LĂNGGIÀA BẠT ĐA LA BỬU KINH
PhápSư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sangHán đời nhà Tống.
ViệtDịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Phần 2)
QUYỂNTHỨ NHÌ
Khi ấy,Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
-Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì chúng con nói tướng của Tâm Kinhvà ngôn thuyết của vọng tưởng. Con và các Đại Bồ Tátnếu khéo biết tướng Tâm Kinh và ngôn thuyết của vọng tưởng,thì được thông đạt hai nghĩa năng thuyết và sở thuyết,chóng chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dùnghai thứ năng thuyết và sở thuyết tẩy sạch trần cấu củatất cả chúng sanh.
Phậtbảo Đại Huệ :
- Hãychú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
ĐạiHuệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Lànhthay! Thế Tôn! Con xin thọ giáo.
Phậtbảo Đại Huệ :
- Cóbốn thứ tướng ngôn thuyết vọng tưởng là : Tướng ngônthuyết, Mộng ngôn thuyết, Vọng tưởng chấp trước ngônthuyết, và vô thỉ vọng tưởng ngôn thuyết.
1.Tướng Ngôn Thuyết : Là từ tự tâm vọng tưởng chấp trướcsắc tướng mà sanh.
2.Mộng Ngôn Thuyết : Là cảnh giới xưa kia đã trải qua, naytùy niệm tưởng nhớ mà sanh, Nếu giác ngộ rồi thì cảnhgiới '' Vô Tánh '' được sanh.
3.Vọng Tưởng Chấp Trước Ngôn Thuyết : Là như trước kiado oán ghét tạo thành nghiệp, nay tùy niệm tưởng nhớ màsanh.
4.Vô Thỉ Vọng Tưởng Ngôn Thuyết : Là lỗi từ vô thỉ hưngụy, chấp trước tạp khí của tự chủng mà sanh. Ấy gọilà bốn thứ tướng của vọng tưởng ngôn thuyết.
Khiấy, Đại Huệ Bồ Tát lại dùng nghĩa này khuyến thỉnh ThếTôn :
- Cúixin Phật thuyết lại cảnh giới sở hiện của vọng tưởngngôn thuyết. Bạch Thế Tôn! Ấy là ở nơi nào? Do cớ gì?Tại sao? Nhân gì mà sanh ra ngôn thuyết vọng tưởng của chúngsanh?
Phậtbảo Đại Huệ :
- Dođầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng, hòa hợpmà phát ra âm thanh.
ĐạiHuệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- ThếTôn! Ngôn thuyết với vọng tưởng là khác hay chẳng khác?
Phậtbảo Đại Huệ :
- Ngônthuyết và vọng tưởng, chẳng phải khác hay chẳng khác. Tạisao? Vì là vọng tưởng làm nhân sanh ra tướng ngôn thuyết.Nếu ngôn thuyết với vọng tưởng khác nhau thì vọng tưởngchẳng nên làm nhân; nếu chẳng khác thì lời nói chẳng hiểnbày nghĩa lý. Nhưng sự thật thì chẳng như vậy. Cho nên chẳngphải khác hay chẳng khác.
ĐạiHuệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
- Vậyngôn thuyết là Đệ Nhất Nghĩa hay sở thuyết là Đệ NhấtNghĩa?
Phậtbảo Đại Huệ :
- Chẳngphải ngôn thuyết là Đệ Nhất Nghĩa, cũng chẳng phải sởthuyết là Đệ Nhất Nghĩa. Tại sao? Nói '' ĐỆ NHẤT NGHĨA" là do ngôn thuyết sở nhập, nghĩa là sự an vui của bậcThánh, mới gọi là Đệ Nhất Nghĩa, chẳng phải ngôn thuyếtlà Đệ Nhất Nghĩa. Đệ Nhất Nghĩa là do Thánh Trí tự giácsở chứng đắc, chẳng phải cảnh giới của ngôn thuyếtvọng tưởng, cho nên, ngôn thuyết vọng tưởng chẳng hiệnthị Đệ Nhất Nghĩa. Lại nữa, Đại Huệ! Vì do tự tâmhiện lượng sở nhập nên mổi mổi tướng ngoài tánh phitánh. Thì vọng tưởng ngôn thuyết chẳng hiển thị Đệ NhấtNghĩa. cho nên, Đại Huệ! phải lìa tướng ngôn thuyết vàvọng tưởng, mới có thể hiển bày được Đệ Nhất Nghĩa.
Khiấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
CácPháp chẳng tự tánh,
Cũngchẳng phải ngôn thuyết.
KhôngKhông nghĩa sâu tột,
Phàmphu chẳng thể liễu.
Tựtánh của pháp tánh,
Lìangôn thuyết phân biệt.
Sanhtử và Niết Bàn,
Cácpháp như mộng huyễn.
Nhưvua và Trưởng giả,
Vìmuốn các con vui.
Trướccho vật tương tự,
Sauban đồ chơn thật.
Nayta cũng như thế,
Trướcthuyết pháp tương tự,
Saumới vì họ giảng,
Phápthật tế tự chứng.