Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thách thức của nhân loại: Phát Biểu về Liên Tôn

07/10/201114:21(Xem: 8281)
Thách thức của nhân loại: Phát Biểu về Liên Tôn

THÁCH THỨC CỦA NHÂN LOẠI: PHÁT BIỂU VỀ LIÊN TÔN

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Geshe Thupten Jinpa
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 22/09/2011
artofliving_dalailama

Chúng ta đã và đang thấy trong kỷ nguyên hiện đại những sự phát triển vượt bậc trong lĩnh vực phát triển vật chất. Như một kết quả, có một sự cải thiện đáng kể trong đời sống của con người. Tuy thế, cùng lúc ấy, chúng ta cũng cảnh giác rằng sự phát triển vật chất đơn thuầnkhông thể trả lời cho tất cả những ước mơ của nhân loại. Hơn thế nữa, khi sự phát triển vật chất đạt đếnmột giai đoạn cao và cao hơn nữa, đôi khi chúng ta thấy rằng nó mang theo một sựphức tạp nào đấy, kể cả gia tăng những rắc rối và thử thách cho chúng ta. Do bởi sự kiện này, tôi nghĩ rằng tất cả nhữngtruyền thống tôn giáo trên thế giới có khả năng để cống hiến đến lợi ích và cát tường của nhân loại, và các tôn giáo cũng duy trì sự liên hệ của họ trong thế giới hiện đại.

Tuy nhiên, vì nhiều tôn giáo quan trọng của thế giới tiến triển theo lịch sử của loài người một thời gian dài, tôi hoàn toàn chắc chắn rằng nhiều phương diện giáo huấn của tôn giáo và các truyền thống phản chiếu những nhu cầu và quan tâmtrong những thời gian và các nền văn hóa khác nhau. Do vậy, tôi nghĩ thật quan trọng để có thể thực hiện một sự phân biệt giữa những gì tôi gọi là "cốt tủy" hay"căn bản" của giáo huấn các tôn giáo và những phương diện văn hóa của một truyền thống đặc thù. Những gì tôimuốn gọi là "căn bản" hay "cốt tủy" của các truyền thốngtôn giáo là những thông điệp tôn giáo nền tảng, chẳng hạn nguyên tắc từ ái, bimẫn, v.v..., là những điều luôn luôn duy trì sự liên hệ và tầm quan trọng củachúng, bất chấp thời gian hay hoàn cảnh. Nhưng khi thời gian thay đổi, phạm vi văn hóa thay đổi, và tôi nghĩ rằng thật quan trọng cho những tín đồ của các tôn giáo có thể thực hiện những sựthay đổi cần thiết có thể phản chiếu những quan tâm đặc thù về thời đại và vănhóa của họ.

Tôinghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể,lời nói, và suy tư của họ và hành động phù hợp với giáo huấn và những nguyên tắc của truyền thống tôn giáo mà họ đang tôn thờ.Điều này rất quan trọng. Trái lại,nếu niểm tin hay sự thực hành tôn giáo của mỗi cá nhân chỉ duy trì trong cấp độvận dụng về tri thức, chẳng hạn như quen thuộc với những giáo thuyết nào đấy màkhông chuyển dịch chúng vào trong thái độ hay hạnh kiểm đạo đức của chúng ta,thế thì tôi nghĩ đấy là một lỗi lầm nghiêm trọng. Trong thực tế, nếu ai đấy sở hữu một kiến thứctrí óc giáo điều của những truyền thống hay giáo lý tôn giáo, tuy thế tâm thứchay sự tương tục tinh thần của người ấy vẫn hoàn toàn không có ảnh hưởng gì vớigiáo lý, thế thì điều này có thể hầu như là phá hoại. Nó có thể đưa đến một hoàn cảnh trong ấy con người, do bởi có kiến thức về niềm tin tôn giáo, có thể sử dụng tôn giáo cho những mục tiêu khai thác hay lợi dụng. Thế nên, tôi nghĩ, như một hành giả, trách nhiệm trước nhất của chúng ta là quán xét chính chúng ta.

Hoàn cảnh thế giới ngày nay là hoàn toàn khác biệt với quá khứ. Vào thời xưa, những cộng đồng và xã hội loài người hiện hữu ít nhiều độc lập hơn với nhau. Dưới những hoàn cảnh như vậy, những ý tưởng của một tôn giáo duy nhất, mộtnền văn hóa đơn điệu khổng lồ, v.v... hợp lý và có một vị trí trong phạm vi văn hóa. Nhưng tình thế này bây giờ đã hoàn toàn thay đổi như một kết quả của những nhân tố đa dạng: dễ dàng thâm nhập giữanhững quốc gia khác nhau, một cuộc cách mạng thông tin, đễ dàng chuyền vận,v.v... Thế nên, xã hội loài người có thể không còn hoạt động trong kiểu thức ấy nữa.

Chúngta hãy lấy một thí dụ về thủ đô Anh Quốc. Luân Đôn là một thành phố đa văn hóa và đa tôn giáo. Do vậy, nếu chúng ta không hành xử một cách cẩntrọng và sử dụng trí thông minh của chúng ta, thì sẽ có thể có nguy cơ xung độtcăn cứ trên sự khác biệt niềm tin tôn giáo và văn hóa. Vì thế, rất quan trọng để có một quan điểmsuy nghĩ đến sự hiện hữu của những tôn giáo phức tạp, sự đa nguyên tôngiáo. Phương cách tốt nhất để đối diện vớithử thách này là không chỉ nghiên cứu các truyền thống tôn giáo khác qua sách vở,mà quan trọng hơn là việc gặp gỡ với những người thuộc những truyền thống tôngiáo khác vì thế chúng ta có thể chia sẻ những kinh nghiệm của mình với họ và họchỏi từ những kinh nghiệm của họ. Qua những cuộc gặp gỡ cá nhân, chúng ta sẽ có thể thật sự đánh giá đúng giá trị của những truyền thống tôn giáo khác.

Từ một viễn kiến rộng rãi hơn, có những nền tảng mạnh mẽ rõ ràng cho việc đánh giá đúng đa nguyên trong tôn giáo và văn hóa, đặc biệt trong tôn giáo. Một sự thật trong loài người là có nhiều loạithiên hướng tinh thần, những sự hấp dẫn, các nhu cầu, v.v... Thế nên, càng có nhiều tôn giáo khác nhau hiện diện, khả năng của tôn giáo gặp gỡ các nhu cầu của những con người khác nhau càng lớn hơn.

Trong lịch sử của nhân loại, đã từng có những sự kiện rất thảm thương đã xảy ra do bởitôn giáo. Ngay cả ngày nay, chúng ta thấyrằng những vụ xung đột sinh khởi nhân danh tôn giáo và cộng đồng loài người càng bị phân chia sâu xa hơn. Nếu chúng ta đáp ứng được thử thách này, thếthì tôi bảo đảm rằng chúng ta sẽ thấy rằng có đầy đủ những nền tảng mà trên ấychúng ta có thể xây dựng sự hòa hiệp giữa những tôn giáo khác nhau và phát triểnmột sự tôn trọng chân thành đối với nhau.

Mộtthử thách quan trọng khác đối diện với loài người bây giờ là vấn đề bảo vệ môitrường. Trong thực tế, nhiều nhà môi trường nổi tiếng đã tuyên bố mong ước của họ được thấy những sáng kiến năng động từ những truyền thống tôn giáo khác nhau và đặc biệt là bởi những lĩnh tụ của cáctôn giáo. Tôi nghĩ đây là một ước vọng rất có giá trị. Một cách cá nhân, tôi cảm thấy rằng nhiều vấn nạn môi trường thật sự xuất phát từnhững khát vọng vô độ không thể ngăn cản của chúng ta, thiếu sự toại nguyện, vàtham lam. Chính trong giáo huấn tín ngưỡng,chúng ta tìm thấy những chỉ dẫn phong phú có thể cho chúng ta khả năng kiểmsoát sự thèm muốn và tham lam của chúng ta và chuyển hóa hữu hiệu thái độ và hạnh kiểm của chúng ta. Do vậy, tôi nghĩ cáctruyền thống tôn giáo không chỉ có năng lực mà cũng có trách nhiệm để thực hiện một sự đóng góp trong chiểu hướng này.

Mộtvấn đề khác mà tôi xem là rất quan trọng, và đấy là một trách nhiệm mà các truyềnthống tôn giáo phải tự lãnh lấy, là đưa ra một mặt trận thống nhất chống lạichiến tranh và xung đột. Tôi biết rằngtrong lịch sử loài người đã từng có một ít trường hợp, qua chiến tranh, tự dochiến thắng và những mục tiêu nào đấy đã được đạt đến. Nhưng cá nhân tôi tin rằng chiến tranh khôngbao giờ đưa đến một giải pháp tối hậu cho một vấn đề. Thế nên, tôi nghĩ điều quan trọng cho tất cả mọi truyền thống tôn giáo hãy nhất tề đứng lên và bày tỏ ý kiến đối kháng của họ đến chính ý tưởng về chiến tranh. Nhưngviệc bày tỏ ý kiến đối kháng chiến tranh mà thôi thì chưa đủ. Chúng ta phải làm việc gì đó để đem đến việcchấm dứt chiến tranh và xung đột, và một trong những vấn đề ấy là chúng ta phảinghĩ một cách nghiêm túc về vấn đề giải trừ quân bị. Tôi biết rằng nhân tố động cơ tạo ra nhu cầucho vũ khí là cảm xúc con người - thùoán và sân hận. Nhưng không có cách nàomà chúng ta có thể hoàn toàn loại trừ sân hận và thù oán khỏi tâm thức của loàingười. Chúng ta có thể giảm thiểu sứccông phá của chúng một cách rõ rệt và làm dịu chúng đi, nhưng không thể loại trừchúng một cách hoàn toàn. Điều ấy cónghĩa là chúng ta phải thực hiện những nỗ lực để đạt đến sự giải trử vũ khí.

Một thử thách khác mà chúng ta đối diện là vấn đề dân số. Tôi biết rằng từ quan điểm của tất cả mọitruyền thống tôn giáo, đời sống, sự sống của con người nói riêng là quan trọngmột cách đặc biệt. Theo nhận thức củaloài người cá thể, càng nhiều người càng tốt, bởi vì sau đó chúng ta có cơ hộicho nhiều đời sống con người được hình thành.Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn vào vấn đề này từ viễn tượng toàn cầu, thếthì tôi nghĩ rằng có một nhu cầu rõ ràng cho tất cả mọi truyền thống tôn giáo đặtvấn đề dân số một suy tư vô cùng nghiêm trọng, bởi vì tài nguyên thế giới thìgiới hạn. Chỉ có một mức độ nào đấy màtài nguyên thế giới có thể cung ứng cho nhân loại trên hành tinh này.

Nguyêntác: The Challenge for Humanity: AnInterfaith Addresstrích từ quyển TheArt of Living

Ẩn Tâm Lộ ngày23/09/2011

Bài liên hệ

1- Sống Vui, SốngKhỏe và Toại Nguyện

2- Đối Diện vớiCái Chết và Chết An Lành

3- Đối Phó vớiSân Hận và Cảm Xúc

4-Cho và Nhận

5-Tương Thuộc,Tương Liên, và Bản Chất của Thực Tại

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2010(Xem: 7368)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
27/10/2010(Xem: 9150)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
19/10/2010(Xem: 3781)
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát
18/10/2010(Xem: 5511)
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tùy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
16/10/2010(Xem: 4668)
Sự chia rẽ giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa trầm trọng ở mức độ nào? Sao bên nào cũng tự nhận là đi đúng đường và cao siêu hơn? Và tại sao Phật từng nói trong Kinh Pháp Hoa, Đại Thừa là hạt giống rắn chắc, khác với Tiểu Thừa là hàng thấp thỏi, trình độ kém, như vậy Phật đã xếp hạng giữa hai phái, vậy mà Tiểu Thừa vẫn tự nhận là Nguyên Thuỷ đúng lời Phật dạy
12/10/2010(Xem: 4273)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
12/10/2010(Xem: 6627)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Động đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
12/10/2010(Xem: 7615)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
12/10/2010(Xem: 6911)
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách.
10/10/2010(Xem: 7187)
Quyển sách này trích dịch từ “Lai Quả Thiền Sư Ngữ Lục”. Ngài Lai Quả 24 tuổi xuất gia, 28 tuổi kiến tánh, tịch năm 1953 thọ 73 tuổi. Ngài trụ trì chùa Cao Mân hơn 30 năm, chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, phàm có gì chướng ngại sự tham thiền, ngài đều bãi bỏ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567