LĂNGGIÀA BẠT ĐA LA BỬU KINH
PhápSư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sangHán đời nhà Tống.
ViệtDịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Phần 2)
QUYỂNTHỨ NHÌ
-Lại nữa, Đại Huệ! Có ba thứ lượng (1) và năm phần luận(2) mỗi mỗi kiến lập xong, đem sự đắc Thánh Trí tự giác,lìa hai tự tánh, vọng tưởng chấp trước cho là có tánh.
(1)BA THỨ LƯỢNG : Hiện Lượng, Tỷ Lượng và Thánh Ngôn Lượng.Nghĩa chữ Lượng là sự hiểu biểt đúng với mức độ củanghĩa lý, gọi là lượng.
a.Hiện Lượng : Là sự vật hiện hữu trước mắt đang thấy,được hiểu biết, gọi là hiện lượng, cũng như thấy đangmưa biết là mưa.
b.Tỷ Lượng : Là do thí dụ so sánh mà biết, cũng như sángmới thức dậy, thấy ngoài sân sau vườn, mặt đất ướtđều hết, biết là đêm qua có mưa, gọi là tỷ lượng.
c.Thánh Ngôn Lượng : Nghĩa là không thấy mưa, không thấy mặtđất ướt,chỉ nghe chỉ nghe bậc Thánh nói đêm qua có mưa,vì tin lời nói của bậc Thánh không có nói dối, gọi làThánh ngôn lượng.
(2)Năm Phần Luận : Là ba chi Tông, Nhơn, Dụ, và Hợp với Kết,tức là năm phần luận, cũng gọi là Nhân Minh Luận, ngườiTây phương gọi là Logic, dùng để chứng minh sự vật cóđúng lý hay không.
-Đại Huệ! Tâm, ý, ý thức, thân tâm chuyển biến tự tâmhiện năng nhiếp sở nhiếp v.v... Các vọng tưởng đoạn dứt,thì người tu hành Như Lai Địa, Tự Giác Thánh Trí, chẳngở nơi những vọng tưởng ấy, khởi tưởng cho là tánh phitánh. Nếu người tu hành có cảnh giới như thế, chấp lấytướng sanh có tánh phi tánh, ấy tức là chấp lấy có sựnuôi dưỡng thiện căn, và chấp lấy ngã tướng nhơn tướng.
- ĐạiHuệ! Thuyết pháp tánh tự tánh, tự tướng cộng tướng,tất cả đều là Hóa Phật sở thuyết, chẳng phải Pháp Phậtthuyết. Những ngôn thuyết ấy đều do kiến chấp hy vọngcủa phàm phu mà thuyết. Chẳng phải vì người ham trụ chánhđịnh, đắc Tự giác Thánh Trí, đặc biệt kiến lập thẳngvào tự tánh pháp. Nay phương tiện hiển thị, ví như trongnước có bóng cây hiện, ấy cũng chẳng phải bóng, chẳngphải phi bóng, chẳng phải hình cây, chẳng phải phi hình cây.Chỉ do ngoại đạo chẳng biết hiện lượng của tự tâm,theo vọng tưởng chấp trước huân tập thành kiến chấp,nương theo đó sanh tướng nhất, dị, đồng, chẳng đồng,hữu, vô, phi hữu phi vô, thường, vô thường v.v... Tự tâmhiện lượng ví như gương sáng, tùy duyên hiển hiện tấtcả sắc tướng mà chẳng khởi vọng tưởng. Ấy chẳng phảitướng, chẳng phải phi tướng, mà thấy tướng phi tướng,phàm phu vọng tưởng cho là tướng thật. Ngoại đạo có áckiến như thế, tướng tự tâm hiện vọng tưởng chấp trước,nương nơi nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô, v.v...mà sanh kiến chấp, cũng như gió với nước hoà hợp mà sanhra âm thanh. Ấy chẳng phải tánh, chẳng phải phi tánh. Vínhư đại địa chỗ chẳng có cây, do thấy dương diệm vọngcho là có dòng sông, làm sóng nổi dậy, ấy chẳng phải tánh,chẳng phải phi tánh, tham vô tham (Tham tức là chấp thậtở chỗ chẳng thể chấp thật mà chấp cho là thật), phàmphu cũng như thế, vì do tập khí hư ngụy từ vô thỉ huântập vọng tưởng chấp trước, nương theo sanh, trụ, diệt,nhất, dị, đồng, chẳng đồng, v.v... phan duyên tự trụ nhữngviệc ấy, cũng như dương diệm nổi làn sóng kia.
- Vínhư có người dùng sức chú thuật, khiến tử thi, ngườimáy hoạt động như hình chúng sanh, nhưng thật chẳng phảichúng sanh. Tất cả những việc kể trên, đều do ác kiếnhy vọng của ngoại đạo hý luận chấp trước sự chẳngthật mà kiến lập.
- ĐạiHuệ! Vì muốn thành tựu sự đắc Tự Giác Thánh Trí, phảilìa những ác kiến vọng tưởng sanh, trụ, diệt, nhất, dị,đồng, chẳng đồng, hữu vô, phi hữu phi vô, thường, vôthường, v.v...
Khiấy Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Bóngcây hiện trong nước,Nhưhoa đốm dương diệm.
Quántam giới như thế,
Cứucánh được giải thoát.
Vínhư nai khát nước,
Khiếntâm mê loạn chuyển.
Chodương diệm là nước,
Thậtthì chẳng phải nước.
Dochủng tử ý thức,
Hoạtđộng hiện cảnh vọng.
Phàmphu sanh vọng tưởng,
Nhưmắt bị bệnh nhặm.
Nơivô thỉ sanh tử,
Chấpcó tánh nhiếp thọ.
Nếungược chốt tháo chốt,
Xảlìa tham nhiếp thọ (1).
Nhưhuyễn chú máy động,
Nhưmây nổi điện chớp.
Quánthế được giải thoát,
Dứthẳn ba tương tục (2),
Nơithật chẳng kẻ tạo,
Nhưdương diệm hư không.
Dùbiết pháp như thế,
Thậtthì Vô Sở Tri.
Ngôngiáo lập giả danh,
Giảdanh chẳng có tướng.
Lạitheo đó khởi vọng,
Ngũấm và hiện hành.
Nhưbức tranh hoa đốm,
Mộnghuyễn Càn Thát Bà.
Vònglửa và dương diệm.
Từkhông hiện thành có.
Nhấtdị, thường, vô thường,
Đồngchẳng đồng cũng vậy.
Lỗitương tục vô thỉ,
Dophàm phu si vọng.
Nhưgương sáng Ma Ni,
Hiệnra nhiều sắc tướng.
Thậtthì chẳng có gì,
Tấtcả tánh hiển hiện.
Cảnhmộng huyễn cũng thế,
Mỗimỗi sắc tướng hiện,
Đềuchẳng thật như vậy.
(1)NHIẾP THỌ : Có sự thọ nhận.(2)BA TƯƠNG TỤC : Thế giới tương tục, Chúng sanh tương tụcvà Nghiệp quả tương tục
- Lạinữa, Đại Huệ! Như Lai thuyết pháp lìa tứ cú như thế.Là nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô, phi hữu phi vô,thường, vô thường, lìa nơi hữu vô, kiến lập, phủ nhận,phân biệt kết tập, chơn đế duyên khởi, đạo diệt, giảithoát... Sự thuyết pháp của Như Lai lấy đó làm gốc, phitánh, phi tự tại, phi vô nhân, phi vi trần, phi thời, phi tựtánh tương tục mà vì chúng sanh thuyết pháp. Lại nữa, ĐạiHuệ! Vì tẩy sạch phiền não chướng và sở tri chướng,ví như thương chủ vì dẫn chúng đến nơi bảo sở, nên theothứ lớp kiến lập một trăm lẻ tám câu Vô sở hữu này,khéo phân biệt Tam thừa (phá phiền não chướng) và tướngThập Địa (phá Sở tri chướng).