Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 4: Năm phép thiền định căn bản

21/08/201914:19(Xem: 2392)
Bài 4: Năm phép thiền định căn bản

duc dat lai lat ma-1
Thiền định

một phương pháp biến cải tâm linh

 

Đức Đạt-lai Lạt-ma

Urgyen Sangharakshita

Hoang Phong chuyển ngữ

 

 

 

 

Bài 4

 

Năm phép thiền định căn bản

 

Phật giáo có năm phép luyện tập thiền định căn bản, mỗi phép là một liều thuốc hóa giải một trong năm « độc tố » [tâm thần] là: sự xao lãng, giận dữ, kiêu hãnh, thèm khát và vô minh

 

Sự Xao lãng

 

Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu xem độc tố này là gì. Xao lãng là xu hướng của tâm thức nhảy hết chuyện này sang chuyện khác. Đó là trường hợp của những người có một tâm thức tương tự như con cào cào hay con bướm, không sao có thể dừng lại với bất cứ một thứ gì, dù chỉ trong một khoảnh khắc. Câu thơ nổi tiếng của T.S. Eliot (Thomas Stearns Eliot, 1888-1965, thi hào người Anh gốc Mỹ, đoạt giải Nobel văn chương năm 1948) : « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng » có thể nói lên điều đó. Câu thơ này nêu lên một cách ngắn gọn cuộc sống ngày nay trong xã hội : đó là một quá trình liên tục – hết ngày này đến tuần khác – của sự « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng ». Liều thuốc hóa giải sự xao lãng trong hoàn cảnh đó – ít nhất là đối với lãnh vực tâm thần – là sự chú tâm vào hơi thở. Một sự tập trung thật mạnh hướng vào quá trình hô hấp của mình là một phương pháp rất hiệu nghiệm, có thể hóa giải được tất cả mọi hình thức xao lãng.

 

Sự Giận dữ

 

            Độc tố thứ hai là sự giận dữ. Liều thuốc hóa giải sự giận dữ tương đối khá giản dị. Đó là Metta bhavana, một phép luyện tập giúp mình khơi động lòng nhân ái vô biên, một phép thiền định thật tuyệt vời, thế nhưng tiếc thay một số người trong chúng ta lại cho là vô cùng khó khăn. Nhiều người qua các kinh nghiệm riêng của mình đều công nhận phép luyện tập này ít nhất cũng có thể thỉnh thoảng làm tan biến được các xúc cảm tiêu cực, nhất là đối với sự giận dữ. Phép thiền định Metta bhavana sẽ giúp mình gia tăng sự chú tâm, phát huy tình thương yêu và lòng nhiệt tâm đối với tất cả chúng sinh. Cách khơi động lòng nhân ái vô biên sẽ làm tan biến độc tố của sự giận dữ.

 

Sự Thèm khát

 

            Độc tố thứ ba là sự thèm khát. Dưới một góc nhìn nào đó thì độc tố này vô cùng nguy hiểm. Độc tố đó không nhất thiết chỉ là một sự mong muốn đơn giản (simple desire) mà là một thứ mong muốn mà chúng ta có thể gọi là « bấn loạn thần kinh » (neurotic desire) (nguyên nhân của sự thèm khát rất sâu kín đôi khi rất bấn loạn đó là các sự thúc đẩy và đòi hỏi của bản năng, nhất là các thứ bản năng sinh tồn, truyền giống và sợ chết). Hãy lấy thí dụ về miếng ăn – hay thức ăn thường nhật. Tất cả chúng ta đều muốn ăn và thích ăn, điều đó rất tự nhiên và lành mạnh (bản năng sinh tồn thúc đẩy sự thích ăn và muốn ăn, sự thúc đẩy đó rất tự nhiên và cần thiết hầu duy trì sự sống). Thế nhưng sự ham muốn miếng ăn sẽ trở thành một hình thức bấn loạn thần kinh khi chúng ta tìm cách biến thức ăn thành một thứ thay thế cho các đòi hỏi khác mang tính cách tâm thần hay xúc cảm (ăn thì phải thật ngon, các thức ăn phải cầu kỳ, ăn trong một khung cảnh sang trọng, có người hầu hạ, âm nhạc, ca hát, rượu ngon để uống kèm, đó là các hình thức mượn miếng ăn, « tô điểm » miếng ăn để che lấp những đòi hỏi khác sâu kín hơn, phản ảnh những sự lo sợ « vô thức » bên trong tâm thần mình). Mới chiều hôm qua tôi được đọc một bài báo trong một tập san phụ nữ cho biết là nhiều độc giả của tập san này từng viết thư cho biết cứ mỗi khi phải đối đầu với các khó khăn về mặt xúc cảm thì họ cảm thấy thèm ăn bánh kẹo và cứ thế mà ăn liên hồi, không sao dừng lại được. Sự thèm ăn đó mang tính cách bấn loạn thần kinh, nói một cách khác thì đấy chính là sự « thèm khát » (Cố gắng làm việc để có miếng ăn là một sự mong muốn lành mạnh, là một cách làm thỏa mãn sự đòi hỏi của bản năng sinh tồn. Mưu mô, tính toán, lường gạt, xả thân… để làm giàu bằng mọi cách, sẽ biến mình thành con mồi của bản năng sinh tồn, phản ảnh một sự thèm khát bấn loạn thần kinh).   

 

Như chúng ta vừa thấy trên đây sự thèm khát rất dễ nhận thấy, nhưng lại là cả một vấn đề thật to lớn, nhất là trong thời đại chúng ta. Trong xã hội ngày nay có một thứ kỹ nghệ khổng lồ, nhằm mục đích khích động sự thèm khát của chúng ta. Thật dễ hiểu đó là kỹ nghệ quảng cáo. Dù cho chúng ta có gán cho cái kỹ nghệ đó một cái tên gọi nào khác thì chủ đích của nó vẫn là tìm cách thuyết phục chúng ta nhất định phải có cái này hay cái kia cho bằng được – dù chúng ta ý thức hay không ý thức được sự cần thiết của những thứ ấy thì cũng không cần biết. Thật vậy chúng ta có thể bảo rằng quảng cáo là một trong số các ngành nghề đi ngược lại với bất cứ một hình thức đạo đức nào (bị thu hút bởi quảng cáo – trá hình hay lộ liễu – là một hình thức xao lãng thật khủng khiếp, đày đọa và đánh lạc hướng sự sinh hoạt và cả tâm thức con người, khiến con người không nhìn thấy một nếp sống khác thanh thản và tự nhiên hơn,  phù hợp hơn với thiên nhiên sự sống. Hãy nêu lên một thí dụ thật nhỏ, chẳng hạn như phấn son, trang sức, áo quần, giày dép thật « đẹp » và « đúng mốt », v.v. cũng chỉ đơn giản là các thứ dùng để « quảng cáo » thân thể của mình và nuôi sống các kỹ nghệ sản xuất các thứ ấy mà thôi, đấy là chưa nói đến các trường hợp giải phẩu « thẩm mỹ », quần áo hở hang, thắt chặt chỗ này, độn thêm chỗ kia, là các trường hợp « quảng cáo  lường gạt»/false advertising/publicité mensongère)

 

            Sự thèm khát có thể loại bỏ được bằng nhiều phương pháp luyện tập khác nhau. Con số thật lớn các liều thuốc hoá giải đủ mọi thể loại giúp chúng ta có một ý niệm nào đó về sự tàn phá của độc tố thèm khát. Một số các liều thuốc đó mang tính cách vô cùng khắc nghiệt, chẳng hạn như phép suy ngẫm về mười giai đoạn phân hủy của một xác chết, phương pháp này rất phổ biến trong các nước Phật giáo. Người ta thường cho rằng phương pháp này vô cùng hữu hiệu đối với sự thèm khát dục tính, nhất là dưới các hình thức bấn loạn thần kinh (bản năng truyền giống tạo ra các sự thèm khát sinh lý rất mạnh, không khác gì với sự dày vò của một cơn đói, sự thèm khát đó đưa đến các xúc cảm bấn loạn đủ loại. « Thiền định » về thân thể của người mà mình thèm muốn dưới thể dạng một xác chết đang phân hóa là cách có thể làm giảm bớt tình trạng bấn loạn thần kinh/neurotic của mình).

 

            Nếu không thực hiện đến cùng được phép luyện tập này thì cũng có một phép luyện tập khác cùng một thể loại nhưng nhẹ nhàng hơn : đó là cách suy tư về việc hỏa táng. Có thể các bạn cũng đã được biết là tại Ấn-độ người ta không chôn cất người chết mà mang ra hỏa táng. Người ta thường chọn một khu đất cạnh bờ sông để làm nơi hỏa táng, Các bạn nên tìm đến nơi này một mình vào lúc ban đêm và ngồi xuống thiền định. Tôi có thể quả quyết với các bạn là các nơi này, nhất là vào ban ngày, không phải là các nơi vui mắt lắm. Các mẩu xương và quần áo cháy dở vung vải khắp nơi, mùi hôi thối của thịt người chưa cháy hết bốc lên trong không khí. Thế nhưng khung cảnh đó có thể rất thuận lợi và hiệu nghiệm trong việc luyện tập thiền định về thân thể con người. Riêng đối với tôi thì tôi có thể quả quyết với các bạn là phép luyện tập này vô cùng sinh động.

 

            Cách nay nhiều năm trên bờ sông Hằng không xa thị trấn Lucknow, chính tôi cũng đã từng cảm nhận được cảm tính đó. Nơi này trước đây là một bãi cát trắng mênh mông dùng làm nơi hỏa táng. Đêm hôm đó vào ngày trăng rằm, cảnh vật nhuốm một màu trắng bạc, ánh sáng trăng vừa đủ để trông thấy đây đó những đống vun lên nho nhỏ là những nơi mà người ta mới hỏa táng xong, rải rác trên mặt cát khắp nơi là các mẩu xương và các mảnh sọ người. Khung cảnh thật vắng lặng và yên tĩnh, người ta cảm thấy mình tách xa với thế giới. Cảm tính đó không phảng phất một chút xúc cảm yếm thế hay đau buồn nào cả, mà tôi còn có thể khẳng định với các bạn là xúc cảm đó thật hết sức sinh động. Như tôi vừa nói trên đây, người ta cảm thấy mình tách ra khỏi tất cả, gần như là mình vừa hoàn tất việc hỏa táng của chính mình. Sự cảm nhận đó không khỏi khiến liên tưởng đến trường hợp của một người hindu (người Ấn) tự đứng ra lo toan công việc hỏa táng của chính mình và tìm thấy niềm vui qua từng giai đoạn trong công việc hỏa táng đó, giúp mình trở thành một người sannyasin chính thống (sannyasin là tiếng Phạn có nghĩa khá gần với chữ bhikkhu/tỳ-kheo trong Phật gíáo, sannyasin là một người theo Ấn giáo chính thống, đã được thụ phong qua một số các nghi lễ trước một ngọn lửa thiêng nhằm giúp mình trở thành một người tu hành phiêu bạt, sống lang thang, hết thánh địa này đến thánh địa khác). Ý nghĩa của hành động đó là một khi đã chối bỏ thế giới để trở thành một người sannyasin thì cũng có nghĩa là mình đã chết trên phương diện dân sự (tức là đã tách ra ngoài xã hội), đối với thế giới thì sự hiện hữu của mình không còn nữa. Đó là những gì phải thực hiện sau cùng trước khi khoác lên người chiếc áo màu vàng (của người tu hành). Cảm tính « kết nối giữa cái chết và việc từ bỏ [thế giới] » (có nghĩa là đi tu) và « lòng quyết tâm gạt bỏ tất cả mọi sự thèm khát thế tục » mang cùng một ý nghĩa như nhau.

 

            Nếu không tìm được một nghĩa địa để thiền định (điều này quả hết sức khó đối với một số người), thì cũng có một phép luyện tập khác cùng một thể loại nhưng nhẹ nhàng hơn. Đó là cách thiền định về cái chết như là một thứ gì đó không sao tránh khỏi được, nó sẽ đến đúng hẹn với từng mọi người, không một ai có thể thoát khỏi nó cả. Cái chết nhất định sẽ xảy ra với mình, vậy thì tại sao lại không sống cuộc đời này của mình một cách tốt đẹp hơn. Tại sao lại dồn cả đời mình vào các sinh hoạt không đáng để thực hiện ? Tại sao lại cứ để mình bị lôi cuốn bởi những thứ lạc thú hạ cấp (miserable/tầm thường, tồi tàn, vô nghĩa) không mang lại cho mình sự thỏa mãn hay hạnh phúc lâu bền ? Trên đây là cách thiền định về ý nghĩa của cái chết, và cũng là liều thuốc hóa giải sự thèm khát nói chung, dù là dưới hình thức chiếm hữu, danh vọng hay lạc thú.

 

            Ngoài ra người ta cũng có thể thiền định về vô thường : tất cả đều phù du, không có  bất cứ một thứ gì có thể kéo dài cả (kể cả thái dương hệ và từng hơi thở của chính mình), tất cả đều đổi thay trong từng khoảnh khắc một. Chúng ta phải ghi khắc trong tâm là tất cả mọi thứ sẽ đều trôi qua, chẳng khác gì như những áng mây trên trời. Cách thiền định này cũng sẽ tạo ra các tác động tổng quát tương tự như đối với các phép thiền định mà tôi vừa trình bày trên đây. Người ta không thể nào khăng khăng bám chặt vào những thứ mà mình biết rằng sớm muộn gì  mình cũng sẽ phải buông bỏ chúng.

 

 

            Sau hết còn có thêm một phép luyện tập khác nữa, đó là cách suy tư về bản chất ghê tởm của miếng ăn. Tôi sẽ không nêu lên chi tiết về phép luyện tập này, chẳng qua cũng vì chẳng có gì là thú vị cả, đấy chỉ là một cách cố tình tạo ra như thế (cố tình nêu lên sự ghê tởm và nguy hại của các miếng ăn để mình không « thèm khát » chúng), tuy nhiên cũng khá hiệu nghiệm đối với các cô bé gái thích bánh kẹo một cách bấn loạn thần kinh (ham ăn bánh kẹo thì sẽ béo phì, thế nhưng một người tu hành thì không được phép đánh giá một « chúng sinh » là đẹp hay xấu, « mảnh mai » hay « to béo ». Đây là một cách nói ý nhị và khéo léo của nhà sư Sangharakshita. Nói chung hám ăn là hình thức sơ đẳng nhưng cũng căn bản nhất của bản năng sinh tồn).

 

 

Trong số các phép luyện tập hóa giải sự thèm khát trên đây, các bạn phải chọn ra một phép phù hợp với mình. Nếu các bạn cảm thấy sự thèm khát của mình quá mạnh và mình thì lại cứ thích để cho sự thèm khát đó siết chặt mình trong nanh vuốt của nó, thì không nên do dự một chút nào cả : hãy cứ cắn răng tìm đến một nơi hỏa táng, và dù không trông thấy thân xác người chết hay bất cứ một vật gì, dù chỉ là một vài mảnh xương, hầu giúp mình liên tưởng đến cái chết, thì cũng cứ làm hiện lên với mình ý nghĩ về cái chết. Một số người tập quen dần với ý nghĩ đó bằng cách nhìn vào một vài mảnh sọ hay mảnh xương  (của một con vật nào đó chẳng hạn) trông thấy chung quanh mình (bản năng sợ chết rất mạnh khiến nhiều người không dám nghĩ đến nó, thế nhưng đến khi nó sắp xảy ra với mình thì khi đó sẽ là cả một thảm trạng. Ý thức được cái chết cũng có nghĩa là biết nhìn vào thực trạng của chính mình một cách thẳng thắn. Sự ý thức đó sẽ giúp mình hóa giải – ít nhất cũng được một phần nào – các sự thèm khát, bám víu và đam mê của mình. Đối với người Tây phương sự ý thức đó thường được hiểu như là một sự yếm thế, nhưng đối với người Đông phương thì đấy lại là một sự can đảm, thực tế mang lại cho mình một sự nhẹ nhàng và an vui).

 

            Sau hết, các bạn có bao giờ cảm thấy sợ hãi một thứ gì đó hay không? Trong gian hộ của tôi tại Highgate (ngoại ô phía bắc thành phố Luân-đôn), có một cái bát cổ làm bằng sọ người đánh bóng loáng. Một hôm có một phụ nữ đến chơi và cùng uống trà, bà này tò mò muốn biết về các vật dụng của người Tây Tạng mà tôi có, bà cho biết là mình rất thích tất cả những gì của người Tây Tạng. Tôi bèn nói với bà : « Vậy bà có muốn xem cái này hay không? » và đặt ngay cái bát vào tay bà ta. Bà này suýt đánh rơi cái bát xuống đất, cứ như là bốc phải một cục than hồng, và thốt lên : « Đây là một cái sọ người mà ! ». Tôi trả lời: « Đúng vậy, đây là một cái sọ người. Người dân Tây Tạng thường dùng các vật dụng như thế ». Tôi muốn nói là người Tây Tạng rất thích các vật dụng làm bằng xương hay sọ người, chẳng hạn như các tràng hạt làm bằng các mảnh xương, các cái kèn làm bằng ống chân hay chén bát làm bằng sọ người. Chẳng qua vì cách nhìn cái chết của họ rất tự nhiên và bình thường. Họ không cho rằng cái chết là một thứ gì đó thật kinh hoàng hay khiếp đảm như chúng ta thường nghĩ. Phần đông trong chúng ta lớn lên với tín ngưỡng Ki-tô, và mỗi khi nghe nói đến « cái chết » thì cảm thấy lạnh cả xương sống. Phật giáo không nhìn vào cái chết như vậy. Đối với Phật giáo, cái chết là một cái gì đó thật tự nhiên như chính sự sống. Để nói lên điều này, tôi xin trích dẫn câu thơ tuyệt đẹp của một thi hào cận đại người Bengali (người Ấn sinh sống trong vùng Bengal, đông bắc bán lục địa Ấn-độ, cũng mạn phép nói thêm là nhà sư Sangharakshita cũng là một thi sĩ với nhiều tác phẩm rất sâu sắc) là Tagore : «Tôi hiểu rằng tôi sẽ yêu cái chết chẳng khác gì như yêu sự sống ». Thi hào Tagore xem sự sống và cái chết cũng chỉ là hai mặt của cùng một sự vật, vì thế nếu các bạn yêu sự sống thì cũng nên yêu cả cái chết. Điều đó có vẻ là một sự nghịch lý, thế nhưng quả đúng là như vậy.

 

Sự Kiêu hãnh

 

            Độc tố thứ tư là sự kiêu hãnh (pridefulness/orgueil). Độc tố này thường được hiểu như là một thứ cảm tính « tự hào » hay « tự phụ » (self-regard/fierté), thế nhưng theo tôi thì nên xem cảm tính này là một sự « kiêu hãnh ». Qua kinh nghiệm cá nhân của mỗi người thì bất cứ ai trong chúng ta cũng đã từng cảm thấy đôi chút kiêu hãnh về chính mình, do vậy nên tôi chẳng cần phải nói thêm gì cả. Sự kiêu hãnh có thể hiểu như là một sự cảm nhận của chính mình về một cái tôi (cái ngã) tách ra khỏi chính mình, thế nhưng không phải chỉ đơn giản là một sự tách rời mà là cả một sự cô lập hóa, thế nhưng cũng không phải chỉ đơn giản là một sự cô lập hóa mà là một sự cô lập hóa thuộc một cấp bậc cao hơn.  

 

            Liều thuốc hóa giải độc tố kiêu hãnh đó là phép thiền định về sáu thành phần : đất, nước, lửa, khí, ether hay không gian (tiếng Phạn là aksha) và tri thức.

 

            Vậy cách luyện tập về phép thiền định về sáu thành phần là như thế nào? Trước hết là ngẫm nghĩ về thành phần đất. Chúng ta suy nghĩ như thế này : « Trong thân thể vật lý (thân xác vật chất) của tôi có thành phần cứng là « đất », chẳng hạn như thịt, xương, v.v. Vậy thành phần đất đó từ đâu đến đây ? Nó đến từ thành phần đất của vũ trụ, nói một cách khác là các chất cứng trong vũ trụ. Khi tôi chết thì thịt, xương, v.v. của tôi sẽ tan rã và sẽ trở về với thành phần đất của vũ trụ: tro hóa thành tro, bụi bặm hóa thành bụi bặm! ». Cứ hãy suy tư và ngẫm nghĩ như thế dù đấy chỉ là vài nét đại cương, bởi vì phép thiền định này trên thực tế khúc triết hơn thế rất nhiều.

 

            Đến đây chúng ta sẽ thiền định về thành phần nước. Chúng ta hãy suy nghĩ như thế này : « Bên trong tôi có máu, mồ hôi, nước mắt, v.v. đó là thành phần nước. Vậy thành phần nước đó từ đâu đến đây để tụ lại trong tôi như thế này? Nước nào có phải là của tôi đâu, nó không thật sự là của tôi. Nó đến từ nước trong môi trường chung quanh tôi : nào là nước mưa, biển cả, sông ngòi... Một ngày nào đó tôi sẽ phải trao trả nó. Một ngày nào đó thành phần nước trong tôi sẽ cùng chảy với thành phần nước của cả vũ trụ nảy ».

 

            Tiếp theo chúng ta sẽ thiền định về thành phần lửa, tinh tế hơn so với các thành phần đất và nước. Chúng ta hãy suy nghĩ như thế này : « Trong tôi có hơi nóng. Hơi nóng ấy từ đâu đến? Nguồn gốc to lớn tạo ra hơi nóng trong toàn thể thái dương hệ là gì? Đó là mặt trời. Không có mặt trời thì thái dương hệ sẽ tối om và giá buốt. Hơi nóng trong tôi phát sinh từ nguồn năng lượng đó (nhiều người – trong số đó kể cả một số khoa học gia – cho rằng hơi nóng trong cơ thể là do sự chuyển hóa sinh học của các tế bào tạo ra, thế nhưng phải hiểu rằng các tế bào tự chúng cũng phải nhờ vào nguyên liệu là thức ăn thực vật để tạo ra hơi nóng, và thực vật thì phải nhờ vào sức nóng và ánh sáng mặt trời để sinh sôi và phát triển).  Khi tôi chết, chuyện gì sẽ xảy ra? Hơi nóng là một trong các thứ cuối cùng rời khỏi thân xác, bắt đầu từ tứ chi và sau cùng chỉ còn lại một điểm ấm thật nhỏ trên đỉnh đầu. Khi điểm ấm này biến mất thì tôi chết. Thành phần nóng trước đây trong tôi sẽ quay trở lại với khối trữ lượng hơi nóng và ánh sáng của vũ trụ. Thiền định về thành phần lửa là như vậy, tức là phải suy nghĩ rằng hơi nóng là một thứ vay mượn và sẽ phải hoàn trả nó.  

 

            Sau đó chúng ta lại tiếp tục suy nghĩ về thành phần khí : « Vậy trong tôi thành phần khí là gì? Đó là không khí trong phổi. Tôi hấp thụ nó và hoàn trả nó qua từng khoảnh khắc một. Nó không thật sự là của tôi, nhờ sự hô hấp mà tôi có nó qua từng khoảnh khắc thật ngắn mà thôi. Tôi vẫn còn tiếp tục hít vào và thở ra, và lại hít vào rồi lại thở ra cho đến một ngày nào đó, tôi sẽ không còn hít vào nữa. Tôi hoàn trả sự hô hấp của tôi và tôi chết. Sự hô hấp trước đây sẽ không còn là của tôi nữa, kể cả trong lúc này nó cũng chẳng phải là của tôi ».

 

            Đến đây chúng ta lại tiếp tục thiền định về ether tức là không gian. Chúng ta hãy suy nghĩ như thế này : « Thân xác vật chất của tôi chiếm hữu một phần không gian nào đó. Thế nhưng khi thân xác này của tôi tan rã thì cái khoảng không gian giới hạn mà nó chiếm hữu trước kia sẽ trở thành như thế nào?  Nó sẽ hòa lẫn với không gian vô tận chung quanh tôi, nói một cách khác là nó biến mất ».

 

            Sau hết những gì sẽ xảy ra với tri thức ? Chúng ta hãy suy nghĩ như thế này : « Trong hiện tại thì tri thức tôi liên kết với thân xác vật chất của tôi và cả cái phần không gian mà nó chiếm hữu. Khi cái thân xác đó chấm dứt sự hiện hữu của nó, và cái không gian mà nó chiếm hữu trước đây đã hòa lẫn với không gian vô tận, thì cái tri thức giới hạn đó sẽ trở thành như thế nào ? Nó cũng sẽ trở thành vô tận. Nó sẽ được tự do. Khi tôi chết trên phương diện vật lý (thể xác) thì vào lúc đó tôi sẽ cảm nhận được cái tri thức vô tận ấy trong một khoảnh khắc thật ngắn. Khi tôi chết trên phương diện tâm linh thì tri thức của tôi sẽ vượt lên trên tất cả các biên giới, dù các biên giới ấy là gì cũng vậy (kể cả không gian và thời gian), và tôi sẽ cảm nhận được một sự tự do hoàn hảo (tức là sự Giải thoát). Đấy là cách thiền định về tri thức (tức là một sự luyện tập trong hiện tại giúp mình « quen dần » với quá trình diễn tiến đó của dòng tri thức mình trong « giai đoạn trung gian » sẽ xảy ra sau này giữa cái chết và sự tái sinh của mình. Trong sự diễn tiến của quá trình đó khi cái chết tâm linh xảy ra thì nhờ vào sự luyện tập trước đây mình sẽ cảm nhận được sự trống không tuyệt đối của tri thức vô tận đó hầu hòa nhập với nó, và đó chính là sự giải thoát, không rơi trở lại với cái tôi trần tục của mình trước đây qua sự tái sinh).

 

            Trên đây chỉ là một cách giải thích vắn tắt thế nhưng cũng có thể mang lại cho các bạn một ý niệm nào đó về phương pháp thiền định về sáu thành phần: đất, nước, lửa, khí, không gian và tri thức. Đó là cách mà chúng ta sử dụng liều thuốc hóa giải sự kiêu hãnh. Chúng ta sẽ tuần tự tách ra khỏi thân xác vật chất gồm các thành phần thô thiển và cả phần không gian mà nó từng chiếm hữu, cùng với tri thức giới hạn liên kết với cái thân xác đó và luôn cả phần không gian mà nó từng chiếm hữu trước đó (« tri thức giới hạn » có nghĩa là tri thức vẫn còn ở trong tình trạng liên kết và lệ thuộc vào thân xác và cả phần không gian mà nó chiếm hữu). Đó là cách mà người ta trở thành hoàn toàn tự do : có nghĩa là đạt được Giác ngộ.

 

Vô minh

 

Độc tố thứ năm là vô minh., và trong trường hợp này thì có nghĩa là vô minh tâm thức, tức là tâm thức không nhận biết được Hiện thực là gì. Qua một góc nhìn nào đó thì cũng có thể bảo rằng vô minh chính là sự ô nhiễm căn bản (tức là nghiệp ghi khắc và tồn lưu trên dòng tri thức mình). Liều thuốc hóa giải sự ô nhiễm đó (tức là nghiệp hay tình trạng vô minh của tâm thức) là phép thiền định về các « mối dây trói buộc » (nidana) của sự tạo tác do điều kiện mà có (nidana là các « khoen » kết nối với nhau thành một sợi dây xích buộc chặt con người trong cõi luân hồi, kinh sách Hán ngữ gọi là Thập nhị nhân duyên. Cõi luân hồi tức là « thế giới hiện tượng » hiện ra chung quanh chúng ta, trong đó tất cả mọi sự hiện hữu, kể cả chính mình, đều nhất thiết phải tương kết và tương tạo tức là phải lệ thuộc vào nhau để mà có, nói một cách khác thì đấy là các sự tạo tác lệ thuộc vào thật nhiều điều kiện (conditioned co-production / interdependence / pratityasamutpada), Có tất cả hai mươi bốn mối dây trói buộc, mười hai mối dây thứ nhất là các mối dây thế tục, tạo ra sự hiện hữu luân hồi (xoay tròn bất tận trong thế giới hiện tượng). Mười hai mối dây thứ hai thuộc lãnh vực tâm linh, tạo ra sự hiện hữu theo cách xoắn ốc (vừa xoay tròn vừa hướng lên cao đưa đến sự Giải thoát). Mười hai mối dây đầu tiên biểu trưng cho « Bánh xe của sự sống » (cõi luân hồi). Mười hai mối dây thứ hai biểu trưng cho các giai đoạn trên con đường [tu tập đưa đến sự Giải thoát]. Nhóm thứ nhất mang tính cách tác động (reactive, tạo ra nghiệp). Nhóm thứ hai mang tính cách sáng tạo (creative, đưa đến sự Giải thoát) (đây là cách giải thích ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc của nhà sư Sangharakshita về khái niệm « Mười hai mối dây trói buộc » chúng sinh trong cõi luân hồi. Khái niệm này thật ra gồm 24 mối dây tất cả : 12 mối dây đầu tiên mang tính cách trói buộc – trong đó mối dây thứ nhất là vô mình – và mười hai mối tháo gỡ – trong đó mối dây cuối cùng là sự Giải thoát. Nhà sư Sangharakshita gọi nhóm thứ nhất là « nhóm tác động » tức là các sự thúc đẩy dây chuyền đưa đến sự tạo nghiệp, một sự xoay vần biểu trưng bởi « Bánh xe của sự sống » ; nhóm thứ hai là « nhóm sáng tạo » nói lên một sự quyết tâm, một sự tu tập, tạo ra một sự tháo gỡ tuần tự, và mối tháo gỡ cuối cùng là thể dạng vô minh trong tâm thức).

 

            Trên đây là năm phép thiền định căn bản : chú tâm vào hơi thở là liều thuốc hóa giải sự xao lãng ; phát huy lòng nhân ái vô biên là liều thuốc hóa giải sự giận dữ ; thiền định về vô thường, cái chết, sự ô uế, v.v., là liều thuốc hóa giải sự thèm khát ; thiền định về sáu thành phần là liều thuốc hóa giải sự kiêu hãnh ; và sau hết là thiền định về các nidana, là liều thuốc hóa giải các thể dạng vô minh tâm thần [đưa đến sự Giải thoát].

 

                                                                                                            Vittel, 16.08.19

                                                                                                   Hoang Phong chuyển ngữ

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2020(Xem: 3569)
Có lẽ bài viết này sẽ không đúng thời, đúng lúc vào hoàn cảnh hiện nay (riêng cho Việt Nam, các miền Bắc Trung Bộ từ Quảng Trị vào đến Thừa Thiên (Huế) nơi các vị Thầy khả kính của tôi đang chịu nhiều áp lực của thiên tai (sạt lỡ và lũ lụt trầm trọng hơn bao giờ hết, vượt lên trên những hậu quả của năm 1999 và hơn thế nữa... thế giới đang chịu nạn đại dịch Covid 19 hoành hành làm ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Nhưng hậu bối trộm nghĩ nếu mình không ráng tu học để được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi khi còn được may mắn có cơ hội làm người và có cơ hội giác ngộ hơn những động vật và loài cỏ đá vô tình, thì cũng uổng phí một đời...
03/09/2020(Xem: 3378)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư. Bản thân người viết không phải là một thẩm quyền nào; do vậy, nơi đây chỉ là một cố gắng trong khả năng hạn hẹp để đọc lại và ghi chép lại một số lời dạy từ kinh luận, hy vọng sẽ giúp làm sáng tỏ một số thắc mắc. Các chữ viết tắt trong bài này có thể đọc ở Đại Tạng Kinh (1) với các kinh: DN là Trường Bộ Kinh, MN là Trung Bộ Kinh, SN là Tương Ưng Bộ Kinh, AN là Tăng Chi Bộ Kinh, Sn là Kinh Tập trong Tiểu Bộ, Ud là Kinh Phật Tự Thuyết, SA là Tạp A Hàm,
17/07/2020(Xem: 6016)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
10/07/2020(Xem: 5527)
Thực tập thiền chánh niệm sẽ giúp cho chúng ta cảm nhận được sự an lạc trong từng giây phút của cuộc sống. Thiền cũng tăng sự tập trung, tăng hiệu quả của bộ nhớ, vượt qua áp lực và căng thẳng trong đời sống hằng ngày. Các lớp học gồm có: Lớp 1: LỚP SƠ CẤP ONLINE - Thời lượng 8 tuần vào lúc 4pm tới 5:30pm chiều thứ 7 hàng tuần. (For English class: Friday Evenings: 7pm to 8:30pm from July 17 to September 4, 2020) Lớp 2: LỚP TRUNG CẤP - Thời lượng 10 tuần vào lúc 8am tới 10am sáng Chủ Nhật hàng tuần. (For English class: Saturday Evenings: 6:30pm to 8:30pm from July 18 to September 19, 2020)
30/06/2020(Xem: 9907)
Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang. Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.
10/12/2019(Xem: 4969)
“Thà như giọt mưa, vỡ trên tượng đá Thà như giọt mưa, khô trên tượng đá Thà như mưa gió, đến ôm tượng đá Có còn hơn không, Có còn hơn không …” Đó là những câu mở đầu bài thơ của một người làm thơ như ăn cơm, làm thơ như uống nước, làm thơ như thiền hành, làm thơ như tĩnh tọa, làm thơ như say ngủ …. Làm thơ mà như chưa từng nghĩ là mình làm thơ, huống chi, nhọc nhằn khoác vào mình những hư danh nhân thế.
02/12/2019(Xem: 4959)
Thiền Định, Một Phương Pháp Biến Cải Tâm Linh. Đức Đạt-lai Lạt-ma và Urgyen Sangharakshita
15/11/2019(Xem: 5192)
Cuộc sống của con người và vạn vật chung quanh biến đổi từng giờ từng phút theo không gian và thời gian. Không hề có bất kỳ sự kiện hay sự vật nào tồn tại vĩnh viễn. Giáo lý nhà Phật gọi tình trạng đó là Vô thường.
12/09/2019(Xem: 4431)
Bài này ghi lại một số lời dạy về Thiền Tông – để thấy rằng trong tận cùng, tất cả các phương tiện chư Tổ sử dụng khi truyền pháp chỉ là các bè pháp để lìa tham sân si, bằng cách nhận ra bản tâm vốn đã tròn đầy giới định huệ. Khi nhận ra sợi chỉ đỏ xuyên suốt các lời Đức Phật dạy qua nhiều thời kỳ khác nhau, sẽ thấy tất cả đều tương thông, trong tận cùng là không dị biệt, không trái nghịch giữa các truyền thống, dù là Nam Tông hay Bắc Tông. Với người đã sống được trong các pháp ấn vô thường, vô ngã… lúc đó không thấy còn bè pháp nào nữa, vì sẽ thấy tất cả các phương tiện tu học chỉ là sản phẩm của tâm quá khứ, chỉ là thêu dệt từ những ngũ uấn của ngày hôm qua và hôm kia, trong khi cái hiện tiền chảy xiết ngay bây giờ là cái dòng tịch lặng vô thường bất khả ngôn thuyết. Cũng y hệt như khi đã nắm được bâu áo tràng (cổ áo tràng), tự động chiếc áo sẽ xuôi một dòng, phẳng lì, không rời tay mình bất kể khi đi đứng nhanh hay chậm, lúc đó cũng chẳng bận tâm tới tay áo nghiêng về phía Nam
09/09/2019(Xem: 5570)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.Narayan Helen Liebenson là nữ giáo sư hướng dẫn tại Trung Tâm Thiền Cambridge Insight Meditation Center. Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche là người nắm giữ truyền thừa của truyền thống Bön Dzogchen tradition của Tây Tạng. Ông là tác giả của cuốn sách “Spontaneous Creativity: Meditations for Manifesting Your Positive Qualities” [Sự Sáng Tạo Tự Phát: Thiền Để Thể Hiện Phẩm Chất Tích Cực Của Bạn] (xuất bản năm 2018).Zenkei Blanche Hartman (1926-2016) là Pháp Sư Cao Cấp và là phụ nữ đầu tiên Trú Trì Trung Tâm Thiền San Francisco.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567