
LỜI GIỚI THIỆU
KINH THƠ VIÊN GIÁC
Do Cư Sĩ Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng Chuyển Tả Thành Thơ.
I.- CƯ SĨ NHƯ NINH VỚI KINH THƠ VIÊN GIÁC.
Cư sĩ Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng, pháp danh Như Ninh, sinh năm 1956 tại Quảng Ngãi, sớm có duyên lành với Phật pháp. Năm lên sáu tuổi (1962), Cư sĩ được quy y với Hòa thượng Thích Trí Hưng tại chùa Từ Lâm, Quảng Ngãi, và chính thức bước vào con đường tu học. Thuở thiếu thời, Cư sĩ là một trong số ít Pháp tử của “Nhóm Thập Thiện”, được đào tạo nghiêm mật về nội điển và ngoại điển, rèn luyện cả trí lực, thể lực và khả năng hùng biện, với sự hướng dẫn tận tình của chư Tôn đức.
Năm 1974, Như Ninh thọ giới Sa-di tại chùa Phước Sơn, Quảng Đức, và năm 1976 được thọ Cụ túc giới tại Tổ đình Ấn Quang với pháp hiệu Thích Giải Tân. Tuy nhiên, ngay sau đó, biến động xã hội đã khiến vị Tăng trẻ tuổi này bị bắt giam và buộc phải rời xa đời sống xuất gia. Sau nhiều năm thử thách, Cư sĩ trở về đời thường với tư cách một Phật tử tại gia, nhưng tâm nguyện tu học và hộ trì chánh pháp vẫn chưa từng phai nhạt.
Định cư tại Hoa Kỳ theo diện tỵ nạn chính trị, Cư sĩ vừa chuyên cần học tập vừa dấn thân phục vụ cộng đồng. Tốt nghiệp Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh (Ph.D. in Business Administration), Cư sĩ từng giảng dạy tại Hayward State University, làm việc trong các công ty điện tử ở Silicon Valley, và tham gia nhiều hoạt động văn hóa Phật giáo tại hải ngoại. Hiện nay, Cư sĩ đảm nhiệm vai trò Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phật giáo Thực dụng (The Practical Buddhism College) tại San Jose, California.
Dù trải qua bao thăng trầm, Cư sĩ Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng vẫn giữ trọn căn bản nội điển Bắc truyền cùng công phu thiền học được rèn luyện từ thời niên thiếu. Bẩm sinh có tâm hồn thi sĩ, Cư sĩ đã vận dụng thi ca như một phương tiện để chuyển tải giáo pháp. Những tác phẩm như Kinh Thơ Diệu Pháp Liên Hoa (2015), Kinh Thơ Hoa Nghiêm (2017), và nay là Kinh Thơ Viên Giác đã trở thành nhịp cầu đưa chánh pháp đến gần hơn với người học Phật.
Trong từng câu thơ của Cư sĩ, người đọc có thể nhận thấy một sự hòa quyện tinh tế: vừa giữ nguyên tinh thần uyên áo của kinh văn, vừa trong sáng, nhẹ nhàng, dễ đi vào tâm thức như những đóa hoa Bồ-đề nở giữa đời thường.
Kinh Thơ Viên Giác chính là kết tinh của một hành trình tu học, phụng hiến và sáng tạo; là tấm lòng tha thiết muốn đưa giáo lý thâm diệu của Đức Phật trở thành nguồn suối mát tưới tẩm đời sống tâm linh của mọi người con Phật.
Lời thơ như mở lối về,
Nghe kinh như thể Bồ đề trổ hoa.
Một phen vọng tưởng lặng qua,
Giữa đời huyễn mộng, sáng lòa chân tâm.
[Như Ninh: Kinh Thơ Viên Giác]
II.- KINH VIÊN GIÁC: ÁNH SÁNG CỦA TRÍ TUỆ BẤT ĐỘNG.
Trong kho tàng kinh điển Bắc truyền, mỗi bộ kinh đều là một cánh cửa mở ra cho hành giả con đường tiếp cận chân lý. Nếu Kinh Pháp Hoa được xem như “vua của các kinh”, Kinh Hoa Nghiêm như “biển cả của vạn pháp”, thì Kinh Viên Giác lại là viên ngọc tịnh sáng, gọn mà sâu, ít chữ mà uyên áo, trực chỉ thẳng vào bản thể thanh tịnh viên mãn nơi mỗi chúng sanh.
Ngay từ tên gọi, “Viên Giác” đã hàm chứa ý nghĩa trọn vẹn: “Viên” là đầy đủ, toàn diện, không thiếu sót; “Giác” là giác ngộ, tỉnh thức, sáng tỏ. Viên Giác chính là cảnh giới giác ngộ viên mãn vốn sẵn nơi mỗi hữu tình, chẳng do tu tập mới có, chẳng vì mê lầm mà mất đi. Điều kỳ diệu là cảnh giới này, vốn siêu việt mọi đối đãi, lại được diễn đạt trong ngôn từ giản dị nhưng thâm sâu, khiến hành giả vừa đọc, vừa cảm như nghe tiếng lòng mình vọng lại.
Kinh được kết cấu bằng hình thức vấn đáp: mười hai vị Đại Bồ-tát, tiêu biểu cho mười hai căn cơ, thưa hỏi đức Phật Thích Ca về phương tiện tu hành đưa đến chỗ rốt ráo giải thoát. Câu trả lời của Như Lai, tuy ứng cơ mà nói, nhưng luôn quy về một mối: không ngoài bản tâm Viên Giác thanh tịnh. Chính nhờ vậy, kinh vừa là tấm gương để người sơ tâm định hướng, vừa là ngọn hải đăng soi đường cho bậc tu chứng đã thâm nhập huyền môn.
Điểm nổi bật của Kinh Viên Giác là sự quân bình giữa tri và hành. Đức Phật không chỉ giải thích về bản thể bất sinh bất diệt, mà còn chỉ bày những phương pháp tu tập thích hợp cho từng căn cơ: từ quán sát vọng tưởng, lìa chấp trước, đến an trú nơi tịch tĩnh. Tất cả phương tiện ấy, như ngón tay chỉ mặt trăng, đều nhằm giúp hành giả nhận ra bản tâm vô sanh. Do vậy, đọc Kinh Viên Giác không phải chỉ để hiểu nghĩa, mà là để quán chiếu, thực nghiệm, và sống với ánh sáng giác ngộ ấy trong từng hơi thở, từng khoảnh khắc.
Trong dòng lịch sử Phật giáo Đông Á, Kinh Viên Giác giữ vị trí đặc biệt. Các bậc Tổ sư Thiền tông nhiều đời đều xem kinh này như một bản chỉ nam để hành giả nhận rõ vọng tưởng và trực ngộ tự tánh. Tại Việt Nam, từ hai thời đại Nhà Lý và Nhà Trần, Kinh Viên Giác đã được trân trọng tụng đọc và chú giải. Tư tưởng “tức vọng tức chân”, “ly huyễn hiển chân” trong kinh đã trở thành nền tảng cho thiền phái Trúc Lâm, ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa và tâm thức dân tộc.
Thật vậy, khi con người đối diện với khổ đau, với phiền não, thì ánh sáng của Viên Giác là lời nhắc nhở dịu dàng nhưng kiên định: bản tánh của ta chưa từng ô nhiễm; mê lầm chỉ như mây nổi, còn bầu trời tự tánh vẫn trong sáng, vô ngại. Nhận ra điều ấy, ta không còn bị cuốn trôi bởi sinh tử, cũng chẳng còn sợ hãi trước vô thường. Trái lại, chính trong vô thường, ta sống trọn vẹn hơn, bao dung hơn, tự do hơn.
Lời giới thiệu tác phẩm thi hóa Kinh Thơ Viên Giác này xin được xem như nén hương lòng dâng lên chư Phật, chư Tổ đã khai thị con đường giác ngộ, và như đôi lời thưa gửi cùng quý Phật tử đồng hương. Kinh Viên Giác không phải là pho triết lý viễn vông, cũng chẳng phải chỉ là văn bản cổ xưa để nghiên cứu, mà là một thông điệp sống động, một tiếng gọi từ chính nội tâm ta: hãy quay về, nhận lại kho báu sẵn có.
Nguyện cho mỗi ai hữu duyên cầm thi phẩm Kinh Thơ Viên Giác này trong tay đều thấy mình như soi gương, tự nhận ra dung nhan bản lai diện mục. Nguyện cho ánh sáng Viên Giác chan hòa trong từng tâm niệm, từng nẻo đường, để cuộc đời này, vốn đầy biến động, trở thành mảnh đất tịnh lạc nuôi lớn từ bi và trí tuệ.
Nguyên Toàn
San Jose, ngày 01 tháng 10 năm 2025