Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 34: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

25/05/201715:29(Xem: 4570)
Bài 34: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

TOÀN KHÔNG

(Tiếp theo)

 

3 - TÁNH THỦY ĐẠI VỐN VÔ SINH

- A Nan! Tánh Thủy chẳng định, ngưng và chảy không chừng. Như trong thành Thất La Phiệt, các ông Ca Tỳ La, Chước Ca La và các nhà đại huyễn thuật Bát Đầu Ma Ha Tát Đa, khi muốn cầu Thái Âm Tinh để hòa các thuốc huyễn thuật, thì các ông ấy ở giữa đêm trăng sáng, tay cầm hạt châu, hứng nước dưới ánh trăng. Vậy nước này từ hạt châu ra, từ hư không ra, hay từ mặt trăng ra?
- A Nan! Nếu từ mặt trăng ra, ánh trăng đã có thể từ phương xa làm cho hạt châu chảy nước, thì những rừng cây mà ánh trăng chiếu qua, lẽ ra đều phải chảy nước. Nếu chảy nước thì khỏi đợi hạt châu mới có nước chảy; nếu không chảy nước thì rõ ràng nước chẳng phải từ mặt trăng ra. Nếu từ hạt châu ra, thì trong hạt châu phải thường chảy nước, đâu cần đợi ánh trăng trong lúc nửa đêm? Nếu từ hư không ra thì hư không vô tận, nước cũng vô biên, vậy từ cõi người đến cõi Trời đều bị chìm ngập cả, làm sao lại có các loài ở dưới nước, trên bờ và trên không?
- Ông hãy xét kỹ, mặt trăng ở trên trời, hạt châu ở nơi tay, còn mâm đựng hạt châu hứng nước thì do người đặt ra, vậy nước từ phương nào mà chảy đến đây? Mặt trăng và hạt châu cách xa nhau, chẳng hòa chẳng hợp, chẳng lẽ nước khi không tự có?
- Ông còn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh thủy chân không, tánh không chân thủy, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Hễ nơi này cầm hạt châu thì nơi này chảy nước; khắp pháp giới cầm hạt châu thì khắp pháp giới chảy nước. Tánh thủy cùng khắp thế gian, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức, của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

GIẢI NGHĨA

     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà rằng: “Tánh Thủy chẳng định, ngưng và chảy không chừng. Như trong thành Thất La Phiệt, các ông Ca Tỳ La, Chước Ca La và các nhà đại huyễn thuật Bát Đầu Ma Ha Tát Đa, khi muốn cầu Thái Âm Tinh để hòa các thuốc huyễn thuật, thì các ông ấy ở giữa đêm trăng sáng, tay cầm hạt châu, hứng nước dưới ánh trăng. Vậy nước này từ hạt châu ra, từ hư không ra, hay từ mặt trăng ra?” Ngài nói các người hòa thuốc huyển thuật với nước lấy bằng cách dùng hạt châu hứng dưới ánh sáng trăng, như vậy thì nước này từ hạt châu ra, từ hư không ra, hay từ mặt trăng đến?

     Đức Phật giảng: “Nếu từ mặt trăng ra, ánh trăng đã có thể từ phương xa làm cho hạt châu chảy nước, thì những rừng cây mà ánh trăng chiếu qua, lẽ ra đều phải chảy nước. Nếu chảy nước thì khỏi đợi hạt châu mới có nước chảy; nếu không chảy nước thì rõ ràng nước chẳng phải từ mặt trăng ra. Nếu từ hạt châu ra, thì trong hạt châu phải thường chảy nước, đâu cần đợi ánh trăng trong lúc nửa đêm? Nếu từ hư không ra thì hư không vô tận, nước cũng vô biên, vậy từ cõi người đến cõi Trời đều bị chìm ngập cả, làm sao lại có các loài ở dưới nước, trên bờ và trên không?  Nghĩa là Nước không từ hạt châu ra, không từ hư không ra, cũng không từ mặt trăng đến.

     Ngài nêu các lý lẽ: “- Ông hãy xét kỹ, mặt trăng ở trên trời, hạt châu ở nơi tay, còn mâm đựng hạt châu hứng nước thì do người đặt ra, vậy nước từ phương nào mà chảy đến đây? Mặt trăng và hạt châu cách xa nhau, chẳng hòa chẳng hợp, chẳng lẽ nước khi không tự có?” Nghĩa là chỉ có hư không gần gũi hạt châu, còn mặt trăng và hạt châu cách xa nhau nên chẳng thể hòa hợp.

     Đức Phật dạy: “- Ông còn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh thủy chân không, tánh không chân thủy, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Hễ nơi này cầm hạt châu thì nơi này chảy nước; khắp pháp giới cầm hạt châu thì khắp pháp giới chảy nước”. Nghĩa là trong Tự tính (Như Lai Tạng), tính Nước (thủy) không thật, là giả, là chân không, tính không chẳng phải thật không, là Chân Thủy; Tự tính của Nước vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương vũ trụ (pháp giới). Tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sinh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu.

     Do đó Ngài dạy tiếp: “Hễ nơi này cầm hạt châu thì nơi này chảy nước; khắp pháp giới cầm hạt châu thì khắp pháp giới chảy nước. Tánh thủy cùng khắp thế gian, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức, của chúng sanh mà biến hiện”. Nghĩa là Tự tính của Nước là huyển ảo không thật, chỉ tùy theo nghiệp thức của con người mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường; do đó Đức Phật nói: “Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật” là vậy.

4 - TÁNH PHONG ĐẠI VỐN VÔ SINH

- A Nan! Tánh Phong chẳng có tự thể, động tịnh không chừng.
- Ông thường ở nơi chúng mà sửa áo, chéo áo Tăng Già Lê chạm đến người bên cạnh thì có chút gió phất qua mặt người kia, vậy gió này từ chéo áo Cà Sa ra, từ hư không ra, hay từ mặt người kia ra?
- A Nan! Nếu gió từ chéo áo Cà Sa ra thì ông đã mặc luôn cả gió, lẽ ra cái áo phải tung bay ra, rời khỏi thân ông. Nay ta rũ áo ở trong Hội này, ông hãy xem cái áo ta, gió núp ở chỗ nào? Chẳng lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió ư?
- Nếu gió từ hư không ra, khi cái áo ông chẳng động, thì sao lại chẳng phất? Tánh hư không thường trụ thì gió phải thường sanh, vậy lúc chẳng gió, hư không phải diệt; gió diệt còn có thể thấy được, hư không diệt thì là hình tướng gì? Nếu có sanh diệt thì chẳng gọi là hư không, đã gọi là hư không thì làm sao lại có gió ra?
- Nếu gió từ mặt người bị phất sanh ra, thì đã từ mặt người đó ra, lẽ ra phải phất lại ngươi, sao tự ông sửa áo mà phất ngược lại người kia?
- Ông hãy xét kỹ; sửa áo do ông, cái mặt thì thuộc người kia, hư không thì vắng lặng chẳng lay động, vậy gió từ phương nào dong ruổi đến đây? Tánh gió và tánh hư không khác nhau, chẳng hòa chẳng hợp, chẳng lẽ tánh gió khi không tự có ư?
- Ông còn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh phong chân không, tánh không chân phong, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy, biến hiện các cảnh giới hiện hữu. A Nan, như một mình ông hơi động cái áo thì có chút gió ra, khắp pháp giới đều phất thì khắp pháp giới đều ra gió, tánh phong đầy khắp thế gian, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

GIẢI NGHĨA

     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà rằng: “Tánh Phong chẳng có tự thể, động tịnh không chừng. Ông thường ở nơi chúng mà sửa áo, chéo áo Tăng Già Lê chạm đến người bên cạnh thì có chút gió phất qua mặt người kia, vậy gió này từ chéo áo Cà Sa ra, từ hư không ra, hay từ mặt người kia ra?” Nghĩa là tính của gió là huyển ảo không thật, Ngài lấy thí dụ vạt áo Tăng Già Lê để hỏi gió từ vạt áo ra, từ hư không ra, hay từ mặt người ra?

     Ngài giảng và đặt câu hỏi: “Nếu gió từ chéo áo Cà Sa ra thì ông đã mặc luôn cả gió, lẽ ra cái áo phải tung bay ra, rời khỏi thân ông. Nay ta rũ áo ở trong Hội này, ông hãy xem cái áo ta, gió núp ở chỗ nào? Chẳng lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió ư?” Nghĩa là gió không từ vạt áo Cà Sa ra vì nếu gió từ vạt áo ra thì cái áo phải luôn luôn tung bay mà sự thật không phải vậy.

     Đức Phật giảng tiếp: “- Nếu gió từ hư không ra, khi cái áo ông chẳng động, thì sao lại chẳng phất? Tánh hư không thường trụ thì gió phải thường sanh, vậy lúc chẳng gió, hư không phải diệt; gió diệt còn có thể thấy được, hư không diệt thì là hình tướng gì? Nếu có sanh diệt thì chẳng gọi là hư không, đã gọi là hư không thì làm sao lại có gió ra?” Nghĩa là gió không phải từ hư không ra, vì nếu gió từ hư không ra thì phải luôn luôn có gió không lúc nào ngừng gió mới phải lẽ.

     Lại nữa, Ngài lý luận tiếp: “- Nếu gió từ mặt người bị phất sanh ra, thì đã từ mặt người đó ra, lẽ ra phải phất lại ông, sao tự ông sửa áo mà phất ngược lại người kia?” Nghĩa là gió cũng không từ mặt người bị phất sinh ra.

     Ngài lưu ý: “Ông hãy xét kỹ; sửa áo do ông, cái mặt thì thuộc người kia, hư không thì vắng lặng chẳng lay động, vậy gió từ phương nào dong ruổi đến đây? Tánh gió và tánh hư không khác nhau, chẳng hòa chẳng hợp, chẳng lẽ tánh gió khi không tự có ư?” Nghĩa là các yếu tố thành phần khác nhau, chẳng hòa chẳng hợp, gió chẳng từ thứ nào ra cả, cũng chẳng phải do hòa hợp, gió là huyển ảo không thật.

     Đức Phật dạy: “Ông còn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh phong chân không, tánh không chân phong, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy, biến hiện các cảnh giới hiện hữu”. Nghĩa là trong tự tính (Như Lai Tạng), tính gió (phong) chân không, tính không chân phong, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương vũ trụ (pháp giới), tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sinh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy, biến hiện các cảnh giới hiện hữu.

     Ngài dạy tiếp: “Như một mình ông hơi động cái áo thì có chút gió ra, khắp pháp giới đều phất thì khắp pháp giới đều ra gió, tánh phong đầy khắp thế gian, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường”. Nghĩa là tính gió là huyển ảo không thật, tùy theo nghiệp thức của chúng sinh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường; do đó Đức Phật nói: “Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật” là vậy.

5 - TÁNH KHÔNG ĐẠI VỐN VÔ SINH
 (Còn tiếp)


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567