Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 81. Kinh Lăng Già giải nghĩa

07/05/202009:43(Xem: 2956)
Bài 81. Kinh Lăng Già giải nghĩa

KINH LĂNG GIÀ

GIẢI NGHĨA

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

MỤC4:

SỰ SINH DIỆT CỦA
ẤM, GIỚI, NHẬP:

 

     Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

- Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn vì chúng con thuyết sự sanh diệt của ấm, giới, nhập (1), nếu những việc ấy chẳng có tự tánh (ngã) thì ai sanh ai diệt? Phàm phu là y nơi sanh diệt, chẳng biết Niết Bàn, chẳng thể hết khổ.

     Phật bảo Đại Huệ:

- Lành thay! Hãy chú ý nghe, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

     Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:

- Cúi xin thọ giáo.

     Phật bảo Đại Huệ:

- Tạng của Như Lai là hiển bày cái nhân thiện và bất thiện, phổ biến tạo ra các loài chúng sanh, ví như nhà ảo thuật biến hiện các loài người huyễn hóa, lìa ngã và ngã sở. Ngoại đạo chẳng biết do ba duyên Căn, Cảnh, Thức hoà hợp phương tiện sanh khởi, lại chấp trước có kẻ tạo tác, ấy là do ác kiến tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân, gọi là Tạng Thức, do đó sanh vô minh trụ Địa, cùng với thức thứ bảy sanh pháp nhiễm tịnh, như biển nổi làn sóng, thường khởi chẳng dứt. Nếu lìa lỗi vô thường, và lìa nơi Thần Ngã (2) Chấp Thường Luận của ngoại đạo thì tự tánh vô nhiễm, bổn lai trong sạch.

- Còn các thức kia thì có sanh có diệt, nơi ý thức niệm niệm tạo cái nhân vọng tưởng chẳng thật, chấp lấy các cảnh giới đủ thứ hình xứ danh tướng, chẳng biết sắc tướng do tự tâm sở hiện, chẳng lìa khổ vui, chẳng đến giải thoát, bị danh tướng trói buộc, tham sanh rồi sanh tham. Nếu nhân duyên các căn nhiếp thọ diệt thì tương tục chẳng sanh, nếu lìa tự tâm vọng tưởng, chẳng thọ khổ vui, hoặc nhập Diệt Tận Định, hoặc nhập Cõi Tứ 'Thiền, hoặc khéo tu Chân Đế giải thoát, chỉ chứng lý Thiên Không (3), người tu cho là giải thoát, ham trụ Niết Bàn, chẳng lìa chẳng chuyển, gọi là “Như Lai Tạng Thức Tạng”.

- Ngoại đạo do thức thứ bảy chấp thức thứ tám làm Thần ngã thì lưu chuyển chẳng diệt, do đó các thức phan duyên, chẳng phải cảnh giới tu hành của Thanh Văn, Duyên Giác, vì chẳng giác được Vô Ngã, có tự tướng cộng tướng nhiếp thọ, sanh ấm giới nhập. Nếu thấy tánh Như Lai Tạng thì năm pháp tự tánh và nhân pháp Vô Ngã đều diệt.

- Từng Địa thứ lớp tương tục tiến lên, chẳng bị kiến chấp ngoại đạo lay động, ấy gọi là trụ Bồ Tát Bất Động Địa, chứng đắc mười thứ đạo môn an vui của Tam Muội, mà tự nguyện chẳng thọ môn vui của Tam Muội, do huệ giác của Tam Muội sở trì, quán sát Phật Pháp bất khả tư nghì và thật tế hướng lên Tự Giác Thánh Trí, chẳng cùng lối tu hành của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo, đắc mười thứ chủng tánh (4) Hiền Thánh, lìa Tam Muội hạnh, vào nơi Như Lai ý sanh thân (5) của Trí thân. Cho nên, Đại Huệ! Đại Bồ Tát muốn cầu thắng tiến, nên tẩy sạch danh tướng Như Lai Tạng và Thức tạng.

- Đại Huệ! Nếu chẳng có danh tướng Thức tạng và Như Lai Tạng thì chẳng có sanh diệt, nhưng các bậc phàm phu Hiền Thánh đều có sanh diệt. Người tu hành Tự Giác Thánh Trí chẳng xả phương tiện mà hiện pháp lạc trụ. Đại Huệ! Cái Như Lai Tạng và thức tạng này là do tâm tưởng của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác sở thấy, dù tự tánh thanh tịnh, nhưng bị khách trần che lấp, vẫn thấy bất tịnh, chẳng phải sự thấy của Như Laị. Đại Huệ! Cảnh giới hiện tiền của Như Lai, cũng như xem trái Yêm Ma La trong bàn tay vậy.

- Đại Huệ! Ta ở nơi nghĩa này dùng thần lực kiến lập, khiến Thắng Man Phu Nhân và chư Bồ Tát trí sáng đầy đủ v.v... diễn thuyết tuyên dương danh tướng Như Lai Tạng với thức tạng, và sự cùng sanh của bảy thứ thức kia. Vì hàng Thanh Văn chấp trước, còn thấy có nhân, pháp Vô Ngã, nên Thắng Man Phu Nhân thừa Phật oai thần thuyết cảnh giới Như Lai chẳng phải cảnh giới của Nhị thừa và ngoại đạo. Đối với Như Lai Tạng và thức tạng, chỉ có Phật và bậc Bồ Tát y nghĩa lợi trí có cảnh giới trí huệ này. Cho nên ngươi và các Đại Bồ Tát nơi Như Lai Tạng và Thức tạng nên siêng tu học, chớ nên chỉ nghe biết được cho là đủ.

     Khi ấy, Thế Tôn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

1. Như Lai Tạng thâm sâu,
Mà cùng với bảy thức,
Sanh hai thứ nhiếp thọ,
Bậc trí nên xa lìa.

2. Vô thỉ huân tập khí,
Như tượng hiện tâm gương.
Người quán sát như thật,
Hữu sự như vô sự.
3. Kẻ ngu quán mặt trăng,
Quán chỉ chẳng quán trăng.
Chấp trước theo văn tự.
Chẳng thấy nghĩa chân thật.

4. Tâm làm nghề ảo thuật,
Ý là người giúp nghề.
Ngũ thức bạn diễn viên,
Vọng tưởng là khán giả.

 

GIẢI NGHĨA:

 

(1) Ấm, Giới, Nhập:Ấmlà Năm Ấm hay Năm Uẩn, gồm: Tướng mạo, vật chất (Sắc), Cảm giác (Thụ), Nhớ nghĩ (Tưởng), Tạo tác (Hành), Nhận thức phân biệt (Thức); Nhậplà Sáu căn tiếp nhận Sáu Trần; Giới là Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần sinh ra Sáu Thức. Đây thuộc về ba tướng tương tục, là ba yếu tố hiện hữu tạo thành Thế giới tương tục, Chúng sinh tương tục, và Nghiệp qủa tương tục.

(2) Thần ngã: Là ngoại đạo cho rằng cái ta có linh hồn. Cũng gọi Thần ngã đế, Ngã tri giả. Gọi tắt: Thần, Ngã. Chỉ cho bản thể tinh thần của cá nhân, đế thứ 25 trong 25 đế do học phái Số luận ở Ấn độ lập ra. Tức chủ trương cho rằng Ngã là Thực ngã thường trụ độc tồn, thụ dụng các pháp. Vì đối với Tự tính, phái Số luận lập ra 25 đế và lấy Tự tính đế (Phạm: Prakftì) đầu tiên trong 25 đế làm bản tính, 23 đế ở khoảng giữa là biến dị (đổi khác), còn Thần ngã đế thứ 25 thì chẳng phải bản tính cũng chẳng phải biến dị, thể của nó là có thật, thường còn, thanh tịnh và độc lập. Tóm lại là ngoại đạo cho rằng cái ta có linh hồn bất biến trường tồn.

(3) Thiên Không: Cũng gọi Thiên Chân, Đơn Không. Chỉ cho lí Không của Nam truyền, vì lí Không thiên về bên Không nên gọi là Thiên Không. Còn trong Bồ tát thì có 2 loại lợi và độn, độn thì chỉ thấy Thiên Không, chứ chẳng thấy Bất Không.

(4) Mười thứ chủng tánh: Gồm:1. Thanh Văn chủng tánh, 2. Duyên giác chủng tánh, 3. Như Lai chủng tánh, 4. Tự tánh pháp chủng tánh, 5. Lìa tự tánh pháp chủng tánh, 6. Đắc tự giác Thánh chủng tánh, 7. Ngoài sát thù thắng chủng tánh, 8. Định chủng tánh, 9. Bất Định chủng tánh, 10. Phân biệt chủng tánh.

(5) Ý sanh thân: Bồ Tát từ bậc 3 trở lên đạt tam muội như huyển, có năng lực ý đi đâu thì thân biến theo đó để có thể vào các cõi Phật.

 

     Mục 4, Quyển 4, Bồ Tát Đại Huệ lại thỉnh Phật thuyết sự sinh diệt của Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức (Ấm), Sáu Căn và Sáu Trần (Nhập) và Sáu Căn, Sáu Trần, Sáu Thức (Giới); nếu những việc này chẳng có bản thể của tâm (tự tánh) thì không có sinh diệt, tức không có người sinh diệt. Vì phàm phu sống trong (y nơi) sinh diệt, chẳng biết bản thể của tâm là không sinh diệt đầy tràn không gian lúc nào cũng hiện diện (Niết Bàn), nên phàm phu chẳng thể hết khổ.

 

     Đức Phật bảo rằng: “- Tạng của Như Lai là hiển bày cái nhân thiện và bất thiện, phổ biến tạo ra các loài chúng sanh, ví như nhà ảo thuật biến hiện các loài người huyễn hóa, lìa ngã và ngã sở. Ngoại đạo chẳng biết do ba duyên Căn, Cảnh, Thức hoà hợp phương tiện sanh khởi, lại chấp trước có kẻ tạo tác, ấy là do ác kiến tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân, gọi là Tạng Thức, do đó sanh vô minh trụ Địa, cùng với thức thứ bảy sanh pháp nhiễm tịnh, như biển nổi làn sóng, thường khởi chẳng dứt. Nếu lìa lỗi vô thường, và lìa nơi Thần Ngã (2) Chấp Thường Luận của ngoại đạo thì tự tánh vô nhiễm, bổn lai trong sạch”.

 

     Nghĩa là nơi chứa (Tạng) của bản thể tâm cùng khắp không gian, không qúa khứ tương lai, đúng như bản lai (Như Lai) là hiển bày cái nhân thiện và bất thiện, chung khắp tất cả (phổ biến) tạo ra các loài chúng sinh, ví như nhà ảo thuật biến hiện các người huyễn hóa, lìa cái ta và cái của ta (ngã và ngã sở). Ngoại đạo chẳng biết do ba duyên Căn, Cảnh, Thức hoà hợp phương tiện sinh khởi, lại chấp trước có kẻ tạo tác, đây là thấy sai (ác kiến) do thói quen (tập khí) hư ngụy từ vô thủy do 7 Thức đầu nhập vào, A Lại Da Thức thứ tám là nơi chứa nhận (sởhuân), gọi là Tạng Thức, do đó sinh vô minh nằm nơi Tạng thức (trụ Địa). Tạng Thức cùng với Mạt Na (Thức thứ bảy) sinh pháp nhiễm tịnh, như biển nổi làn sóng, thường khởi chẳng dứt; nếu lìa lỗi chấp vô thường và lìa chấp linh hồn của ta bất tử (nơi Thần Ngã Chấp Thường Luận) của ngoại đạo thì bản thể tâm (tự tánh) dứt hết ô nhiễm, căn nguyên (bản lai) được trong sạch.

 

    Ngài nói tiếp: ….

(Còn tiếp)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567