cực truyền đạt tư tưởng an bình trong mỗi người , giữa cộng đồng cũng như toàn thể nhân loại . Phật Giáo Hoa Kỳ vì vậy thành lập tổ chức lấy tên là Buddhist Peace Fellowship và Network of Engaged Buddhist để hoạt động theo chiều hướng này .

554. Quan niệm về môi sinh của Phật Giáo như thế nào?

- Lòng từ bi của Phật Giáo không những đối với loài hữu tình mà cả vô tình chúng sinh . Phật Giáo quan niệm người , vật , cỏ cây , sông biển liên hệ mật thiết với nhau .

- Súc vật , cây cỏ cũng như con người đều có chân đứng trên quả đất , trong vũ trụ , do đó cần phải bảo tồn thiên nhiên , giữ không khí trong lành , giữ sông biển trong sạch , không thể khai thác thiên nhiên một cách bừa bãi .

555. Phật Giáo đối với các vấn đề chủng tộc, màu da như thế nào?

- Đạo lý tất cả chúng sinh đều có Phật tính , nước mắt mọi người đều mặn , máu mọi người đều đỏ nói lên tinh thần bình đẳng , không phân giai cấp , chủng tộc , màu da của Phật Giáo .

- Đệ tử của Phật gồm giai cấp Bà La Môn , Sát Đế Lợi , Thủ Đà La , Chiên Đà La , nam nữ .

- Phật Giáo không có truyền thống mua bán nô lệ , duy trì cơ chế nô dịch.

556. Phật Giáo đối với vấn đề ngừa thai, phá thai như thế nào?

- Phật Giáo đối với hàng cư sĩ , tại gia , nói một cách tổng quát , chủ trương tiết dục . Phật Giáo không thấy trở ngại với những phương thức ngừa thai . Các giáo đoàn Phật Giáo nhiều lần đem vấn đề này ra thảo luận và khuynh hướng chung là pro-life , bảo vệ bào thai , nhưng cũng Pro-choice trong trường hợp đặc biệt như bị hiếp dâm , loạn luân , bệnh tật nguy hiểm đến tính mạng của người mẹ , tình trạng nghèo đói của gia đình …

- Nói một cách khác Phật Giáo không cố chấp vào một giải pháp hay quy luật cứng nhắc nào cả mà tùy theo từng trường hợp để giải quyết vấn đề với tinh thần trách nhiệm và bảo vệ mạng sống của bào thai và những người liên hệ .

557. Phật Giáo đối với vấn đề tự do luyến ái và đồng tính luyến ái như thế nào?

- Đối với vấn đề luyến ái , giới thứ ba “ bất tà dâm” trong Ngũ Giới ấn định khá rõ ràng : không được chăn gối hay liên hệ tình dục với người nào khác với vị hôn phối của mình . Trong một số quốc gia theo chế độ phụ hệ , hầu thiếp được xem như là vị hôn phối . Ở các quốc gia theo chế độ mẫu hệ , hầu phu được xem là vị hôn phối .

- Đối với vấn đề đồng tính luyến ái , Sulak Siravatsa , nhà sư Thái Lan và Dalai Lama không quan niệm đồng tính luyến ái là tội lỗi . Taitetsu Unno , thuộc trường Đại Học Smith , một học giả Phật Giáo và lãnh đạo tinh thần của phái Tịnh Độ Chân Tông Hoa Kỳ đã làm lễ thành hôn cho những cặp “ vợ chồng” cùng giới tính .

- Tổ chức Gay Buđhist Fellowship và Dharma Sisters là tổ chức săn sóc đời sống tâm linh của nam nữ hội viên đồng tính luyến ái .

558. Phật Giáo nhìn người mắc bệnh AIDS, những kẻ vô gia cư (homeless) với cặp mắt như thế nào?

- Tại Hoa Kỳ lần đầu tiên người ta phát hiện bệnh AIDS ở các người đàn ông , đàn bà đồng tính luyến ái . Người mắc bệnh AIDS mòn mỏi , thoi thóp nằm trền giường bệnh chờ ngày lìa đời mà họ không muốn lìa bỏ . Eric Kolving , môn đệ của Joseph Goldstein tại thiền viện Barre , Massachusetts , tình nguyện đến San Francisco để giúp đỡ bệnh nhân AIDS .

- Chư Tăng Hoa Kỳ do Gregg Cassin lãnh đạo , thành lập The Healing Circle tại San Francisco để đối phó với bệnh và bệnh nhân AIDS .

- Vào tháng 5 – 1993 , Bernard Tetsugen Glassman , đệ tử của thiền sư Maezumi Roshi , rất quan tâm đến tình trạng của những người vô gia cư ( Homeless) đứng ra thành lập Greyston Mandala tại Yonkers , New York , một cơ sở xã hội gồm nhiều hoạt động : tiệm Bánh , huấn luyện trên 200 người vô gia cư , cung cấp công ăn việc làm cho họ ; Hãng Greyston Family Inn , xây cất nhà cửa cho những kẻ vô gia cư và cung cấp dịch vụ cho họ .

559. Phật Giáo đối với những người nghiện cần sa, ma túy, nghiện rượu như thế nào?

- Phật Tử thọ Ngũ Giới , Chư Tăng Ni thọ Sa Di , Sa Di Ni , Tỳ Kheo , Tỳ Kheo Ni , đều thọ trì giới cấm uống rượu , cấm dùng cần sa , ma túy xem rượu , cần sa , ma túy là cội nguồn của tội lỗi , vì người nghiện những thứ này không thể kiểm soát hành động của mình , có thể phạm những tội lỗi khác như ác khẩu , tà dâm , dâm dục , trộm cướp , giết người v.v…

- Tăng Ni , Phật Tử Hoa Kỳ dấn thân vào các chương trình bài trừ ma túy và giúp đỡ những nạn nhân ma túy ở các bệnh viện , nhà tù .

560. Phật Giáo đối với vấn đề nghèo khổ, bệnh tật như thế nào?

- Trong kinh có kể câu chuyện Đức Phật từ chối không chịu giảng pháp cho người đói nghe trước khi người ấy được cho ăn uống no đủ .

- Trong Kinh Mangala Sutta và Sigalavada Sutta Đức Phật dạy hạnh phúc của con người bình thường dựa vào ổn định kinh tế , không bị nợ nần chi phối , sống đời sống trong sạch , đạo đức .

- Phật Giáo chú tâm đến vấn đề an sinh của dân chúng về phương diện tâm linh cũng như đời sống vật chất .

- Trên phương diện tâm linh , Phật Giáo đặt nặng khía cạnh giải thoát khỏi cảnh sinh tử luân hồi , sống an bình trong cảnh đời hỗn tạp .

- Trên phương diện vật chất , khuyên Phật Tử siêng năng , tiết kiệm , sống cuộc sống giản dị , không đua đòi , không phí phạm , biết làm tiền , biết dành dụm , biết tiêu xài ..

- Các ngôi chùa Phật Giáo tại các làng mạc thời Phật Giáo hưng thịnh , không những là nơi lễ bái , un đúc đạo tâm , đạo lực mà còn là trung tâm văn hoá , xã hội .

- Các ngôi chùa Phật Giáo tại các làng mạc Tích Lan hiện nay cũng là trung tâm phát triển cộng đồng , mục đích nâng cao mức sống của dân chúng nông thôn .

- Tại Hoa Kỳ một trung tâm thiền đã liên hệ chặt chẽ với nghiệp đoàn lao động trong vai trò dung hoà quyền lợi công nhân và chủ nhân .

- Nhật Liên Tông Hoa Kỳ có những chương trình cụ thể giúp đỡ Hội Viên khi gặp hoạn nạn , thất nghiệp hoặc khó khăn trên đường học vấn .

- Tịnh Độ Chân Tông Hoa Kỳ tổ chức Phòng Phát Thuốc , chương trình giúp đỡ phụ nữ khi thai nghén , chương trình giúp hàng cao niên , chương trình giúp đỡ tù nhân , bệnh nhân .

- Phật Giáo Trung Hoa tổ chức cung cấp ẩm thực miễn phí cho các vị cao niên .

- Phật Giáo Nhật Bản , Tây Tạng , Theravada đã áp dụng thiền và giáo lý Phật trong ngành Tâm Lý Trị Liệu ngày càng phổ cập tại Hoa Kỳ .

561. Phật Giáo đối với phong trào Nam Nữ Bình Quyền như thế nào? Giải quyết vấn đề Ni Bộ ra làm sao?

- Một trong những chủ trương căn bản của Phật Giáo là bình đẳng , do đó Phật Giáo không những không lẽo đẽo theo sau phong trào vận động nam nữ binh quyền mà là đạo quân tiên phong cho phong trào này , khởi xướng từ thời Phật còn tại thế .

- Tuy chủ trương bình đẳng , giáo lý Phật khi bành trướng ở bất kỳ quốc độ nào , đã uốn mình hoà đồng vào văn hóa , tập quán quốc độ ấy . Tại Ấn Độ trên 600 năm trước ký nguyên , với nền văn hoá Vệ Đà , xem hàng ( nam ) đạo sĩ Bà La Môn là trên hết , Tăng Già gồm Ni chúng là một hiện tượng cách mạng lớn . Tuy nhiên để phù hợp với trào lưu , để quần chúng có thể chấp nhận , nên Bát Kính Pháp được chế ra .

- Khi Phật Giáo truyền đến Trung Quốc với nền văn hóa trọng nam khinh nữ , với đạo lý “ Nhất nam viết hữu , thập nữ viết vô” mà Ni giới vẫn có chân đứng , tuy Bát Kính Pháp vào thời điểm ấy còn được duy trì .

- Phật Giáo truyền vào Việt Nam trong bối cảnh văn hoá chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa , nên Bát Kính Pháp vẫn được duy trì .

- Vào thế kỷ thứ 20 , quyền hạn giữa nam và nữ không còn cách biệt . Người được Dalai Lama chọn làm Giám Đốc Phật Viện Tây Tạng , thành lập đầu tiên khi ngài đến tị nạn tại Ấn Độ là một phụ nữ người Anh ! Lấy chồng theo đạo Sikh !

- Chùa Tây Lai , ngôi chùa Trung Hoa lớn nhất tại Hoa Kỳ , do một Ni Cô được chọn làm Trú Trì điều khiển .

- Phật Giáo Việt Nam trên phương diện này vẫn còn dừng chân tại chỗ sau trên 2500 năm ! Đã đến lúc Phật Giáo Việt Nam thực hành đúng giáo lý bình đẳng của Phật trong trào lưu văn hoá hiện đại .

- Đức Phật Quán Thế Âm , được Phật Tử khắp nơi tôn thờ trong hình hài nữ giới vì vậy nữ giới , trong Phật Giáo đâu phải không ngang hàng với nam giới !

562. Phật Giáo đối với đời sống gia đình, con cái của Phật Tử như thế nào?

- Đức Phật rất quan tâm đến đời sống gia đình , đến con cái gia đình Phật tử .

- Thời Phật còn tại thế tại thành Vương Xá có một gia đình vợ chồng quy y Tam Bảo , nhưng người con tên là Sigala ( Thi Ca La Việt ) lại không quy ngưỡng Phật . Mỗi lần cha mẹ Sigala khuyên con đến hầu thăm Phật , thăm hàng Đại Đệ Tử Phật , Sigala nói : “ Con không muốn đến thăm những vị ấy , vì mỗi lần con đến thăm phải quỳ lạy họ làm đau đầu gối , phải ngồi trên đất làm lấm áo quần , rồi nếu quen biết họ con phải cúng dường ẩm thực , y phục cho họ làm mất thì giờ và tiền của .” Sao có vẻ giống những lời phàn nàn của con em Phật Tử Việt Nam !

- Trước khi qua đời thân phụ của Sigala chỉ yêu cầu Sigala một điều , và chỉ một điều thôi là sau khi ông mất , Sigala hằng ngày phải thức dậy sớm , tắm rửa , lạy 6 phương : Đông , Tây , Nam , Bắc , Thượng , Hạ . Sigala hứa tuân lời .

- Một hôm Phật gặp Sigala đang hành lễ 6 phương , Phật hỏi Sigala làm lễ như vậy có ý nghĩa gì . Sigala trả lời là tuân theo lời giáo huấn của phụ thân . Phật dạy : Lạy hướng Đông là tỏ lòng kính ngưỡng cha mẹ . Lạy hướng Nam là tỏ lòng tôn trọng sư trưởng . Lạy hướng tây là tỏ lòng thưong mến người phối ngẫu . Lạy hướng Bắc là tỏ lòng mến chuộng bằng hữu . Lạy hướng Dưới là tỏ lòng yêu quý người giúp việc . Lạy hướng Trên là tỏ lòng kính mộ các bậc Trưởng Thượng , hàng Sa Môn , đạo sĩ . Do đó tuân theo lời thân phụ là phải tỏ lòng tôn kính sư trưởng . Đức Phật không bỏ qua một người nào , tùy duyên hướng dẫn họ đi vào nẻo đạo .

- Sau Đệ Nhị Thế Chiến , sau phong trào cải cách Phật Giáo do Dhammapala , Thái Hư Đại Sư …kinh sách và tài liệu Phật Giáo liên quan đến đời sống gia đình được xuất bản , chư Tăng Ni , các vị Giảng Sư Nhật Bản , Hoa Kỳ bắt đầu thuyết giảng những đề tài liên quan đến đời sống gia đình , các bà mẹ trong gia đình Phật Giáo đã tổ chức những khóa Hội Thảo về tâm lý trẻ em , Ban Quản Trị Hội BCA ( Buddhist Church fo America ) cho xuất bản những tài liệu Phật Giáo , hướng dẫn đời sống gia đình , hôn nhân .

- Tăng Ni Việt Nam phần nhiều không chú tâm đời sống gia đình , cha mẹ , vợ con , con cháu của các gia đình theo đạo Phật. Hay có chú tâm chăng nữa chỉ khuyên họ tụng kinh , niệm Phật , đi chùa mà không đi sâu vào những khó khăn , trăn trở của họ trong nếp sống hội nhập , giúp họ giải quyết vấn đề , giúp họ bồi dưỡng tín tâm .

- Nếu muốn đi sâu vào đời sống gia đình Phật Tử phải được huấn luyện về lãnh vực này .

563. Đối với luật pháp, nhất là đối với án tử hình, Phật Giáo có quan niệm hay thái độ như thế nào?

- Tất cả các tổ chức Phật Giáo tại Hoa Kỳ đều khuyên tín đồ giữ gìn giới luật , tuân theo luật pháp quốc gia , làm công dân tốt .

- Giáo phái Nhật Liên bất kỳ ở tiểu bang nào hay thành phố naò cũng nhận được nhiều bằng tưởng lục , tán dương sự đóng góp tích cực của giáo phái trong các hoạt động giáo dục , nhất là giáo dục công dân , biến những người phạm pháp sau khi theo giáo phái , thành người lương thiện , gương mẫu .

- Trong thuyết nghiệp báo ( Karma ) của Phật Giáo có Biệt Nghiệp và Cọng Nghiệp , nghiệp do cá nhân tự tạo và nghiệp do hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng . Tội phạm của cá nhân do chính cá nhân phạm lỗi , cũng do xã hội ảnh hưởng . Vì vậy Phật Giáo chủ trương cải huấn hơn là trừng phạt và nếu trừng phạt không nên dùng luật tử hình , trừ trường hợp bất khả kháng .

564. Phật Giáo đối với vấn đề chính trị như thế nào? Phật Giáo làm chính trị?

- Chính trị bao trùm mọi hoạt động con người trong một xã hội , trong một thể chế , trong khung cảnh quốc gia , xã hội .

- Không sử dụng những phương thức chính trị để phổ biến quan điểm , lập trường trong đời sống chính trị thì không thể nào đóng góp tích cực và có ý nghĩa trong nỗ lực xây dựng và phát huy xứ sở .

- Dù lý thuyết chính trị có hay mấy chăng nữa mà không trực tiếp tham gia thì không thể thi triển lý thuyết ấy . “ Luận chính bất như tùng chính” chính là ý nghĩa này .

- Tuy nhiên khi vướng vào chính trị thì khả năng dung hoá , chỉ đạo dễ bị lôi cuốn vào quyền hành , phe phái .

- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất từ ngaỳ thành lập năm 1964 đã bị dồn vào cơn lốc chính trị thời đại liên tiếp không ngừng khiến cho nhiều người cho Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm chính trị , trên thực tế GHPGVNTN không làm chính trị , vì không bao giờ chủ trương một chính phủ phật giáo . Tuy nhiên vì tự vệ , vì nhận thấy mình gắn liền với vận mệnh dân tộc nên không thể ngồi yên mà phải tham gia vào các phong trào chính trị mặc dầu luôn luôn đề cao tinh thần Chính Giáo Phân Ly .

- GHPGVNTN có được cái may mắn lo nhiệm vụ chính yếu của mình là hoằng dương chánh pháp ? GHPGVNTN có đủ đạo luật , có đủ khả năng vượt qua những cơn lốc chính trị thời đại mà không đánh mất khả năng đóng góp vào việc xây dựng đạo pháp và dân tộc ?

565. Lý thuyết chính trị Phật Giáo như thế nào?

- Trước và vào thời Phật còn tại thế Ấn Độ được cai trị dựa vào luật Manu . Triết học chính trị Ấn Độ được xây dựng trên học thuyết Matsya Nyaya , nghĩa đen là Luật Con Cá hay theo từ ngữ hiện đại là Luật Rừng . Các luật gia , chính trị gia , các nhà trí thức Ấn Độ thời cổ đại đưa ra những câu hỏi : Tại sao cần có chính phủ ? Tại sao có người cai trị có kẻ bị trị ? Tại sao phải tuân theo luật lệ ? Tại sao vi phạm luật lệ phải bị trừng trị ?

- Trả lời những câu hỏi trên họ đưa ra định luật thiên nhiên : Định luật Natsya Nyaya , luật con cá nhỏ làm mồi cho con cá lớn . Chính phủ , người cai trị , luật pháp là những điều cần thiết để ngăn ngừa định luật thiên nhiên , định luật cá lớn nuốt cá bé . Dẹp bỏ chính quyền , dẹp bỏ người cai trị , dẹp bỏ luật pháp , xã hội loài người sẽ lâm vào tình trạng hỗn loạn , trong đó luật rừng được thi thố , kẻ mạnh hiếp kẻ yếu .

- Manu Samhita nói : “ Nếu không có luật pháp , cá lớn sẽ nuốt cá bé .” Mahabharata nói : “ Nếu không có người cai trị trừng phạt , người mạnh sẽ hiếp người yếu như cá trong nước …”

- Thuyết Matsya Nayaya Ấn Độ cho rằng bản tính của con người là ác , nếu không được giáo huấn , không luật pháp trừng trị thì xã hội sẽ hỗn loạn , không khác gì quan điểm của Tuân Tử “ Nhân chi sơ tính bản ác” , không khác gì chủ trương của Pháp Gia Hàn Phi Tử Trung Hoa .

- Từ lý thuyết về chính phủ nói trên đưa đến quyền hạn kiểm soát cần thiêt , và quyền hạn này cần có quyền hành trừng phạt hay Danda . Quốc vương Ấn Độ vì vậy có bốn chức năng ( Caturopàya) , hay trọng trách đó là Sama , Dàna , Danda , Bheda . Sama có nghĩa là hòa bình , nhà vua có bổn phận duy trì hòa bình . Dàna có nghĩa là bác ái . Danda có nghĩa là trừng trị người phạm pháp . Bheda chủ trương chia để trị , nếu cần thiết .

566. Nhưng đó là lý thuyết chính trị Ấn Độ, còn triết học chính trị Phật Giáo như thế nào?

- Quan điểm của Phật về vấn đề trị dân hoàn toàn khác hẳn chủ trương Ấn Độ giáo . Ngài thấy con người tuy tranh giành nhau để sống , để tồn tại , nhưng đó không phải là bản tính của con người mà chẳng qua vì vô minh ( ngu dốt ) mà phát sinh , cần phải dẹp bỏ cái ngu dốt ấy . Con người đầy đủ đức tính sống chung hòa bình với đồng loại , đầy đủ đức tính hợp tác cho quyền lợi cá nhân và tập thể , đầy đủ đức tính cao cả hi sinh cho quyền lợi cộng đồng , nếu họ được hướng dẫn đúng đường và đúng mức . Đó là nguyên tắc căn bản của Triết học chính trị Phật Giáo .

- Từ nguyên tắc ấy quyền hành chính trị không phải là quyền hành đương nhiên , không phải quyền hành do định chế bên ngoài áp đặt mà do tự giác , do tự kiểm .

- Thay vì bốn chức năng , Caturopaỳya của Ấn Độ Giáo , Đức Phật đưa ra bốn phương thức trị dân , đó là : Dana , Bác ái , Priyavacana , ái ngữ , Arta cariya , cần kiệm và phục vụ và Samanàmatà , bình đẳng .

567. Bốn phương thức trị dân được diễn dịch như thế nào?

- Theo Phật giáo người cai trị dân phải có lòng bác ái , thương dân , không những giúp đỡ những người nghèo khó mà còn biết ban thưởng cho những người biết phục vụ dân , những quan cai trị tốt . Người cai trị phải thực hành hạnh ái ngữ , không sử dụng ngôn từ hung bạo , dọa dẵm , nạt nộ đối với kẻ dưới . Người cai trị cần phải thực hành hạnh cần kiệm , sống đời sống đạm bạc , không phung phí quốc khố , tinh thần phục vụ tốt . Người cai trị phải thực hành hạnh bình đẳng , xem mình như dân , cùng tuân thủ luật pháp quốc gia , thi hành nhiệm vụ không thiên vị .

568. Kinh sách Phật nào nói về nghệ thuật trị dân?

- Trong Kinh Dasa-Raja-Dharma hay mười đức tính quốc vương , đó là Dana , sila , Pariccàga , Ajjavan , Majjavan , tapam , Akkodho , Avihimsa , Khanti và Avirodhatà .

- Dàna ( bác ái ) , bổn phận của vị quân vương là bảo vệ , săn sóc đời sống của dân , giúp dân cơm no , áo ấm , thuốc men , nhà ở .

- Sìla (đạo đức ) . Quân vương giữ gìn đạo đức cá nhân cũng như tập thể , làm gương sáng cho dân .

- Pariccàga ( ban thưởng ) cho những ông quan hết lòng phục vụ dân , trung thành với vua , theo gương sáng của vua .

- Ajjavan ( thẳng thắn ) . Quân vương hành xử thẳng thắn , không dùng bá đạo để đạt mục đích .

- Majjivan ( hoà nhã ) , tuy cương quyết nhưng nhu hoà , nhu hòa mà không ủy mị .

- Tapam ( tự kiểm ) , biết kiểm soát ngũ quan của mình , không để cho dục vọng làm mê mờ , không bị trôi cuốn vào những thị hiếu , dục lạc .

- Akkodha ( không thù ghét ) , không đem lòng thù oán những người muốn hại mình , phải hành động bằng tình thương và rộng lượng .

- Avihimsa ( không bạo động ) , cố gắng tự kiềm chế , không theo đòi những thú vui giải trí có tính cách bạo động , hại người hại vật , hành xử đúng mức không hung bạo .

- Khanti ( nhẫn nhục , kiên nhẫn ) : Nhà vua phải luôn luôn kiên cường, nhẫn nhục , kiên nhẫn trong mọi trạng huống , mọi hoàn cảnh .

- Avirodhatà ( hỷ xả ) tâm rộng lượng , bình đẳng , trái hẳn nguyên tắc chia để trị , Bheda của tư tưởng chính trị Ấn Độ giáo .

- Mười điều này hiện nay vua Thái Lan vẫn phát nguyện tuân thủ khi làm lễ đăng quang .

- Đức Phật quan niệm dân hành thiện hay làm điều quấy đều do thái độ và cách hành xử của nhà vua . Vua tốt thì dân tốt , vua bạo hành thì dân bạo hành . Vua sa đọa thì dân sa đọa .

569. Đức Phật đã nói bài Pháp nào để khai triển những đức tính cần thiết của bậc quân vương?

- Trong bài giảng nói về Ummadayanti , trong Jakatamala , đức Phật kể câu chuyện vị Bồ Tát sinh vào hoàng tộc Sibis , sau trở thành quốc vương xứ Sibis . Một hôm cùng đoàn tùy tùng ra ngoài thành thấy nàng Ummadayanti xinh đẹp tuyệt vời , muốn cùng nàng kết tóc , xe tơ , nhưng rất tiếc nàng đã có chồng và chồng nàng lại là quan trong triều.

- Vua mắc bệng tương tư . Vị quan , Abhiparaga , chồng của Ummadayanti hiểu rõ nguyên nhân , cầu khẩn vua nhận Ummadayanti làm thiếp . Vua sực tỉnh , lấy làm hổ thẹn trước sự hi sinh của người chồng , của vị trung thần nói :“ Tôi thực không xứng đáng , đã để đam mê cá nhân làm mất lý trí , để quyền lợi cá nhân trên quyền lợi của dân , đã không đếm xỉa đến dư luận quần chúng , không phân biệt công tư , không làm gương cho kẻ khác .” Đức Phật trong những bài Kinh khác nói quốc gia được phú cường hay không đều do đức hạnh của nhà vua . Phật dạy :“ Này các Tỳ Kheo khi bậc quân vương công bằng , chính trực thì triều thần công bằng chính trực . Khi triều thần chính trực , công bằng thì quan các cấp chính trực , công bằng . Khi quan các cấp công bằng ,chính trực thì dân công bằng chính trực .”

570. Tư tưởng bình đẳng dân chủ của Phật Giáo được thể hiện như thế nào trong cộng đồng Phật Giáo?

- Đức Phật không những phủ nhận giá trị giai cấp cố định của Bà La Môn trên phương diện lý thuyết mà Ngài đã thể hiện tinh thần ấy trong cộng đồng Tăng Già .

- Ngài tiếp nhận Upali , thợ hớt tóc , Ngài tiếp nhận Sunita thuộc giai cấp Chiên Đà La ( Chandàla) giai cấp hạ tiện nhất của xã hội Ấn Độ vào trong cộng đồng Tăng Già .

- Phật dạy :“ Này các Tỳ Kheo , giống như những con sông lớn – sông Hằng , sông Jammu , sông Aciravati , sông Sarabhu , sông Mahi – khi chảy vào biển cả , thì nguồn nước của những con sông này không còn danh tình , không còn đặc tính mà hòa đồng với đại dương . Cũng như vậy , giai cấp Sát Đế Lợi , Bà La Môn , Thủ Đà La , Chiên Đà La khi vào giáo hội ( Sasana ) không còn đặc tính riêng biệt mà là thành viên của cộng đồng Tăng Già .”

571. Tư tưởng bình đẳng dân chủ của Phật Giáo được thể hiện như thế nào trong thể chế chính trị?

- Vào thời Phật tại thế , có những vương quốc lớn như Magadha , Kosala theo thể chế quân chủ , nhưng cũng có những quốc gia khác theo thể chế dân chủ . Đức Phật tán thán thể chế dân chủ xem đó là thể chế công bằng và bền vững nhất và Ngài đã nói ý kiến của mình khi vua A Xà Thế định đem quân xâm chiếm xứ Vajjian .

- Đức Phật đã giúp những quốc gia Ấn Độ thời Phật tại thế trở thành những quốc gia dân chủ , phú cường mà bá tước Zetland , Phó Vương Ấn Độ đã đề cập trong lời mở đầu của cuốn “ Legacy of India ” , để đi đến kết luận :“Tinh thần dân chủ của Đức Phật đã mang lại ảnh hưởng sâu đậm cho đời sống chính trị , xã hội Ấn Độ và ảnh hưởng này tồn tại trên 14 thế kỷ .”

- Trong Kinh Sutta Nipatà , Phật dạy :“ Giữa trời đất , cỏ cây có nhiều loại khác nhau , súc vật bốn chân có nhiều loại khác nhau , loài bò sát , rắn rết có nhiều loại khác nhau , chim chóc có nhiều loại khác nhau , chỉ có con người là không khác nhau mấy : cũng tóc , cũng tai , cũng đầu , cũng mũi , cũng mắt , cũng miệng , cũng cổ , cũng thân hình ,chân tay…giống nhau.” Con người đâu có nhiều dị biệt , tại sao phân chia giai cấp , thứ bậc , tranh dành , bóc lột lẫn nhau ?

572. Triết học chính trị Phật Giáo giống với triết học chính trị Khổng Giáo ở điểm nào?

- Một hôm có người đồ đệ hỏi Khổng Tử những điều kiện gì cần thiết cho một quốc gia . Khổng Tử trả lời : “ Phải đủ lương phạn cho dân chúng , phải đủ binh lực để bảo đảm an ninh , phải có lòng tín nhiệm của dân .”( Luận Ngữ , Tập VII , Chương VII ) . Trong ba điều kiện này , điều kiện thứ ba là chính yếu . Chính quyền muốn được dân tin tưởng , phải lấy dân làm trọng , lấy quyền lợi dân làm quyền lợi mình , đau cái đau của dân , sướng cái sướng của dân .

- Đức Khổng Tử khi bàn về nhà vua lý tưởng , trong sách Luận Ngữ , đem triều đại nhà Chu làm thí dụ : “ Khi triều đại nhà Chu bắt đầu , quốc gia hưng thịnh , hiền sĩ được trọng dụng . Vua tự hướng dẫn mình bằng phương cách sau : Không xem bà con ngang hàng với bậc hiền tài . Nếu dân chúng nổi loạn vua có trách nhiệm với dân với nước . Vua áp dụng biện pháp hành chính một cách vô tư và công bằng : cân lượng đồng dạn , luật pháp vô tư , dung nạp . sa thải nhân sự sáng suốt . Vua giúp đỡ những gia đình điêu linh , mời hiền sĩ ẩn mình ra giúp nước . Vua chú tâm đến đời sống kinh tế của dân , nghiêm túc giữ gìn truyền thống tang lễ , tôn giáo . Công bằng , bác ái , khoan hồng , thành tín , cần mẫn là những đức tính cần thiết của một nhà vua lý tưởng , nhờ vậy dân chúng đặt niềm tin , siêng năng là việc , tích cực đóng góp vào sự an bình thịnh vượng chung của quốc gia . ( Luận Ngữ , Tập XII , ch.XIII )

573. Triết học chính trị Khổng Giáo dựa vào phụ hệ, vào thuyết Tam Cương, Ngũ Thường có khác với tư tưởng chính trị dân chủ của Phật Giáo?

- Tuy trong thuyết Chính Danh , Đức Khổng Tử khai triển đạo lý “ Quân quân , thần thần , phụ phụ , tử tử ”, tôn ti rõ ràng , trách nhiệm phân định , vua ra vua , tôi ra tôi , cha mẹ ra cha mẹ , con cái ra con cái , nhưng ở đây quyền hạn của ông vua không phải là quyền hạn đương nhiên và tuyệt đối , mà quyền hạn ấy “ thuận lòng trời , được lòng dân ” lấy dân làm nền tảng .

- Để dung hòa quyền hạn của nhà vua và quyền lợi của dân chúng , đức Khổng Tử chủ trương tổ chức chính quyền phải theo định luật thiên nhiên, không phải định luật thiên nhiên của học thuyết Matsya Nyaya , mạnh được yếu thua của Ấn Độ giáo . Khổng tử khai triển quan niệm về định luật thiên nhiên : 1/ Thiên nhiên cung cấp mô hình kiểu mẫu của chính danh : Ai cai trị dân bằng đức hạnh có thể so sánh với Sao Bắc Đẩu. Bắc Đẩu làm kim chỉ nam , tất cả các sao đều hướng về Bắc Đẩu . 2/ Thiên nhiên là một hợp thể phức tạp , nhưng điều hòa , mâu thuẫn nhưng bổ sung . 3/ Thiên nhiên có khả năng sinh trưởng và nuôi dưỡng . 4/ Thiên nhiên luôn luôn bền bỉ ( Luận ngữ , tập II , Ch.I , Kinh Dịch , phần I , II )

- Do đó một chính phủ nhân ái là một chính phủ : 1/ Làm lợi ích dân , không phí phạm tài nguyên xứ sở . 2/ Khuyến khích dân chúng nỗ lực làm việc , không gây xáo trộn , ta thán . 3/ Làm cho dân chúng an hưởng đời sống hằng ngày nhưng không tham lam . 4/ Khuyến khích dân chúng giữ gìn phong độ , giá trị mà không hời hợt , kiêu ngạo . 5/ Un đúc tinh thần kính trọng nhưng không làm cho dân chúng sợ hãi . ( Luận ngữ , Tập XX , Ch. II , Đoạn I )

Tuy đức Khổng Tử không đề cập đến dân chủ , ngài chủ trương :“Dân vi quý , xã tắc thứ chi , quân vi khinh ” cũng nói lên tinh thần dân chủ .

574. Phật Giáo là đạo xuất thế. Đức Phật bỏ ngai vàng xuất gia tìm đường giải thoát, như vậy chính trị đâu phải là trọng tâm của Phật giáo?

- Phật Giáo cũng như các tôn giáo khác đặt nặng giá trị tinh thần hơn giá trị vật chất , từ bỏ triền phược thế gian hơn là mắc vào tròng danh lợi dương thế . Tuy nhiên đối tượng giải thoát hay cứu rỗi là con người , trong hoàn cảnh xã hội của họ . Chính vì vậy mà Đức Phật đã nói ra bài Kinh , dành riêng cho hàng tại gia , những người sống và sinh hoạt trong cộng đồng xã hội , đó là Kinh sigalavada sutta , tàu dịch là thiện sinh , nói rõ bổn phận của người Phật tử trong gia đình , với hàng xóm láng giềng , với nhân quần , xã hội , phải hành sử thế nào để trở thành người con hiếu , người bạn hiền , người chủ tốt , người công dân gương mẫu .

- Hàng Tăng Ni chuyên lo hoành trì và hoằng truyền chánh pháp , nên không đặt trọng tâm vào chính trị mặc dù chịu ảnh hưởng của thể chế chính trị . Đó là thực tế không thể phủ nhận , tuy nhiên nguyên tắc Chính Giáo Phân Ly cần được tôn trọng , vì chính trị là sự lựa chọn tương đối , tạm thời , còn tôn giáo là thước đo , là tiêu chuẩn lâu đời .

- Việc xây dựng đất nước nhiều người có thể làm , việc xây dựng hồn nước , tạo nếp sống đạo lý cho dân tộc , chỉ có tôn giáo , nhất là Phật Giáo mới làm được .

575. Trong lịch sử Phật Giáo đã có những vị nào, những nhà chính trị nào đem đạo lý Phật áp dụng vào đời sống chính trị?

- Kể ra thì nhiều . Nhưng tôi chỉ đưa ra vài thí dụ điển hình , đó là vua A Dục Ấn Độ , vua Lương Võ Đế Trung Hoa , vua Trần Nhân Tông Việt Nam . Những vị vua này không những là người mộ đạo mà còn là kẻ truyền đạo . Danh từ Chuyển Luân Vương ( Cakravartin) được sử dụng để nói lên hai nhiệm vụ nhập thế và xuất thế .

- Trên bình diện chính trị , nguyên thỉ Phật Giáo không quan niệm vua có quyền thiên tử mà do dân tạo dựng , tuyển chọn , nói lên quan điểm Khế Ước Xã Hội ( Social contracts) , chọn người hiền điều khiền quốc gia , đem lại an ninh , trật tự và phồn vinh cho quốc gia , nói lên nguyên tắc phân quyền , phân nhiệm của những thành viên trong xã hội .

- Trước cảnh chiến tranh liên miên ở Ấn Độ , không khác thời Xuân Thu, Chiến Quốc Trung Hoa , Phật Giáo Nguyên Thỉ nhìn chính quyền với cặp mắt bi quan , cho rằng đời sống lý tưởng chỉ có thể thực hiện trong Tự Viện , hàng Tăng Sĩ không nên gần gũi , làm thân với vua chúa . Tinh thần này được ngài Tuệ Viễn xiển dương trong tập Sa Môn Bất Bái Quốc Vương . Tinh thần này được cổ võ vì hai dự kiện : 1/ Không dựa vào quốc vương để cậy quyền cậy thế . 2/ Không dựa vào quốc vương vì chính trị luôn luôn đổi thay . Quan điểm này dần dần trở thành truyền thống độc lập của tập thể Tăng Già , có khả năng bảo vệ sự thuần túy của Phật Giáo , nhưng đồng thời làm cho Phật Giáo cách biệt với thế tục .

576. Có một số đề tài nóng bỏng thời đại liên quan đến Phật Giáo, có cho phép em được hỏi không? Đọc lịch sử Ấn Độ, em thấy Phật Giáo Ấn Độ bị 4 pháp nạn. Pháp nạn cuối cùng hay pháp nạn 4 sau khi quân Hồi tiến chiếm Ấn Độ, Phật Giáo hầu như vắng bóng. Câu hỏi được đặt ra là Ấn Độ giáo cũng như Phật Giáo đều bị quân Hồi cưỡng bách, tại sao Ấn Độ Giáo tồn tại mà Phật Giáo hầu như mất bóng nơi xứ Phật đản sinh?

- Thực ra Phật Giáo không có mất bóng . Giáo lý Ấn Độ Giáo sau này , trong Upanishads là vay mượn giáo lý Phật , không khác gì Khổng Giáo đời Tống , đời Minh Trung Hoa đã vay mượn đạo lý Phật tạo nên nền Lý học Khổng Giáo hay Tân Khổng Giáo tại Trung Quốc .

- Ở đây có ba lý do chính : 1/ Từ thế kỷ thứ 1 trước kỷ nguyên đến thế kỷ thứ 4 , Phật Giáo bành trưóng mạnh tại Ấn Độ và các nước láng giềng, để hòa đồng với văn hóa , tập quán địa phương , Phật Giáo đã hội nhập những yếu tố văn hóa ấy trong nỗ lực Phật hoá nhân gian . Thời gian chuyển hóa không lâu , địa bàn chuyển hoá rộng , nền tảng chưa vững chắc , nên thay vì Phật hoá nhân gian bị nhân gian hóa Phật Giáo , làm mất đặc tính của Phật Giáo , để rồi khi quân Hồi xâm chiếm , đặc tính ấy bị xáo trộn , mất đi bóng dáng Phật Giáo . 2/ Khi Phật Giáo Tự Viện được bành trướng , nếp sống tự viện được bành trướng , sự cách biệt giữa Tăng Già và Cư Sĩ ngày càng nhiều , Tăng Già là mạng mạch của Phật Giáo nên khi quân Hồi đến tiêu diệt Tăng Già , kéo theo sự sụp đổ của Phật Giáo . 3/ vào thế kỷ thứ nhất trước kỷ nguyên và thế kỷ 1,2,3 sau kỷ nguyên , hình nhi thượng học ( metaphysics) , tâm lý học , Phật Giáo phát triển tột độ , vai trò trí thức nổi bật trong đó yếu tố tín ngưỡng nhân dân không được kiện toàn . Khi quân Hồi đến tiêu diệt thành phần trí thức , Phật Giáo mất chân đứng .

577. Liên quan đến câu hỏi trên. Em đọc lịch sử Phật Giáo Trung Hoa dưới thời Mao Trạch Đông. Cũng dưới chế độ Cộng Sản, cũng chịu tai ương thời Cách Mạng Văn Hóa, tại sao cuối thời Mãn Thanh, số lượng chư Tăng trên 750,000, chùa chiền trên 250,000, nhưng sau Cách Mạng Văn Hóa, số lượng chư Tăng chỉ còn 200,000, chùa chiền chỉ còn 9,000, trong khi đó tín đồ Tin Lành 700,000 trước Cách Mạng Văn Hóa, sau Cách Mạng Văn Hóa lên đến trên 10,000,000?

-Có thể đối tượng chính cần phải tiêu trừ của chính quyền Trung Hoa Lục Địa lúc bấy giờ là Phật Giáo vì đông tín đồ , nhiều cơ sở , nhiều tài sản .

- Có thể Phật Giáo Trung Hoa đã đánh mất khả năng chính vận sau một thời gian dài dưới chính quyền Nho Giáo thời Tống , Minh , Thanh ?

- Có lẽ Tăng Già Phật Giáo Trung Hoa thiếu thành phần Phật Tử có địa vị quan trọng trong chính giới ?

- Có lẽ giây liên hệ giữa Tăng Già và Cư Sĩ không mấy chặt chẽ ?

- Có lẽ Phật Giáo không vận dụng đúng mức đạo lý khế lý , khế cơ ?

578. Trong thời nhà Trần số lượng chư Tăng trên 30,000 trong tổng dân số chừng khoảng 5,000,000, thế mà vào thời Nam Bắc Phân Tranh, ở Đàng Ngoài chỉ nghe đến ngài Chân Nguyên, ở Đàng Trong chỉ nghe đến ngài Liễu Quán, vậy bóng dáng của 300,000 chư Tăng ở đâu mà toàn các vị tổ Trung Hoa đến hoằng đạo?

- Phật Giáo đã đánh mất vị thế chỉ đạo sau thời gian dài chiến tranh , sau thời gian dài dưới quyền cai trị của các vua rập theo khuôn mẫu Tống Nho .

- Nhà chùa không còn là nơi dung dưỡng , quy tụ của những phần tử trí thức , thượng lưu . Sự đóng góp của hàng cư sĩ tại gia trên bình diện tư tưởng rất hạn chế . Mạng mạch của Giáo Hội , của Phật Giáo nằm trong tay của Giáo Hội Tăng Già .

579. Phật Giáo vào cuối nhà Trần có gặp Pháp Nạn?

- Cũng có thể nói như vậy .

- Danh từ Pháp Nạn được hiểu theo nhiều cách : Hủy báng Phật , Pháp ; Hủy diệt Phật , Pháp ; phế diệt Phật , Pháp là Pháp Nạn , chỉ cho những tai nạn của Phật Giáo do nhà cầm quyền , hoặc các ngoại giao bức hại .

- Pháp nạn gây ra đôi khi không phải vì quyền lực chính trị hay ngoại đạo lấn áp mà vì xung đột nội bộ , tranh chấp quyền hành , phân tán , lủng đoạn , danh từ nhà Phật là sư tử trùng thực sư tử nhục , ngôi nhà Phật Giáo bị sụp đổ vì nội bộ .

- Vì vậy Pháp Nạn do ngoài tạo nên mà cũng do trong tạo nên . Pháp nạn do trong tạo nên mới thật nguy khốn vì làm mất tiềm lực , hủy diệt đức tin , trong khi pháp nạn do bên ngoài tạo ra lại làm tăng trưởng đạo luật và đức tin .

580. Vua A Dục, vua Khaniska Ấn Độ, vua Lương Võ Đế, Tùy Dạng Đế Trung Hoa, vua Lý Công Uẩn, Trần Nhân Tông Việt Nam đã để lại những thành công rạng rỡ cho quốc gia, cho Phật Giáo, nhưng khi những triều đại này xuống dốc kéo luôn sự suy vong của Phật Giáo trong khi đó đế quốc La Mã của Constantine, đế quốc Frankish của Charlemagne sụp đổ không kéo theo sự sụp đổ của Cơ Đốc Giáo. Tại sao?

- Có lẽ bản chất của các tổ chức Tăng Già ăn sâu vào từng địa vức nên khó phối hợp hoạt đông ? Năm vị Tăng trở lên là có thể làm Yết Ma , làm thành một tập thể , gọi là Tăng Già , tập thể Tăng Già từng địa phương chịu ảnh hưởng địa phương , khó có thể hợp tác trong những công tác đại quy mô ?

- Có lẽ chư Tăng được sự ủng hộ tích cực của hàng Phật tử , nên không thấy nhu cầu cần kiện toàn , cải tiến ?

- Tăng già hay Phật Giáo là một tổ chức dân chủ có sớm nhất thế giới , nhưng Phật Giáo có lẽ không có những định chế cần thiết để có thể cụ thể hóa , phổ cập hoá tinh thần dân chủ của Phật Giáo vào đời sống nhân gian ?

- Có lẽ nếp sống hang động khó có thể phối hợp hoạt động có tính cách đại quy mô ? Từng cá nhân sống trong hang động chuyên tu thiền quán , tìm giải thoát cho mình và cho người , tinh thần tập thể không được triển khai ?

- Có lẽ đạo lý xuất thế làm khỏa lấp đạo lý nhập thế ? Mục đích của đạo Phật là giải thoát . Mọi chuyện trên trần thế đều vô thường , biến đổi , mặc dầu hạnh nguyện Bồ Tát “ Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục” được cổ võ , nhưng có bao nhiêu người đủ kiên cường để thi hành . Dần dần những hoạt động , chính trị , xã hội đều có tính cách ngoại vi , phụ thuộc , không phải “tu” , không phải “ hành trì Phật đạo”.

- Có lẽ nhịp cầu nối liền Tăng Già và Cư Sĩ không mấy vững chắc ? Có lẽ vai trò Tăng Già và Cư Sĩ trong nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đạo chưa được khéo léo khai triển ? Có lẽ danh phận , ngôi thứ , địa vị làm chướng ngại ?

- Dù vì lý do gì chăng nữa thông điệp hòa bình ,từ bi , bác ái của Phật Giáo được phổ cập khi Phật Giáo thịnh hành , nhưng rồi bị khỏa lấp trong các biến loạn lịch sử .

- Cuộc sống của con người trên cõi đời này có liên quan mật thiết với nhau , nương tựa lẫn nhau , cùng nhau vinh quang , cùng nhau hoạn nạn mà đạo lý xuất thế , nhập thế của Phật tuồng như không được áp dụng đúng mức ?

581. Muốn chuyên chở tinh thần Phật Giáo trong lãnh vực chính trị, Phật Giáo có đội ngũ cán bộ được huấn luyện kỹ càng để thi hành nhiệm vụ?

- Với Phật Giáo Việt Nam đây là một lãnh vực cần ra sức xây dựng , kiện toàn .

- Trong nhiều thế hệ , nếu không nói là thế kỷ , thành phần cư sĩ chỉ là thành phần phụ thuộc trong tổ chức Phật Giáo ngay trong những lãnh vực chuyên môn của họ , dần dần biến họ thành phần tử thụ động , trông nhờ hoàn toàn vào sự lãnh đạo của Tăng già , mà Tăng Già trong hoạt động thế sự , nhất là chính trị lại bị nhiều trở ngại , về giới luật cũng như kiến thức và kinh nghiệm .

- Hàng Tăng Già đã xây chung quanh một bức tường kiên cố . Mọi cố gắng của Phật Tử trong nỗ lực xây dựng , nếu có , chỉ tạo thêm sự phân hoá nếu không theo sau Tăng Già .

- Những tổ chức Cư Sĩ nếu không được Chư Tăng Ni ủng hộ , sẽ không được sự ủng hộ tích cực của quần chúng .

- Phật Tử làm chính trị dựa vào Tăng Già , dựa vào cá nhân Tăng , không những không hữu hiệu mà làm cho phân hoá thêm .

- Không có đội ngũ cán bộ kinh nghiệm , thành thạo , Phật Giáo không nên bước vào lãnh vực chính trị .

582. Kinh nghiệm Tích Lan, Miến Điện, Cao Miên cho chúng ta bài học gì?

- Phật Giáo hiện đại , với bối cảnh văn hóa hiện đại , không thể dùng mô hình xưa để áp dụng .

- Hoài vọng quá khứ tuy là một chất xúc tác làm tăng trưởng ý chí nhưng không thể hiện thực hóa nó trong bối cảnh hiện tại .

- Thủ Tướng Tích Lan , ông Bandanayke muốn biến Phật Giáo làm quốc giáo , muốn lấy tiếng Sinhalese làm ngôn ngữ chính thức của quốc gia , ông đã bị ám sát sau một năm thi hành chính sách ,và tiếp theo đó là dân Tamil miền Bắc Tích Lan đấu tranh bằng vũ lực đòi tự trị mà đến nay vẫn còn tiếp diễn .

- Thủ Tướng Miến Điện , ông U Nu , một Phật Tử thuần thành , tinh thông Phật lý cũng có chủ trương tương tự , ông bị đảo chánh , bị ở tù , dân Karen và Shan đứng lên đòi tự trị , đến nay vẫn chưa được giải quyết.

- Quốc trưởng Cao Mên , hoàng thân Sihanouk muốn đem khí thế huy hoàng thời Angkor Thom để tái trúc Cao Mên đã bị lật đổ .

- Chủ nghĩa độc tôn , dù là độc tôn văn hoá , không thể tồn tại trong bối cảnh văn hóa hiện đại . Gần đây tại vài tiểu bang Hoa Kỳ , một số đài ghi mười điều răn của Chúa phải dời ra khỏi cơ sở công cộng . Vào trung tuần tháng 12 , 2003 Tổng Thống Pháp tuyên bố quyết định cấm không cho những dấu hiệu tôn giáo quá rõ ràng trong các trường trung tiểu học như mang khăn choàng Hồi Giáo , mũ kippa Do Thái Giáo và mang thánh giá lớn trên cổ , ngực .

583. Cho phép em trở lại Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ/Văn Phòng II Viện Hóa Đạo. Xin cho biết truyền thống và cơ cấu tổ chức.

- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở quê nhà được thành lập vào năm 1964 , nối tiếp tổ chức Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập năm 1951 , gồm 6 tập đoàn Tăng Già , Cư Sĩ Bắc , Trung Nam , nối tiếp truyền thống đời Lý , Trần , và xa hơn nữa nối tiếp truyền thống Phật Giáo thời Phật còn tại thế gồm 4 chúng đệ tử : Tăng, Ni , Cư Sĩ Nam , Cư Sĩ Nữ .

- Về cơ cấu tổ chức đã nói ở trên nên không cần lặp lại .

- Tuy nhiên Giáo Hội trong nước cũng như ngoài nước , thành phần Ni cũng như Cư Sĩ không có vai trò và vị thế trong Giáo Hội . Giáo Hội vì vậy có thể nói là Giáo Hội Tăng hơn là Giáo Hội Phật Giáo .

584. Dùng danh từ thống nhất mà có thực sự thống nhất?

- Cơ cấu tổ chức hay định chế là sáng tạo của con người , có giá trị tùy theo quốc độ , theo thời đại , theo truyền thống văn hóa . Nó không phải là một hình thức danh xưng cố định , bất di bất dịch .

- Tinh thần mới là quan trọng , vì vậy trong Lời Nói Đầu của Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất năm 1964 và Quy Chế của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hải ngoại tại Hoa Kỳ có câu:”Công bố lý tưởng từ bi , bình đẳng và giải thoát của Đức Phật , Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc …” Hình thức , cơ cấu , định chế có thể nhiều , nhưng mục đích chỉ là một , hay nói theo từ ngữ Phật Giáo chỉ có một Pháp Vị , đó là mùi vị giải thoát , mùi vị ấy không hạn cuộc trong một hình hài , danh xưng nào mà cũng nằm trong từng danh xưng , hình hài . Sự tồn tại của Giáo Hội không nằm trong nguyên vị cá biệt , thì hình tướng cá thể đâu phải là yếu tố ngăn cản tinh thần thống nhất .

585. Hiện nay Phật Giáo có vẻ phân hóa trong nước cũng như ngoài nước. Làm thế nào có thể thống nhất?

Phật Giáo không có tổ chức Trung Ương , không có giáo quyền trung ương như tòa thánh Vatican đối với tu sĩ và tín đồ Cơ Đốc La Mã .

- Giáo quyền của Phật Giáo , nếu gọi đó là giáo quyền , dựa vào lòng tự nguyện , vào đức hạnh và trí tuệ của hàng Tăng Ni . Chư Tăng Ni có thể bị tẩn xuất ra khỏi cộng đồng Tăng già nếu họ phạm trọng tội chứ không phải vì ý kiến bất đồng hay hành hoạt không đúng khuôn mẫu nếu không phạm trọng giới .

- Sở dĩ Phật Giáo không có giáo quyền vì 1/ Mục đích của Phật Giáo là giải thoát và có nhiều phương thức đi đến giải thoát . 2/ Nhờ hình thức không gò bó nên Phật Giáo có thể hoà đồng với các nền văn hoá dân tộc khác nhau . 3/ Tránh lạm dụng quyền thế . 4/ Quyết định của Tăng Già có tính cách đồng thuận trên phương diện giới luật . 5/ Dựa vào Tông Môn có tính cách tự nguyện hơn là chỉ huy . 6/ Dựa vào tinh thần trung đạo , không quá chặt chẽ mà cũng không quá lỏng lẻo . 7/ Dựa vào tinh thần Khế Lý Khế Cơ và Khế Lý Khế Cơ là nói đến trình độ tu học , khả năng tuyển trạch và tiếp thu với mục đích phụng sự .

- Danh từ Thống Nhất là nói đến ước vọng , là hướng đi thênh thang nhưng trắc trở .

- Phật Giáo có phân hoá . Nguyên nhân của sự phân hoá là cố chấp vào danh từ , hình tướng mà quên mục đích , nội dung , bị ảnh hưởng bên ngoài , đặc biệt thiếu sự giao tiếp , nặng nề thêm vì cá nhân tính , cá nhân chủ nghĩa và môn đồ tôn sùng cá nhân .

- Tổ chức Phật Giáo không khác gì Phong Đình trên đồi , không có cửa che kín , khách thanh lịch ngồi uống nước trà , đánh cờ , ngâm thơ , vọng nguyệt . Nó chỉ đẹp và nên thơ khi nó là một Phong Đình !

586. Nếu Phật giáo không thống nhất làm sao có đủ khả năng giải thể chế độ Cộng Sản?

- Có lẽ vì quá nóng lòng , quá bức xúc trước tình thế Việt Nam hiện nay nên em nêu ra câu hỏi này . Câu hỏi dễ gây nhiều ngộ nhận .

- Năm 1951 Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời , thống nhất 6 tập đoàn Phật Giáo Bắc , Trung , Nam . Năm 1964 , Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời , thống nhất Phật Giáo Nam Tông , Bắc Tông . Hai tổ chức thống nhất này không phải để giải thể cơ chế chính trị nào cả .

- Mục đích của Phật Giáo , của tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là phổ biến lý tưởng từ bi , bình đẳng và giải thoát của Đức Phật . Giáo Hội không phải là một tổ chức chính trị nên mục tiêu không phải để giải thể chế độ này hay chế độ khác .

- Thừa hưởng tinh thần dân chủ của Phật Giáo , thừa hưởng giáo nghĩa Nhân Duyên cộng sinh , cộng tồn , nên ngay cả vào thời hưng thịnh , Phật Giáo chủ trương tam giáo đồng nguyên . Phật Giáo vì vậy luôn luôn đề cao tinh thần Trăm Con trong Bọc Trứng , người trên núi người dưới biển đều là con một nhà , người giàu người nghèo đều cùng cha mẹ , phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau , đừng dùng mặt nạ giai cấp , chủ thuyết , giáo điều , tín lý để xâu xé lẫn nhau , để khó tồn tại trước làn sóng hoàn cầu hoá , trước xu thế thời đại .

- Từ xưa đến nay Phật Giáo , nagy trong thời thịnh thế , không bao giờ bắt bất cứ một chính quyền nào phải làm theo ý của mình mà chỉ hi vọng giúp các nhà lãnh đạo chính trị cai trị tốt , đem lại an bình , hạnh phúc cho dân , đem lại phồn vinh cho đất nước .

587. Hiện nay người xuất gia rất ít. Giáo Hội có chương trình gì để bổ khuyết?

- Tôi không dám thay mặt Giáo hội trả lời câu hỏi này . Tuy nhiên theo thiển ý , người xuất gia không ít , quốc nội cũng như quốc ngoại . Vấn đề là làm sao giữ được sơ tâm xuất gia , duy trì được lý tưởng phụng sự và dâng hiến của người xuất gia .

- Muốn có dự án cho các chương trình hoạt động Phật sự , trong đó có đề nghị tạo dựng , phát triển nhân sự , cần có những nỗ lực nghiên cứu , những bản thống kê đích thực , điều mà Phật Giáo Việt Nam chưa tích cực thực hiện .

588. Thiếu người xuất gia vì giới luật Phật Giáo quá nghiêm khắc? Tại sao Phật Giáo Việt Nam không thành lập giáo phái Tân Tăng như Nhật Bản?

- Có người nói sở dĩ thiếu người xuất gia vì giới luật nhà Phật quá nghiêm khắc . Không hoàn toàn như vậy vì đệ tử Phật rất đông lúc ngài còn tại thế , chư Tăng Ni rất đông thời vua A Dục , thời nhà Trần .

- Tại sao Phật Giáo Việt Nam không thành lập giáo phái Tân Tăng như Nhật Bản . Điều này ngay thập niên 60 Phật Giáo Việt Nam có nêu ra , nhưng nhận thấy quần chúng Việt Nam chưa có thể chấp nhận .Hơn nữa chư Tăng Nhật Bản dù được phép lập gia đình , số người “ xuất gia ” cũng không nhiều . Trong giáo hội Tin lành , hàng Mục Sư có quyền lập gia đình , nhưng vấn đề nhân sự cũng không dễ dàng . Ít ai muốn làm dâu trăm họ trừ phi vì hạnh nguyện hoằng hoá , phục vụ và phụng sự .

- Hệ phái Phật Giáo đại chúng , một hình thức Tân Tăng , do Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác Đức khởi xướng , trong nhiều năm qua vẫn chưa được phát triển mạnh mẽ .

- Có người nói tại sao không thành lập một đòan thể gồm những người cư sĩ có gia đình , có thể làm nhiệm vụ như một tu sĩ như tụng kinh , thuyết giảng , cai quản tự viện , nhưng không có quyền quy y . Giải pháp này cần lưu ý tuy nhiên thực hiện cũng không dễ : có cư sĩ nào tình nguyện làm việc này ? Quảng đại Phật tử có thể chấp nhận hình thức này?

589. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khác nhau ở chỗ nào?

- Trong chất liệu không khác nhau . Trước đây là một , bây giờ là hai , sau này là một và v.v…

- Trên hình thức khác nhau , một bên do nhà nước thành lập , dưới quyền điều khiển của ban tôn giáo , của Mặt Trận tổ quốc , một bên muốn độc lập , đứng ngoài ban tôn giáo , đứng ngoài Mặt Trận Tổ quốc .

- Trên thực tế không có gì khác nhau . cũng chừng ấy nhân sự , cũng chừng ấy cơ sở , chùa chiền , cũng cùng sinh hoạt dưới thể chế Cộng Hoà xã hội .

- Nói một cách khác , khác nhau ở chỗ tự mình cho mình khác nhau , ở chỗ chính quyền cho hai bên khác nhau , ở chỗ tâm mình khác nhau .

590. Nhiều người nói hiện nay có nhiều vị Tăng Ni từ Việt Nam ra ngoại quốc gọi là để học đạo, hoằng đạo mà thực sự là làm công tác tôn giáo vận? Có nên tìm hiểu lý lịch, theo dõi hoạt động của những vị Tăng Ni này?

- Chúng ta không nên vơ đũa cả nắm và chúng ta cũng đừng quá dị cảm . Không phải tất cả Tăng Ni ra hải ngoại đều là cán bộ tôn giáo vận của nhà nước Cộng Sản , cũng như không phải tất cả người Việt Nam ở hải ngoại về thăm quê nhà là thân Cộng sản .

- Hàng Tu Sĩ các tổ chức tôn giáo bạn , ngay cả hàng lãnh đạo cũng ra ngoại quốc thăm viếng , truyền đạo , sao không thấy đặt vấn đề tôn giáo vận ?

- Phật Giáo không phải là một tổ chức công an , tình báo do đó tại sao phải tìm hiểu lý lịch , theo dõi hoạt động của những Tăng Ni ra hải ngoại thăm viếng , học đạo , hoằng đạo ?

- Không phải là tổ chức công an tình báo , không được huấn luyện về ngành tình báo , công an mà làm công tác có tính cách công an tính báo chỉ gây thêm tội lỗi , gây thêm ngộ nhận , oan cho người , tội cho mình .

- Giả dụ họ có được mệnh lệnh ra nước ngoài làm công tác tôn giáo vận thì cũng không hại gì , vì đó chính là điều chúng ta mong muốn , mong muốn được tự do đi lại , tự do tôn giáo .Họ được tự do làm tôn giáo vận , chúng ta cũng được tự do tôn giáo vận những cán bộ tôn giáo vận này !

- Nếu ta không đủ đạo luật để duy trì đức tin , không đủ khả năng chuyển hoá ở khung trời tự do này thì làm sao ta có thể nói chuyển hoá nước Việt Nam trở thành tự do , làm sao chuyển hoá những người Cộng Sản về với Phật ? Vô lẽ diệt trừ nhau gọi là chuyển hoá ? Vô lẽ quả đất này không cho mọi người khác khuynh hướng có chỗ dung thân ? Vô lẽ người Việt Nam mãi mãi là kẻ thù không đội trời chung vì chính kiến bất đồng ?

591. Em nghe có một số quý Thầy khi nói chuyện với Phật Tử cao niên thường gọi họ là con, xưng mình là Thầy, đôi khi nói chuyện với những người không phải Phật Tử cũng xưng hô như vậy, phải chăng đây là quy luật thiền môn?

- Đây không phải là quy luật thiền môn .Hồi xưa quý Ôn , quý Thầy không xử dụng lối xưng hô này .

- Hiện tượng này được chớm nở vào năm 1964 tại Việt Nam nhưng không phổ cập . Quý Ôn , quý Thầy khi nói chuyện vẫn không xưng thầy với người đối thoại gọi bằng con . Trong hai thập niên lại đây cách xưng hô này có vẻ phổ biến , nhất là tại Hoa Kỳ , đặc biệt trong hàng Thượng Tọa chủ chùa .

- Đôi khi quý Thầy quen miệng nên cũng áp dụng cách xưng hô này với người không phải Phật tử .

592. Gần đây trong những nghi lễ Phật Giáo, đặc biệt tại quốc nội, có lễ rước chư Tăng với lư hương tàng lọng. Phải chăng đó là hình thức truyền thống? Tại thôn quê dân chúng nghèo khó có đủ tiền thuê tàng lọng?

- Nghi lễ truyền thống đôi khi có rước kiệu . Trong trường hợp này có cờ , có quạt , có lọng , có tàng di trước , có kiệu đi sau .

- Trong những đại lễ như Đại Giới Đàn , rước Tam Sư , Thất Chứng có lọng che và giới tử phủ phục lạy khi Tam Sư Thất Chứng đi ngang qua .

- Tùy theo từng nghi lễ , tùy mức độ trang trọng , cách thức tổ chức khác nhau , y phục , dụng cụ v.v…khác nhau .

- Hình thức lư hương , lư trầm , bình hoa , cờ tràng phan , bảo cái v.v…cốt làm cho buổi lễ thêm trang nghiêm trong mức độ quan trọng của buổi lễ .

- Không có lý do gì khi đưa đám cho một phật tử nghèo ở thôn quê lại cần phải có lọng tàng.

- Không có lý do gì phải có lễ bưng lư trầm , lư huơng , che lọng cho một hay những vị Tăng Ni tham dự lễ hàng tuần , hàng tháng trong chùa .

- Đôi khi những hình thức bày biện này là do sang kiến của hàng Phật tử muốn tỏ lòng tôn kính , quý mến với hàng Tăng Ni , hay nghi lễ truyền thống bắt buộc .

593. Trong những buổi lễ công cộng mời quan khách, đại diện các tôn giáo bạn, khi chư Tăng vào Hội Trường, người xướng ngôn viên thường mời Phật Tử, quan khách, đại diện các tôn giáo đứng dậy chấp tay nghênh đón. Mình là chủ lại bảo quan khách đứng lên nghênh đón mình?

- Bệnh chủ quan thường xảy ra cho mọi người chúng ta . Cứ tưởng ai đến lễ Phật đều là Phật tử , do đó phải chấp tay nghênh đón Chư Tăng Ni.

- Có lẽ không mời quan khách đứng dậy họ vẫn đứng dậy nếu toàn thể Phật tử đều đứng dậy . Do đó có lẽ tốt hơn hết là xướng ngôn viên chỉ mời Phật tử đứng dậy chấp tay nghênh đón Tăng Ni mà thôi . Quan khách họ có đứng dậy hay không là quyền của họ , chứ không mời họ làm vậy .

594. Sau những buổi lễ, chùa thường mời quan khách, Phật Tử ở lại thọ trai. Tại sao chư Tăng Ni ngồi bàn riêng mà không ngồi chung với quan khách, Phật Tử? Chư Tăng Ni, theo giới luật, không thể ngồi dùng cơm chung với người đời?

- Thật ra không có giới luật nào bắt Chư Tăng Ni Bắc Tông không được ngồi dùng cơm chung với Phật tử , quan khách trừ trường hợp An Cư Kiết Hạ .

- Đôi khi Chư Tăng ngồi riêng vì có một số khách Tăng họ cần tiếp , đồng thời nhân cơ hội này quý Thầy trong chùa cũng như ngoài chùa có nhiều chuyện trao đổi .

- Muốn tỏ lòng tôn kính đối với Chư Tăng Ni nên ban Trai Soạn hay Ban Tiếp Tân đã dọn riêng cho quý Thầy Cô .

- Dầu sao đi nữa , đây là cơ hội tốt để qúy Thầy Cô gặp Phật tử , gặp quan khách trong khung cảnh thân mật của một bữa cơm , do đó nên dùng cơm chung với họ .

- Tuy nhiên theo luật Phật , Chư Tăng Ni khi thọ trai giữ im lặng hoàn toàn , không chuyện trò , trừ phi dùng cơm tại nhà hàng hay uống trà mạn đàm .

595. Phật Giáo trước nền văn minh Abraham. Văn minh Abraham như thế nào?

- Văn minh Abraham là văn minh Do Thái , Cơ Đốc , Hồi Giáo trên bình diện tôn giáo , là chủ thuyết Cộng Sản trên bình diện chính trị , đều chủ trương độc tôn .

- Abraham là một nhân vật lịch sử ? Abraham là thánh tổ Do Thái ( với số tín đồ 15 triệu ) , Cơ đốc (với số tín đồ gần 2 tỉ ) , Hồi Giáo ( với số tín đồ 1 tỉ 1 ) , được chúa mặc khải , được chúa thỏa hợp để xây dựng nền tảng cho những tôn giáo này ?

- Cuộc đời của Abraham xuất hiện trong tập Genesis , tập sách đầu tiên của Thánh Kinh Do Thái và Cựu Ước Cơ Đốc : Abraham sinh tại xứ Chaldees , vào khoảng 2,100-1,000 năm trước Tây Lịch , đi đến Haran , rồi đến Canaan và miền Tây Ai Cập , sau trở về Canaan , rồi Hebron , tại đây ngài qua đời , hưởng thọ 175 tuổi , được chôn cất trong hang Machpelah cạnh bà vợ chính Sarah .

- Khi đến Haran , giờ đây là một làng Thổ Nhĩ Kỳ hẻo lánh với 500 người dân , sau khi thân phụ Terah qua đời , Abraham trở thành chủ gia đình được Chúa mặc khải bảo rời bỏ Haran , sẽ được Chúa ban cho một thổ quốc rộng lớn . Từ một di dân bình thường giờ đây được Chúa mặc khải trở thành một nhân vật vĩ đại .

- Abraham rời Haran năm ông 75 tuổi , vượt qua Syria , qua Damascus đến Canaan , theo Thánh Kinh là vùng Đất Hứa , nơi “đầy sữa và mật ”, rồi đi qua vùng đất Shechem đến Terebinth . Shechem là một thành phố xưa nhất vùng Trung Á , giờ đây là Nablus , một thành phố phồn thịnh với 130,000 dân , phiá tây sông Jordan , dưới quyền kiểm soát của chính quyền Palestin . Tại đây Chúa xuất hiện cho Abrahma biết hậu duệ của Abraham được chúa ban cho vùng đất này .

- Abraham trên đường hướng đến Ai Cập , vợ của Abraham tên là Sarah bị quân cận vệ của vua ( Pharaoh ) Ai cập bắt làm tì thiếp , nhưng sau trả lại cho Abraham . Từ giã Ai Cập trở về Canaan , Vùng Đất Hứa , Chúa hiện ra trước mặt Abraham ban đất đai cho Abraham . Để tỏ lòng biết ơn, Abraham xây một ngôi đền tại Hebron , tọa lạc tại hỏm núi Judah , cách Jerusalem 15 dặm về phía Tây nam .

596. Sau khi được Chúa ban cho Vùng Đất Hứa, cuộc sống của Abraham như thế nào?

- Tại Hebron , Abraham trở thành một vị chỉ huy quân sự có tài ba và đảm luợc , nhưng vẫn không có con kế thừa sự nghiệp . Chúa hiện ra cho biết Abrham sẽ có con và hàng hậu duệ sẽ được Chúa ban cho vùng đất từ sông của Hi Lạp đến sông Euphrates .

- Vì đã lớn tuổi mà chưa có con nên bà Sarah , vợ của Abraham để cho Hagar , một nô tì người Ai Cập , ăn nằm với Abraham sinh được người con trai đặt tên là Ismael .

- Khi Hagar mang thai , Sarah tỏ ra ghen tị , làm áp lực với Abraham , cuối cùng Hagar phải trốn ra khỏi nhà , đến sa mạc hoang dã , nhưng Thiên Thần khuyên Hagar ẩn nhẫn trở về nhà . Hagar vâng lời . Sau khi trở về nhà một thời gian , Hagar sinh con trai , đặt tên là Ismael . Kinh Koran của Hồi Giáo gọi Ismael là Tin Mừng , là Thiên Sứ , nhưng không đề cập đến Hagar , mẹ của Ismael . Lúc ấy Abraham được 86 tuổi .

- Năm Ismael được 13 tuổi , Abraham được 99 tuổi , Sarah được 89 tuổi, nhờ Chúa ban phép , Sarah sinh được một người con trai đât tên là Isaaic . Muốn Isaaic , con của mình , thừa hưởng trọn gia tài , Sarah làm áp lực với chồng đuổi Hagar và Ismael ra khỏi nhà .

597. Chúa đã thử thách Abraham như thế nào?

- Để thử xem lòng tin của Abraham đối với Chuá kiên định đến mức độ nào , Chúa ra lệnh cho Abraham đem đứa con trai Isaaic đưa lên dàn hỏa tế thần . Abraham không ngần ngại , không do dự , hoàn toàn tuân phục lệnh Chúa . Nhưng đó chẳng qua là sự thử thách lòng trung kiên mà thôi .

- Kinh Koran cũng có đề cập đến việc Chúa muốn thử lòng Abraham , ra lệnh cho Abraham hi sinh đứa con yêu quý của mình . Phần đông tín đồ Hồi giáo cho rằng chính Ismael là đứa con bị hi sinh chứ không phải Isăic và sự thử thách được xảy ra tại hay gần Mecca .

- Sarah qua đời năm 127 tuổi , Abraham chôn cất bà trong hang Machpelah , cưới vợ cho Isaaic , rồi tái giá với bà Keturah sinh được 6 người con .

598. Abraham, biểu tượng của Đức Tin Tuyệt Đối.

- Abraham là Đức Tin độc thần không lay chuyển , đức tin kiên cường , hi sinh không bờ bến , đã theo lời Chúa phán , đem con trai làm vật hi sinh .

- Rabbi Manahem Froman sống gần Hebron nói : “ Đới với tôi ,Abraham là một triết thuyết , Abraham là văn hóa . Abraham có thể là nhân vật lịch sử hay không điều đó không quan trọng . Với tôi Abraham là một tư duy , là tất cả . Tôi không cần xương thịt của Abraham .”

- Abraham không bao giờ chết . Đức tin độc thần là mô hình cỉa chúa Jesus , mô hình của Mohammad , là Đức Tin của Do Thái , Cơ Đốc và Hồi Giáo .

- Văn minh Abraham với đức tin kiên cường vô bờ bến ấy , đang lan tràn khắp nơi , làm ngọn đuốc soi đường cho 3 tôn giáo lớn hiện nay trên thế giới, làm mô hình cho chủ nghĩa độc tôn Cộng Sản .

599. Vai trò tôn giáo trong xu thế hoàn cầu hóa. Hoàn cầu hóa là gì?

-Quả đất dần dần nhỏ đi qua khoa học , kỹ thuật . Những cộng đồng riêng rẽ dần dần xích gần lại với nhau . trong bối cảnh tương quan hiện thực này , mỗi hành động của cá nhân hay tập thể đều liên hệ chặt chẽ với cá nhân , cộng đồng khác, về kinh tế , văn hóa , tập quán , nếp sống . Đó là ý nghĩa của Hoàn Cầu hóa.

- Tôn giáo là gì?

- Những ai đã sống bằng kinh nghiệm nội tĩnh , cảm niệm tôn giáo đối với họ không có gì bí ẫn , xa lạ , không khác gì cỏ cây , đá sỏi , đất đai trong cảnh vật thiên nhiên .

- Ai cũng có thể cảm niệm tôn giáo cho đến khi người ta dùng danh từ để diễn đạt tôn giáo . Chính hành động định nghĩa tôn giáo làm cho tôn giáo vượt ngoài tầm tay của chúng ta , hạn chế ý nghĩa tôn giáo , biến tôn giáo thành những hình thái xa lạ , cho chúng ta cái nhìn phiến diện về tôn giáo .

- Vai trò tôn giáo như thế nào trong tiến trình lịch sử nhân loại?

- Từ 8,000 năm trước kỷ nguyên , khi Abraham chưa ra đời , cho đến khi Cách Mạng Nông Nghiệp kết thúc vào thế kỷ thứ 17 , 18 , tinh thần thuần khiết của tôn giáo dần dần biến thể , để rồi bị điều kiện hoá bởi xã hội , bởi lòng nhiệt thành muốn đem đạo lý tôn giáo cá biệt truyền bá khắp nơi , xử dụng mọi phương tiện , mọi hình thức , vô tình biến tôn giáo thành công cụ cho những thế lực thế tục . Địa vị tôn giáo độc tôn ngự trị . Vai trò cứu thế của tôn giáo dần dần phai nhạt nhường chỗ cho thế quyền .

- - Từ cách mạng kỹ nghệ đến giữa thập niên 1950 là những cuộc xâm lăng vô tiền khoáng hậu , những cuộc chiến tranh đẫm máu , rùng rợn , trong đó tôn giáo cũng dự phần .

- Vai trò tôn giáo trong xu thế hoàn cầu hóa như thế nào?

- Bước vào thiên niên kỷ mới , trong khung trời Hoàn Cầu Hóa , chúng ta nghe các nhà lãnh đạo nói đến tình thương , đến tương quan nhân loại , đến sám hối , đến hợp tác . sám hối như thế nào và hợp tác theo chiều hướng nào ?

- Đức Giáo Hoàng trong buổi lễ Giáng Sinh năm 2003 tại thánh đường St.Peter , La Mã kêu gọi hòa bình : “ Màu còn đổ quá nhiều trên Trái Đất …bạo động , xung khắc quá nhiều làm cho các quốc gia khó sống chung hòa bình ….Đức Chúa ra đời mang lại hòa bình cho nhân loại . Chúa là hoà bình . Nguyện cầu ánh sáng của Chúa soi sáng đêm tối trần gian . Nguyện cầu thông điệp tình thương của Chúa có đủ quyền năng dẹp tan lưới hung ác kiêu hãnh . Cầu mong ân sủng của Chúa qua mạng sống của Ngài khiến cho nhân thế hiểu rõ giá trị của cuộc sống trong mỗi người . “

- Một ứng cử viên Tổng thống thuộc đảng dân chủ , bác sĩ Howard Dean , cựu thống đốc tiểu bang Vermont khi hỏi “Ông có xem đức Jesus Christ là con của Chúa và tin đức Jesus Christ là con đường đi đến cứu rỗi và đời sống miên viễn ?” đã trả lời như sau :” Tôi chắc chắn tin Jesus Christ là con của Chúa , còn tôi được cứu rỗi hay không đâu phải do tôi tự quyết định . “

- Mục sư Pat Robertson với con tim đầy nhiệt huyết cho mình có sứ mạng do Chúa giao phó kêu gọi hàng tín hữu nhân danh Chúa đem Hoa Kỳ và thế giới trở về với Chúa , nói Chúa muốn Tổng Thống Bush được tái đắc cử trong nhiệm kỳ tới . Trong lá thư độc giả đăng trong tờ Los Angeles Times, trang B , ngày 8-1-2004 , một độc giả nhận định :….chiến tranh chống khủng bố trở thành chiến tranh của hai phe cực đoan . Thành phần cực hữu , cực đoan Cơ đốc , với bộ máy quân sự lớn nhất trong lịch sử , đối đầu với thành phần khủng bố cực đoan Hồi giáo . Tôn giáo sao mà tuyệt hảo như vậy ?

600. Phật Giáo trong thế kỷ 21.

- Phật Giáo đang đứng giữa diễn tiến hoàn cầu hóa , đang đứng giữa những làn đạn cực đoan thời đại , Phật Giáo đang đi vào thế kỷ 21.

- Đã đến thế kỷ 21 ? Tôi cứ ngỡ là mình mới đi vào thế kỷ 17 ! Thời gian không cánh mà bay nhanh ! Phải rồi sao mà tôi lú lẫn .Vừa nói đến hoàn cầu hóa !

- Nhưng thế kỷ thứ 17 cũng có hoàn cầu hóa ! Văn minh Tây phương bắt đầu ngự trị vào thời kỳ hoàn cầu hóa này . Những đạo quân thuộc địa đi hàng phục các dân tộc bán khai, kết quả nhiều quốc gia kém mở mang chịu vết giày thực dân thuộc địa và Phật Giáo đã trải qua cơn ác mộng .

- Giờ đây mức độ hoàn cầu hóa mạnh và nhanh hơn thế kỷ thứ 17: Dân chủ dần dần đến các nước Âu Châu sau Đệ Nhất Thế Chiến , East Timor đã trở thành một quốc gia độc lập, những vùng đất khác tại Nam Dương và các nơi khác trên thế giới cũng đòi tự trị . Vụ 11/9/2001 làm chấn động Hoa Kỳ , rồi chiến tranh A Phú Hãn , rồi chiến tranh tại Iraq.

- Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc ngày càng bành trướng làm cho các hãng dệt tại Hoa kỳ phải đóng cửa hay phải thải bớt nhân viên. Ngân sách Hoa Kỳ thâm thủng . Kỹ nghệ điện toán, hàng mềm (softwares) từ Hoa Kỳ chuyển qua Ấn độ . Kinh tế thị trường tự do làm đảo lộn nền kinh tế thế giới. Á Châu, Phi Châu là đối tượng truyền giáo của toà thánh Vatican vào thế kỷ thứ 21.

- Dân chúng trên thế giới ngày càng ý thức tầm quan trọng của bang giao quốc tế, ý thức sự liên hệ mật thiết giữa các cộng đồng trên thế giới.

- Việt Nam phản ứng như thế nào trước sức mạnh hoàn cầu hóa? Việt Nam có đủ khả năng chọn thứ tự do này (kinh tế thị trường tự do) mà bỏ thứ tự do khác (nhân quyền, chính trị)?

- Phật Giáo phản ứng như thế nào trước sức mạnh hoàn cầu hoá? Phật Giáo Việt Nam lấy truyền thống dân chủ xưa nhất để tự an ủi mà làm ngơ không giải quyết vấn đề tăng Ni, Phật Tử? Làm ngơ không giải quyết nếp sống Lục Hòa hiện đang bị thử thách một cách nghiêm trọng? Coi nhẹ nếp sống tập thể, tinh thần tập thể?

- Phật Giáo hãnh diện với đạo lý tương duyên, cộng sinh, cộng tồn, Phật Giáo Việt Nam làm cách nào để thể hiện sự tồn tại của mình không cá biệt?

- Phật Giáo hãnh diện với đạo lý Trung Đạo. Phật Giáo Việt Nam có cùng nhau ngồi lắng nghe ý kiến của nhau hay cứ che mắt bịt tai trước những lời nói , ý kiến không phù hợp với ý kiến , lời nói của riêng mình?

- Phật Giáo hãnh diện với phương thức khế lý , khế cơ. Phật Giáo Việt Nam đã chuyển mình như thế nào trong nhiệm vụ hoằng pháp? Vai trò xuất thế, nhập thế đã được điều hòa như thế nào, được phân loại ưu tiên ra làm sao, được thể hiện trong các vai trò của tứ chúng đệ tử như thế nào?

- Phật Giáo đầy đủ đạo lý Tín, Giải, Hành, Chứng hay Tín, Hạnh, Nguyện. Phật Giáo Việt Nam bằng phương thức gì để phát khởi đức tin, qua thân giáo, khẩu giáo, ý giáo?

- Phật Giáo giảng dạy đạo lý từ bi Hỷ xả. Phật Giáo Việt Nam thể hiện đạo lý này như thế nào? Cụ thể hóa đạo lý này trong đời sống cá nhân, đời sống tập thể, nếp sống cộng đồng như thế nào?

- Phật Giáo có tất cả. Chúng ta được may mắn thừa hưởng tất cả. Tư lương sẵn có, lộ trình tu chứng dài đằng đẳng, chúng ta có quyết tâm đi con đường chân chính? Con đường chư Phật, chư Tổ để lại?

- Làn sóng hoàn cầu hóa là cơ hội tốt hay là trở ngại lớn tùy thuộc ở nơi ta. Tiếng nói của Phật Giáo phải là tiếng nói của hòa bình, của dung hòa, phản ánh đạo lý trung đạo, phản ánh truyền thống cao đẹp của đức Thế tôn.

 

TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ TRÍCH DẪN

- Joseph Buttinger: Viet Nam: A Dragon Embattled, Vol. I – II.

- Thích Chơn Thiện: Bàn Về Giáo Lý Duyên Khởi.

- Nguyễn Duy Cần: Phật Học Tinh Hoa.

- Nguyễn Văn Chức: Việt Nam Chính Sử

- Kiêm Đạt: Lịch Sử Tranh Đấu Phật Giáo Việt Nam

- Ven. S. Dhammika: Good Questions and Answers

- Ananda W.P. Guruge: What in Brief is Buddhism?

- Thích Nhất Hạnh: Đường Xưa Mây Trắng.

- Đỗ Vạn Lý:Tìm Hiểu Đạo Cao Đài

- Nguyễn Lang:Việt Nam Phật Giáo Sử Luận I, II, III.

- Đỗ Mậu:Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi.

- Thích Minh Châu:Hành Thiền.

- Minh Đức – Thanh Lương:Bồ Tát Đạo I, II.

- John Renard:101 Questions and Answers on Buddhism.

- Francis Story:Dialogues on the Dhamma.

- Thích Tâm Thiện:Vấn Đề Căn Bản của Triết Học Phật Giáo.

- Thanh Sĩ và Vương Kim:Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo.

- Lê Mạnh Thát:Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam I, II, III.

- Thích Thiền Tâm: Phật Học Tinh Yếu.

- Thích Thiện Châu:Tìm Đạo.

Trần Quang Thuận:

- Hành Trì Phật Đạo Tại Trung Quốc

- Phật Giáo Trung Hoa Dưới Thời Mao Trạch Đông.

- Phật Giáo Tây Tạng

- Phật Giáo Vùng Trung Á

- Phật Giáo Tích Lan

- Phật Giáo Đông Nam Á.

- Hành Trì Phật Đạo Tại Thái Lan.

- Phật Giáo Nga.

- Phật Giáo Mỹ I, II

- Triết Học Chính Trị Khổng Giáo.

- Phật Giáo Đại Hàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567