Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật Dạy Vô Tâm Là Đạo

25/07/202405:59(Xem: 666)
Đức Phật Dạy Vô Tâm Là Đạo



vong tron
Đức Phật Dạy Vô Tâm Là Đạo

Nguyên Giác

 

Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm. Cách diễn tả như thế có vẻ như như để làm nổi bật hai ý chỉ khác nhau, rằng Thiền do Như Lai dạy chủ yếu là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp… trong khi Thiền do các vị Tổ Sư Trung Hoa và Việt Nam dạy chủ yếu là vô niệm, vô tâm. Sự thật, Đức Phật trong Tạng Pali đã dạy các pháp vô niệm, vô tâm… nhưng nhiều vị sư đời sau không chú ý, và đôi khi còn ngộ nhận rằng pháp vô niệm, vô tâm là sáng tác của các vị sư Trung Hoa.

Có lẽ câu thơ nổi tiếng nhất trong Thiền Tông Việt Nam là của ngài Trần Nhân Tông, rằng “Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền,” nghĩa là, khi gặp tất cả các cảnh trong và ngoài, tâm vẫn là rỗng rang và vắng lặng, thì không cần gì tu nữa. Khi đọc kỹ Tạng Pali, chúng ta sẽ thấy trong nhiều Kinh (đặc biệt là phần lớn Kinh trong Phẩm 4 và Phẩm 5 của Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh) rằng Đức Phật đã dạy rằng vô tâm chính là đạo, là con đường giải thoát. Nói như thế, không có nghĩa là phân biệt pháp này hay pháp kia cao hay thấp, chỉ muốn nói rằng Đức Phật là vị đại y vương, tùy bệnh cho thuốc.

Không chỉ phần lớn các sư không còn tu học theo lời Phật dạy về vô niệm, vô tâm… (thậm chí có sư còn dám nói sai lầm rằng tứ niệm xứ là pháp duy nhất) nhiều vị sư cũng không nhắc tới một số lời dạy khác của Đức Phật. Thí dụ, chúng ta không còn nghe nhiều về pháp quán bất tịnh, pháp niệm tăng, pháp niệm thí, pháp niệm thiên… trong khi chỉ cần một pháp quán niệm đó là đủ để giải thoát.

Đức Phật dạy rằng chỉ cần một pháp trong các pháp sau là đủ để giải thoát, theo bản dịch Kinh AN 1.296-305 của Thầy Minh Châu:

Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đế nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Pháp… niệm Tăng… niệm Giới… niệm Thí… niệm Thiên… niệm Hơi thở vô, Hơi thở ra… niệm Chết… niệm Thân… niệm An tịnh. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.” (1)

Trong khi đó, Đức Phật dạy trong Kinh SN 22.64 rằng vô niệm (không suy tưởng) là con đường vắn tắt (Dhamma in brief) để giải thoát. Kinh này khởi đầu bằng “Rồi một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, lành thay, Thế Tôn hãy thuyết pháp tóm tắt cho con...” và chuỗi đối thoại này ghi lời Phật dạy rất minh bạch, không mơ hồ (độc giả nào ngờ vực, có thể đối chiếu các bản tiếng Anh sẽ thấy rõ nghĩa hơn). Trích bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:

“— Ai suy tưởng, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

— Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt:

— Ai suy tưởng sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ … tưởng … hành … thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

— Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời nói vắn tắt này của Ta. Này Tỷ-kheo, ai suy tưởng sắc, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ … tưởng … các hành … Ai suy tưởng thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Này Tỷ-kheo, lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.” (2)

Nói ngắn gọn, lời Đức Phật dạy là đừng suy nghĩ tư lường gì hết. Hễ suy tưởng đúng hay sai, xanh hay đỏ, trắng hay vàng… là hỏng.

Bản dịch Sujato: “When you conceive, mendicant, you’re bound by Māra. Not conceiving, you’re free from the Wicked One.”

Bản dịch Bodhi: “Bhikkhu, in conceiving one is bound by Mara; by not conceiving one is freed from the Evil One.”

Nhà sư Nguyễn Thế Đăng giải thích qua bài viết nhan đề “Vô Niệm Của Lục Tổ Huệ Năng” trích như sau:

Luận Đại thừa Khởi tín của ngài Mã Minh nói: ‘Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp. Pháp giới Một tướng này tức là Pháp thân bình đẳng của chư Như Lai. Pháp thân này tất cả chúng sanh vốn có, nên gọi là Bản giác.’

Luận nói tiếp: ‘Thế nên chúng sanh nào quán sát vô niệm thì chúng sanh đó đã hướng về Trí Phật.’” (3)

Bất kỳ ai cũng có thể thực tập pháp vô niệm. Trong Kinh Lăng Nghiêm chú trọng nói về tánh nghe, vì từ nghe là cách dễ vào đạo nhất. Trong khi bạn nghe (thí dụ, nghe chim hót, nghe mưa rơi), bạn sẽ không níu được âm thanh nào của quá khứ và hiện tại (vì âm thanh luôn luôn biến mất trong từng khoảnh khắc), và bạn sẽ không nghĩ gì tới được tương lai (âm thanh chưa tới và có thể sẽ không tới). Đó là bạn đang sống với tâm xa lìa ba thời (quá, hiện, vị lai), xa lìa ngũ uẩn của ba thời. Đó là Kinh Bahiya: khi cái được thấy chỉ là cái được thấy và cái được nghe chỉ là cái được nghe, và đó là giải thoát. Đức Phật dạy rất minh bạch như thế. Không cần khởi niệm gì hết.

Thậm chí, trong Kinh SN 4.19, Đức Phật còn rầy những người ưa khởi niệm và gọi đó là trò của ma. Bản dịch Thầy Minh Châu viết, trích:

Này Ác ma, ý là của Ông, pháp là của Ông, thức xứ do ý xúc chạm là của Ông. Và này Ác ma, chỗ nào không có ý, không có pháp, không có thức xứ do ý xúc chạm, thời này Ác ma, chỗ ấy không có hành xứ của Ông, này Ác ma.” (4)

Đọc hai bản dịch tiếng Anh, chúng ta sẽ kinh ngạc vì Đức Phật nói y hệt ngài Huệ Năng, Lâm Tế, rằng khởi tâm tức là chuyện của đường ma, cửa quỷ.

Bản dịch Bodhi: “The mind is yours, Evil One, mental phenomena are yours, mind-contact and its base of consciousness are yours; but, Evil One, where there is no mind, no mental phenomena, no mind-contact and its base of consciousness—there is no place for you there, Evil One.” (Nơi đây, chúng ta dịch: Ác Ma, tâm là của ngươi, hiện tượng tâm là của ngươi, xúc của tâm và cõi ý thức của nó là của ngươi; nhưng, này Ác Ma, nơi không có tâm, nơi không có hiện tượng tâm, nơi không có xúc của tâm và cõi ý thức của nó – thì không có chỗ cho ngươi nơi đó, hỡi Ác Ma.”

Bản dịch Sujato: “…yours are ideas, yours is the field of mind contact consciousness. Where there is no mind, no ideas, no mind contact consciousness—you have no place there, Wicked One!” (…của ngươi là các niệm, của ngươi là cõi ý thức sinh khởi từ xúc của tâm. Nơi nào không có tâm, không có niệm, không có cõi ý thức sinh khởi từ xúc của tâm – thì ngươi không có chỗ nơi đó, hỡi Ác Ma!”

Tại sao vô tâm, vô niệm? Tại sao Đức Phật nói vô tâm là con đường giải thoát vắn tắt? Đơn giản, vì chúng sinh không có ai thực sự vô tâm được. Và người nào vô tâm được, ngay khi đó là xa lìa tham sân si. Trong Kinh SN 35.90, Đức Phật dạy rằng không nghĩ ngợi tới bất cứ cái gì, thì sẽ không chấp thủ (nắm giữ) bất cứ cái gì, thì tự tâm sẽ tịch lặng. Bản dịch Thầy Minh Châu, trích:

Chớ có nghĩ đến tất cả, chớ có nghĩ đến trong tất cả, chớ có nghĩ đến từ tất cả, chớ có nghĩ đến: “Tất cả là của tôi”. Vị ấy do không nghĩ đến nên không chấp thủ một vật gì ở đời. Do không chấp thủ, vị ấy không có dao động (paritassati). Do không dao động, vị ấy tự mình tịch tịnh một cách hoàn toàn. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”…” (5)

Tương tự, các bản dịch tiếng Anh của kinh này cũng rất rõ ràng, không có nghĩa nào mơ hồ. Hễ nghĩ ngợi tư lường là bị trói giữ.

Đối với người đã buông bỏ hết thấy, nghe, hay, biết, buông bỏ hết nghĩ ngợi tư lường, thì vị đó đã vượt qua cả thiện và ác. Chúng ta sẽ thấy ngôn phong Tâm Kinh và Kinh Kim Cang hiển lộ trong Kinh SN 35.248 khi Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:

Ai có tư tưởng (Mannamàna), người ấy bị Māra trói buộc. Ai không có tư tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. “Tôi là”, này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. “Cái này là tôi”, này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. “Tôi sẽ là”, này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. “Tôi sẽ không là”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ có sắc”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ không có sắc”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ có tưởng”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ không có tưởng”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng”, là một tư tưởng. Có tư tưởng, này các Tỷ-kheo, là tham. Có tư tưởng là mụt nhọt. Có tư tưởng là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các ông cần phải học tập: “Tôi sẽ sống với tâm không có tư tưởng.”(6)

Trong khi đó, Kinh SN 35.133 nói y hệt Bát Nhã Tâm Kinh, rằng phải sống trong nhận biết rằng không hề có mắt hiện hữu, không hề có tai hiện hữu… [cho tới] không hề có tâm ý hiện hữu thì đó là Niết Bàn. Đó là lời dạy của Tôn giả Udāyi dạy cho một vị nữ Bà-la-môn:

Này Chị, do mắt hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do mắt không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ … Do ý hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do ý không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ.” (7)

.

Đoạn Kinh vừa dẫn trong bản dịch tiếng Anh của Bodhi rất dễ hiểu: “Sister, the arahants maintain that when the eye exists there is pleasure and pain, and when the eye does not exist there is no pleasure and pain. The arahants maintain that when the ear exists there is pleasure and pain, and when the ear does not exist there is no pleasure and pain…. The arahants maintain that when the mind exists there is pleasure and pain, and when the mind does not exist there is no pleasure and pain.”

Nơi đây, xin dịch là: “Chị ơi, các vị A-la-hán nói rằng khi mắt hiện hữu thì có vui sướng và đau khổ, và khi mắt không hiện hữu thì không có vui sướng và đau khổ. Các vị A-la-hán nói rằng khi tai hiện hữu thì có vui sướng và đau khổ, và khi tai không hiện hữu thì không có vui sướng và đau khổ …. Các vị A-la-hán nói rằng khi tâm hiện hữu thì có vui sướng và đau khổ, và khi tâm không hiện hữu thì không có vui sướng và đau khổ.”

Chữ “maintain” trong đoạn trên có nghĩa là “chủ trương rằng, nhận biết rằng, thấy rằng…” Như vậy, câu hỏi rằng, làm sao để thấy rằng không hề có mắt tai mũi lưỡi thân ý? Để thấy như thế, có nhiều cách. Đơn giản nhất là từ luật duyên khởi, vì thấy cái này có, nên cái kia có. Do vậy, các pháp tự thân đã xa lìa cả Có và Không. Không có gì cần nghĩ ngợi tư lường, hãy để ngôn ngữ dứt bặt, vì nói Có, nói Không đều sai.

Cũng y hệt tiếng đàn, có chẻ cây đàn ra trăm ngàn mảnh cũng không dò ra tiếng đàn nơi đâu. Nhưng tiếng đàn là từ cây đàn, từ mưa nắng qua nhiều năm cho gỗ rừng mọc lên, rồi thợ rừng cưa xuống để đóng thành cây đàn, từ nhạc sĩ học nhiều thập niên để trình diễn, từ rất nhiều duyên mới thành tiếng đàn. Không gọi tiếng đàn là Có, vì nó là từ nhiều duyên, vì vừa sinh đã liền diệt và vì chúng ta không chỉ ra được là nó ở đâu. Thân tâm chúng ta cũng thế, đừng tưởng mắt tai mũi lưỡi thân ý là Có, mà cũng đừng nói là Không. Các pháp chỉ là như thế, và như thế. Tất cả thân tâm và thế giới đang chảy xiết trong vô thường, không có cái gì gọi được là cái gì. Hiện tượng sát na vô thường được Tạng Pali so sánh với hạt đậu trên đầu mũi kim, nơi tất cả các pháp chỉ tiếp giáp với sát na chút xíu rồi biến mất.

Và bất kỳ ai tự thấy đang tắm gội thân tâm mình trong sát na vô thường đó, thì đó là thể nghiệm Niết Bàn, nơi đó xa lìa tất cả những gì gọi là tâm, ý và thức. Còn gọi là vô ngôn, vì ngôn ngữ và ý thức là dựa vào thời gian, dựa vào kinh nghiệm quá khứ. Nhưng khoảnh khắc của sát na thì xa lìa cả ba thời quá, hiện, vị lai. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Phẩm Cơ Duyên Thứ Bẩy, bản dịch của Thầy Thích Duy Lực,  ghi lời Lục Tổ Huệ Năng dạy ngài Chí Đạo, trích:

“...chơn lạc của Niết Bàn, sát na chẳng có tướng sanh, sát na chẳng có tướng diệt, cũng chẳng có sanh diệt để diệt, ấy tức là tịch diệt hiện tiền. Đang lúc hiện tiền, cũng chẳng có số lượng hiện tiền, nghĩa là chẳng có một tí khái niệm nào về không gian, thời gian, và số lượng của tịch diệt hiện tiền, mới gọi là thường đức, lạc đức, nghĩa là chơn vui. Vui này chẳng có kẻ thọ dụng, cũng chẳng có kẻ không thọ dụng...”(8)

Trong ngôn ngữ Phật học Việt Nam có một số chữ rất khó hiểu. Thí dụ, nói về cái được biết, thường chia làm ba chữ cho ba trường hợp: tưởng tri, thắng tri, liễu tri.

Đối chiếu với các kinh văn tiếng Anh, chúng ta thấy rằng:

. người phàm phu biết theo kiểu “tưởng tri” là "perceive" hay là "become aware or conscious of". Trong cái biết này chưa lìa tham sân si. Vì luôn luôn thấy có cái tôi đang biết, qua những lăng kính quá khứ, môi trường, xã hội…

. bậc tu học biết theo kiểu “thắng tri” là biết trực tiếp, là “directly know” hay “having directly known”  mà không nghĩ ngợi tư lường gì trong khi nhận biết, tức là biết của vô tâm, của ngay tức thời, của ngay ở đây và bây giờ. Kinh MN 1 ghi rằng, theo bản dịch Thầy Minh Châu: “…có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: “Địa đại là của ta”,—không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại.” (9)

. bậc giải thoát biết theo kiểu “liễu tri” là biết đầy đủ, là “fully understand” – nghĩa là, khi nghe tiếng đàn, biết ngay là vô thường, vô ngã. Kinh MN 1 ghi về cái biết của các vị A La Hán, theo bản dịch Thầy Minh Châu: “...có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta” —không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại.” (9)

Nghĩa là, “thắng tri” (hay: biết trực tiếp) là rất gần với “liễu tri” (hay: biết đầy đủ, biết trong thực tướng của vô thường, vô ngã) và nơi đó cũng là đang lìa xa tham sân si. Đó là cái biết của Kinh Bahiya, khi cái được thấy chỉ là cái được thấy, và cái được nghe chỉ là cái được nghe. Nơi đó, tâm thường trực  rỗng rang, tịch lặng. Cái biết của thắng tri và liễu tri chính là cái biết của vô tâm, vô niệm.

Nghĩa là, không có việc gì phải mài ngói làm gương. Tuệ Trung Thượng Sĩ viết đơn giản rằng việc tu thiền chỉ có nghĩa là trâu bùn lội qua sông. Vì là trâu bùn, nên trâu sẽ tan trong nước, và đó là lời dạy của Đức Phật, rằng vô tâm chính là đạo. Khi chư tổ nói rằng vô tâm chưa phải là đạo, vì còn cần bước qua một trùng quan nữa, đó chính là từ thắng tri bước vào liễu tri, là hình ảnh trâu bùn tan vào nước, chứng nhập vô ngã, vô thường.

GHI CHÚ:

(1) Kinh AN 1.296-305: https://suttacentral.net/an1.296-305/vi/minh_chau

(2) Kinh SN 22.64: https://suttacentral.net/sn22.64/vi/minh_chau

(3) Nguyễn Thế Đăng, “Vô Niệm Của Lục Tổ Huệ Năng”: https://thuvienhoasen.org/a18917/vo-niem-cua-luc-to-hue-nang

(4) Kinh SN 4.19: https://suttacentral.net/sn4.19/vi/minh_chau

(5) Kinh SN 35.90: https://suttacentral.net/sn35.90/vi/minh_chau

(6) Kinh SN 35.248: https://suttacentral.net/sn35.248/vi/minh_chau

(7) Kinh SN 35.133: https://suttacentral.net/sn35.133/vi/minh_chau

(8) Kinh Pháp Bảo Đàn: https://thuvienhoasen.org/p16a687/pham-co-duyen-thu-bay

(9) Kinh MN 1: https://suttacentral.net/mn1/vi/minh_chau

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2019(Xem: 10936)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
21/08/2019(Xem: 5927)
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu xem độc tố này là gì. Xao lãng là xu hướng của tâm thức nhảy hết chuyện này sang chuyện khác. Đó là trường hợp của những người có một tâm thức tương tự như con cào cào hay con bướm, không sao có thể dừng lại với bất cứ một thứ gì, dù chỉ trong một khoảnh khắc. Câu thơ nổi tiếng của T.S. Eliot (Thomas Stearns Eliot, 1888-1965, thi hào người Anh gốc Mỹ, đoạt giải Nobel văn chương năm 1948) : « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng » có thể nói lên điều đó. Câu thơ này nêu lên một cách ngắn gọn cuộc sống ngày nay trong xã hội : đó là một quá trình liên tục – hết ngày này đến tuần khác – của sự « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng ». Liều thuốc hóa giải sự xao lãng trong hoàn cảnh đó – ít nhất là đối với lãnh vực tâm thần – là sự chú tâm vào hơi thở. Một sự tập trung thật mạnh hướng vào quá trình hô hấp của mình là một phương pháp rất hiệu nghiệm, có thể hóa giải được tất cả mọi hình thức xao lãng.
09/08/2019(Xem: 5456)
‘Khổ và sự diệt khổ’ là trọng tâm của lời đức Phật dạy, được diễn đạt qua Kinh Chuyển Pháp Luân.[2] ‘Idaṁ dukkhaṁ ariyasaccaṁ’ pariññeyyan-ti ‘Chính sự thật về khổ’, cần được con người am hiểu, rõ biết tường tận.[3] Nhận định này có thể tư duythông qua bài kinh ‘Ví Dụ Tấm Vải’[4] như sau: Ví như tấm vải bị hoen ố, vấy bẩn và người thợ nhuộm đã cố gắng làm đẹptấm vải bằng cách nhúng nó vào thuốc nhuộm loại tốt này hay loại tốt khác, nhưng kết quả cho ra không được như ý. Bởi vì thực chất của tấm vải là dơ bẩn, không sạch, uế nhiễm.
06/08/2019(Xem: 4282)
Trong toán học, muốn giải một bài toán cơ bản luôn cần có một mẫu số chung, đó là con số quan trọng cần thiết để đưa đến kết quả chính xác cho bài toán. Ngoài ra vì tính khoa học, những con số còn giúp cho mọi việc được mạch lạc, rõ ràng thứ lớp hơn mà chính Đức Thế Tôn của chúng ta cách đây 2600 năm cũng đã sử dụng nó để nói đến trong toàn bộ những bài giảng của Ngài. Khi giảng nói về các loại tâm vô hình, trừu tượng khó nhớ Đức Phật đã dùng những con số cụ thể trong Vi diệu pháp (Duy thức học). Chính nhờ vậy việc tìm hiểu về các loại Tâm vương, Tâm sở đầy phức tạp đã được Ngài hướng dẫn, phân loại rõ ràng cho từng loại tâm khác nhau. Tuy nhiên đây chỉ là những học thuyết sâu rộng của triết lý Phật giáo dành cho lãnh vực nghiên cứu.
02/08/2019(Xem: 4689)
Vào sáng Chủ Nhật 14 tháng 7 2019, tại hội trường báo Người Việt (Westminster, Little Saigon) đã có một cuộc hội thảo với chủ đề tìm cách đem sự thực tập chánh niệm tỉnh thức đến với giới thanh thiếu niên gốc Việt tại Quận Cam.
02/08/2019(Xem: 4673)
"Lý tưởng nhất là các lớp học không có cảm giác sợ hãi và căng thẳng làm việc dạy và học trở nên nặng nề. Lý tưởng nhất là giáo viên tạo dựng được nề nếp học trong không khí êm ả và chú tâm của lớp học. Tuy nhiên, không khí trong các lớp học công lập của Hoa Kỳ thường xuyên không được như vậy,…" Đó là lời phát biểu của Tiến Sĩ Bạch Xuân Phẻ khi anh thuyết trình về lợi ích của việc thực tập hơi thở trong tỉnh thức ở học đường. Phương pháp này giúp con người trị được nhiều căn bệnh về tâm lý và đối đầu được những cảm giác hồi hộp, căng thẳng, sợ sệt, bất an, trầm cảm, thường xảy ra cho các học sinh và cả trong giới giáo chức.
20/07/2019(Xem: 7126)
Các bộ kinh Nikāya ghi nhận tầm quan trọng của thiềnna (jhana) trong cấu trúc của con đường hành trì trong Phật giáo. Trong bài kinh Sa-môn quả (Sāmaññaphala Sutta, DN 2), Tiểu kinh Dụ Dấu Chân Voi (Cūḷahatthipadopama Sutta, MN 27) và nhiều bài kinh khác về sự tu tập tiệm tiến (anupubbasikkhā) của một tu sĩ Phật giáo, Đức Phật luôn đề cập đến thiền-na để minh họa cho việc tu tập tâm định. Khi vị tỳ-khưu hoàn tất tu tập về căn bản giới đức, vị ấy tìm nơi thanh vắng, sống độc cư và thanh lọc tâm, loại trừ “năm triền cái”. Khi tâm vị ấy được thanh lọc, vị ấy nhập và an trú vào bốn tầng thiềnna, được mô tả rất nhiều trong kinh tạng Nikāya qua một công thức kiểu mẫu:
03/07/2019(Xem: 4426)
Bài này sẽ viết về Thiền, phần lớn sẽ ghi về một số lời dạy của Đức Phật trong thiền pháp Thiền Tông, còn gọi là Thiền Đông Độ, hay Thiền Đạt Ma, hay Thiền Tổ Sư, và riêng tại Việt Nam còn gọi là Thiền Trúc Lâm. Chủ yếu nơi đây dựa vào kinh điển, và người viết không phải là tiếng nói thẩm quyền nào. Tất cả những gì viết nơi đây đều rất dễ hiểu; độc giả có thể ngưng ở bất kỳ dòng nào để thử nghiệm tự nhìn lại tâm. Với các bất toàn tất nhiên sẽ có, xin thành kính sám hối trước Tam Bảo.
01/07/2019(Xem: 4499)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức ( bhavaïga, tiềm thức, tâm hộ kiếp). Chúng ta luôn kinh qua một trạng thái tiêu cực như vậy khi tâm mình phản ứng lại các đối tượng bên ngoài. Dòng chảy vô thức (bhavaïga) này bị gián đoạn khi các đối tượng thâm nhập vào tâm. Kế đó, tâm vô thức (bhavaṅga) rung động trong một chóc lát ý tưởng và biến mất.
03/06/2019(Xem: 5350)
Ta nghe con sóng bạc vỗ vào bờ cát trắng bên hàng dương êm ả làm dịu mát lại bầu không khí oi bức. Trời nóng đến tận cùng không gian khiến ta hết chỗ ẩn náu nên ta nghe được giọt mưa rơi tí tách mỗi khi bầu trời đổ mưa khiến không khíêm dịu lại, tâm hồn thanh bình, nhẹ hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]