Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tội Lỗi - Hình Phạt - Sám Hối

13/09/201219:16(Xem: 4914)
Tội Lỗi - Hình Phạt - Sám Hối
TỘI LỖI - HÌNH PHẠT - SÁM HỐI
(Cư sĩ Tuệ Đăng)

Có câu chuyện Thiền trích dịch từ cuốn “Collection of Stone and Sand”, xuất hiện vào thế kỷ 13, do thiền sư Muju viết bằng Nhật ngữ, tên là Shasekishu, dịch giả Paul Reps dịch sang Anh Ngữ, nội dung như sau:

“Trong cuộc hành trình tới tỉnh Edo, Zenkai, con trai của một hiệp sĩ Nhật, trở thành người hầu cận của một quan chức cao cấp tại đó. Zenkai ngoại tình với vợ của quan chức này và bị phát hiện. Để tự vệ, hắn ta giết vị quan rồi chạy trốn cùng với người vợ.

Sau này hai người trở thành những tên ăn trộm. Nhưng người đàn bà quá tham lam khiến cho Zenkai càng ngày càng khinh ghét đến phát ghê tởm. Cuối cùng không còn chịu nổi, Zenkai bỏ người đàn bà lại mà đi tới nơi xa, tận tỉnh Buzen, trở thành một người hành khất lang thang.

Để chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ, Zenkai quyết tâm hoàn thành một vài việc thiện trong cuộc đời. Biết rằng có một con đường nguy hiểm cheo leo trên vách đá từng là nguyên nhân gây ra tai nạn chết và bị thương cho nhiều người, Zenkai quyết tâm mở một con đường hầm xuyên qua núi tại nơi đó.

Ban ngày thì đi xin thực phẩm, ban đêm Zenkai mài miệt đào con đường hầm. Trải qua ba chục năm, con đường hầm dài được 2.280 feet, cao 20 feet và rộng 30 feet.

Hai năm trước khi hoàn tất công trình, người con trai của viên quan mà Zenkai giết khi xưa, nay đã trở thành một kiếm sĩ lão luyện, tìm ra được Zenkai và tới để trả thù nhà. Biết mục đích của khách lạ, Zenkai nói:

- Tôi sẽ sẵn sàng trao mạng sống của tôi cho anh. Chỉ xin hãy để cho tôi làm xong công việc này. Ngay hôm con đường hoàn thành, anh có thể giết tôi.

Người con trai đồng ý đợi tới ngày đó. Nhiều tháng trôi qua, Zenkai cứ miệt mài làm việc. Người con trai càng ngày càng thêm chán nản vì cái cảnh ăn không ngồi rồi, nên bắt đầu phụ giúp công việc đào hầm. Sau khi đã giúp Zenkai trên một năm, anh ta cảm thấy ngưỡng mộ ý chí mãnh liệt và nghị lực của Zenkai.

Cuối cùng thì con đường hầm cũng đào xong và mọi người có thể sử dụng nó để đi lại an toàn. Bây giờ Zenkai mới nói:

- Công việc của tôi đã hoàn tất. Hãy chặt đầu tôi đi.

Với đôi mắt đẫm lệ, người đàn ông trẻ nghẹn ngào:

- Làm sao con có thể cắt đầu vị thầy của chính con được?”


Như quý vị đã thấy, chủ đề chính của câu chuyên Thiền này là vấn đềtội lỗi, hình phạt và sám hối.

Đạo Phật không quan niệm rằng có quỷ thần hai vai hay một dạng thức thần thánh nào đó từ bên ngoài ghi nhận các việc thiện ác của mỗi người ngõ hầu sau khi chết đương sự sẽ phải tới đâu đó để được phán xét coi sẽ phải chịu hình phạt đầy đọa tại một nơi ghê rợn nào đó, hoặc được hưởng gì theo lệnh ban xuống từ các đấng, các bậc gì đó chăng.

Mà nhà Phật cho rằng mỗi hành vi tạo tác trong cuộc đời con người ta đều để lại dấu ấn nơi kho chứa của chính mình, đó là Tàng Thức, là một trong tám Thức, theo tâm lý học của đạo Phật. Những dấu ấn đó sẽ trở thành chủng tử, tức là hạt giống, nảy nở thành thiện quả hoặc ác báo trong đời sống tương lai, có thể là tương lai ngay trong cuộc đời này, hoặc trong những kiếp sau, chi phối bởi luật nhân quả.

Như thế, theo quan điểm của nhà Phật, mỗi cá nhân sẽ nhận sự báo ứng tùy theo hành vi thiện ác của mình trong cuộc đời, nếu gây tội ác thì sẽ nhận lãnh quả báo tương xứng với tội ác mình đã gây ra trong quá khứ, nhưng không do một thế lực nào bên ngoài giáng xuống mà do chính sức bật của quy luật nhân quả mà thôi.

Đến đây, chúng ta cần lưu tâm tới một điều đặc biệt tối quan trọng, đó là vấn đề Tâm của nhà Phật.

Đức Phật là bậc Giác Ngộ. Ngài giác ngộ cái gì? Xin thưa rằng Ngài giác ngộ lại được chính Bản Tâm, điều mà chư Tổ Thiền Tông gọi là Kiến Tánh.

Từ sự giác ngộ, Ngài trực nhận rằng chúng ta trôi lăn vào màng lưới sinh tử này là do một niệm mê từ biển Tâm dấy lên, gọi là khởi niệm huyễn vọng, rồi từ đó tạo Nghiệp, nhận quả báo, dòng đời trôi lăn miên viễn.

Nhưng Chân Tâm vốn là viên mãn, hòan hảo, thanh tịnh, cũng như hoa sen dù mọc trong bùn mà không bị nhuốm mùi bùn. Một niệm Giác Ngộ thì mê vọng tan rã, cũng như người ngủ mê chợt tỉnh, như căn nhà tối hàng ngàn năm, thắp lên ngọn đèn là bóng tối tan biến.

Về điều này, đức Phật đã dạy rõ nơi kinh Viên Giác, hòa thượng Thích Duy Lực dịch như sau:

Huyễn từ bản giác sanh,
Huyễn diệt, giác viên mãn.
Bản giác vốn chẳng động,
Như tất cả Bồ Tát,
Và mạt pháp chúng sanh.
Thường nên xa lìa huyễn,
Các huyễn thảy đều lìa,
Như dùi cây lấy lửa,
Cây hết, lửa cũng diệt.

“Cây hết lửa cũng diệt” chính là ý của câu đức Phật nói khi ngài chứng ngộ, được ghi lại trong kinh Trung A Hàm là:

"... Tâm siêu thoát của ta không thể lay chuyển. Đây là kiếp sống cuối cùng của ta. Từ đây ta sẽ không còn trở thành, không còn tái sanh...”


Trong các cuộc đàm luận Phật pháp, có một câu thường hay được nhắc đến, coi như danh ngôn, đó là “Kẻ cướp buông dao thành Phật”. Vì câu nói quá ngắn gọn, khiến cho một số người hiểu lầm. “Buông dao” trong câu này có hàm ý là buông cái tâm sát nhân, tâm bất thiện, chứ không phải chỉ buông con dao bằng vật chất trong khi tâm còn giữ nguyên những ý niệm xấu ác. Nếu chỉ buông con dao mà tâm ác vẫn còn thì lại có thể cầm kiếm, cầm súng vậy.

Tại các thời kinh của nhà Phật, đều có tụng lên bài kệ:

Tội từ tâm khởi, đem tâm Sám
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh, thảy đều Không
Ấy mới thật là Chân Sám Hối.


Tội nói ở đây tức là nghiệp báo.

Như bài kinh Viên Giác trên, chúng ta thấy tất cả pháp giới, tội phước, nghiệp báo, đều chỉ là huyễn, đều“Huyễn từ bản giác sanh”,vốn chỉ do nhân duyên giả hợp mà huyễn hiện thành ra như là có. Nghiệp sẽ là nhân chi phối dòng đời, lặn hụp trong biển sinh tử, nghiệp thiện thì hưởng quả thiện, nghiệp ác thì lãnh quả báo ác, như bóng đi theo hình, không thoát được cái vòng lẩn quẩn.

Nếu biết tỉnh ngộ mà theo các đường lối tu hành để chuyển nghiệp, từ xấu chuyển qua tốt, rồi từ tốt chuyển qua thanh tịnh, thì sẽ tiêu dung được nghiệp, ra khỏi dòng sinh tử triền miên.

Sám Hối là một trong những phương pháp tu để chuyển nghiệp. Sám Hối ở đây là “Tâm Sám”,tức là chuyển Ý nghiệp từ những tư tưởng xấu ác thành những tư tưởng lành thiện, rồi tới Thân nghiệp là thực hiện những việc lành thiện đó.

Kẻ sát nhân trong câu chuyện Thiền trên đã thực hiện trọn vẹn chu kỳ chuyển nghiệp. Trước hết là trong thâm tâm, ông ta Sám Hối chuyện ác đã gây ra trong quá khứ, và muốn chuộc tội bằng cách làm việc thiện.

Suốt ba chục năm trường, ông ta cần cù chỉ làm một việc là đào con đường hầm để giúp mọi người thoát tai nạn, cho đến khi con của nạn nhân tới trả thù, đòi chém đầu, ông ta cũng sẵn sàng chết cho anh này tròn bổn phận làm con, muốn báo thù cha, chỉ xin lưu mạng sống một gian ngắn đủ để hoàn tất con đường. Khi con đường đã xong, ông ta bèn nộp mạng.

Như vậy, kẻ sát nhân đã buông dao, đồng thời buông luôn tâm ác, đó là trường hợp “Buông dao đồ tể thành Phật”.

Sau một thời gian chứng kiến hành trình chuyển hoá của kẻ sát nhân, trước mắt người con, hình bóng kẻ thù tàn ác đã biến mất, mà chỉ còn lại tấm gương sáng của một bậc thày miệt mài trên con đường bồ tát hạnh, quên mình, hy sinh bản thân vì lợi ích của chúng sinh, cứu chúng sinh khỏi bị tai nạn hiểm nguy trên con đường núi hiểm trở, mà thôi.

Nơi phẩm Bát Nhã, kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng đã dạy:

...”... Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật."

Tâm chúng sinh thì vô thường, không cố định. Con đường giải thoát của nhà Phật rộng mở thênh thang, bất cứ ai phạm tội mà biết hối cải, chuyển hóa Tâm ác trở thành lành thiện, thì nghiệp dữ cũng theo đó mà hoán chuyển, khi“tâm được tịnh rồi tội liền tiêu”.

Bản hoài của đức Đại Giác Bổn Sư Thế Tôn là dạy chúng sinh các pháp môn tu để tới được đích cuối cùng là:

“Tội tiêu Tâm tịnh thảy đều Không”.

Không ở đây là Tánh Không, là Bản Thể Chân Tâm Giác Tánh, là Niết Bàn, là vĩnh viễn giải thoát, là Tận Diệt tất cả Khổ vậy.

Cư sĩ Tuệ Đăng


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/10/2010(Xem: 3600)
1. Do đâu mà có Thiền Minh Sát? Thiền Minh Sát là một loại thiền căn bản và chính yếu của Phật Giáo Nguyên Thủy. 2. Vipassana nghĩa là gì? Chữ "Vipassana" được chia làm hai phần "Vi" có nghĩa là "bằng nhiều cách" và "Passana" có nghĩa là "nhìn thấy". Vậy "Vipassana" có nghĩa là thấy được bằng nhiều cách khác nhau. (Minh sát).
08/10/2010(Xem: 3600)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổ và mọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc. Khắp nơi trên thế giới nhân loại đang tìm đủ cách để ngăn ngừa hoặc làm vơi đi nỗi đau khổ và tạo an vui hạnh phúc. Tuy nhiên mục đích chính yếu của họ chỉ nhằm tạo hạnh phúc thể chất bằng phương tiện vật chất. Thật ra, hạnh phúc hay không đều do ở tâm của chúng ta. Vậy mà rất ít người nghĩ đến vấn đề phát triển tinh thần. Những người muốn rèn luyện tinh thần lại càng hiếm hoi hơn nữa.
06/10/2010(Xem: 3356)
Có nhiều cách thức để chúng ta tiếp cận với kinh điển. Chúng ta đọc kinh như một tác phẩm văn học để tìm ra những biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng, hay đọc kinh để hiểu những phạm trù triết học, những tư tưởng ẩn áo mà kinh hàm chứa, v.v… Cách thức nào không quan trọng. Song, một điều mà người học Phật cần phải lưu ý là cái chân lý thường nghiệm thì phi ngôn thuyết; nó có được do sự kinh nghiệm của mỗi ngư
28/09/2010(Xem: 6464)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
28/09/2010(Xem: 6436)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
21/09/2010(Xem: 7158)
Đây là bản dịch mới của bài KinhĀnāpānasatisuttamthuộc Tạng Kinh, Trung Bộ, tập III, bài 118. Căn cứ theovăn tự, bản dịch này trình bày một số điểm xét ra có phần khác biệt so với cácbản dịch trước đây. Những điểm này chủ yếu được trình bày ở phần cước chú.
16/09/2010(Xem: 6286)
Khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh – năm nay đã 86 tuổi – được giới thiệu trước công chúng tại quảng trường Copley vào chiều Chủ nhật, Thầy bắt đầu bằng hành động ngồi yên và không nói gì trong suốt 25 phút.
16/09/2010(Xem: 9260)
Chúng ta tiếp nhận huyết thống, gốc rễ từ Tổ tiên, nhưng nếu không có Ông Bà, Cha Mẹ sinh đẻ, nuôi nấng thì không có chúng ta hôm nay, nên phận làm con cần phải biết về danh tánh, gia phả, giòng họ và nơi sinh cơ lập nghiệp của Tổ tiên mình. Đối với người Phật Tử cũng vậy. Đức Phật thị hiện tại thế gian để khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật, nhưng nếu không có Thầy, Tổ truyền đăng tục diệm, truyền giới, truyền pháp thì mạng mạch Phật pháp không thể tồn tại cho đến hôm nay.
04/09/2010(Xem: 5406)
Hai truyền thống của Nam và Bắc truyền đều thừa nhận rằng, vào thời hoàng kim Phật giáo, mười ba năm đầu trong Tăng đoàn không có giới luật, nhưng sau đó sự lớn mạnh của Tăng đoàn, sự khác biệt về nhận thức nên đức Phật đã chế ra giới luật để “phòng hộ các căn” nhằm giúp cho mỗi thành viên trong Tăng đoàn được thanh tịnh và giả thoát. Thiết nghĩ, Bát kỉnh pháp cũng không ngoài những thiện ý đó!
28/08/2010(Xem: 4672)
Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa. Khi hoàng-tử bước vào sân rồng thì đã thấy phụ hoàng là vua Hương Chí, hai hoàng huynh là hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La và Công-Đức-Đa-La đang cung kính tiếp chuyện một vị tăng. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La vội quỳ xuống đảnh lễ. Vua Hương Chí nói: - Đây là Tổ Bát-Nhã-Đa-La mà cha cung thỉnh tới để được cúng dường ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567