Trong giờ tập “Chuyển Tâm Phiến.” (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Ở Little Saigon hiện nay có nhiều lớp dạy thiền, không ngoài mục đích giúp mọi người thoát khỏi những đau khổ, trong đó bệnh là một trong những khổ đau của con người, cả thân và tâm.
Đại Đức Thích Phổ Đức, phó trụ trì thiền viện Chánh Tâm, Anaheim, giải thích: “Mục đích của thiền tập là hướng dẫn cho mọi người nói chung và Phật tử nói riêng, hiểu biết đúng về thân, về tâm và nhìn đúng về sự việc bên ngoài. Thiền là một phương pháp giúp biết sống thật, từ xưa giờ con người sống không thật cho chính mình, khi tập thiền mới thấy là cái gì thật, cái gì không thật.”
Một ngày thiền tập
Tại thiền viện Chánh Tâm, bắt đầu của thời khóa thiền tập mỗi Chủ Nhật là sám hối, sau đó là ngồi thiền, nghe pháp, hỏi đáp và chia sẻ với nhau những kinh nghiệm thiền tập.
Theo vị phó trụ trì, thiền viện thành lập 10 năm nay, là một chi nhánh của thiền viện Đại Đăng, theo thiền phái Trúc Lâm, do Hòa Thượng Thích Thanh Từ truyền thừa từ dòng thiền Việt Nam của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
“Cuộc sống như dòng nước tuôn chảy, muốn lội ngược lại cũng không được, đó là chuyện vô lý, nhưng nếu là người hiểu biết, sẽ dẫn dòng nước chảy vào những ngõ ngách có lợi hơn. Người nông dân, thay vì ngăn chận, bằng cách be bờ đắp đập, dẫn nguồn nước đi vào đồng ruộng, sẽ được lợi lạc hơn,” đại đức giảng giải.
Bằng một thí dụ nữa, đại đức nói: “Như con rối trong một vở diễn, thể hiện những động tác múa may quay cuồng trên sân khấu, mọi người vỗ tay khen con rối hay, nhưng không ai hiểu rằng con rối chỉ là một dụng cụ, tự nó không làm gì được hết, mà chính người điều khiển nó từ bên trong, diễn cho người xem mọi sự vui buồn thương ghét mới là chính.”
“Xưa nay con người thường lấy cái sự biểu hiện bên ngoài mà chạy theo, nắm bắt nó, để thỏa mãn, hoặc không chấp nhận, từ đó tạo ra bất an. Nguồn gốc của sự bất an đó do cái nhìn sai lầm của chính mình tạo ra, để rồi đeo đuổi theo. Từ sai lầm này sinh ra những sai lầm khác, nên sinh ra những buồn vui khổ não. Do vậy, thiền sẽ giúp không xa rời cuộc sống,” đại đức nói thêm. Giờ tọa thiền tại thiền viện Chánh Tâm. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Phật tử Tuệ Giám chia sẻ: “Khi tu tập thiền tôi thấy mình ngày càng nhiều lỗi hơn, phải tu sửa thêm nhiều hơn nữa. Hơn nữa, qua thời gian thiền tập, sự phiền não càng bị bào mòn dần đi, cái ngã của mình càng bớt đi.”
Còn Phật tử Tuệ Thông nhận xét: “Có sự tiến triển trong thiền tập, tham sân si trong cuôc sống thấy bớt nhiều, sự suy nghĩ và cách giải quyết vấn đề có khác hơn lúc trước, biết rõ hơn tánh thật của sự việc.”
Thiền chữa bệnh cho thân
Mang một sắc thái khác, tại Đạo Đường Thể Dục Dưỡng Sinh Hồng Gia Khí Công Tâm Pháp, Garden Grove, phần đông là các vị cao niên, với ít nhất là một bệnh trong người. Buổi tập thật an nhiên tự tại bằng những động tác võ thuật thật nhẹ nhàng nhưng tràn đầy khí lực.
Sư huynh Võ Thiện Hiếu, phụ trách đạo đường, cho biết phương pháp thở khí công được sư phụ Lý Hồng Thái phối hợp với Như Lai Thiền truyền thụ.
“Thở vào biết đang thở vào, thở ra biết đang thở ra. Buông xả thân tâm chú ý theo dõi hơi thở, hít thật sâu đầy bụng, phình bụng lên, nén khí xuống vùng bọng đái, nín thở một giây, quán hơi thở xuống xương cùng đi theo sống lưng lên dần tới đỉnh đầu, cong lưỡi lên nướu trong hàm trên, ngậm miệng, từ từ thở ra nhẹ nhàng bằng mũi,” ông hướng dẫn.
Theo ông. đây là cách “quán khí,” một thuật ngữ của thiền để chỉ phương pháp buông xả, đầu óc cần trống rỗng, chỉ theo dõi cái biết của hơi thở bằng sự tưởng tượng (quán tưởng). Tập lâu dần sẽ thành phản xạ tự nhiên, đi đứng nằm ngồi đều làm được, thả lỏng toàn thân, quán sự phồng xẹp của bụng, hít vào thở ra cảm nhận thân tâm buông xã, cũng là chiêu thức để làm dịu cơn phiền não lo âu, tránh được tâm bệnh.
Ông Lý Bình cho biết: “Trước khi tập, vai phải tôi bị đau nhức không đưa cánh tay lên được. Sau thời gian tập hiện nay sức khỏe rất tốt, đi đứng gần như bình thường.” Để chứng minh, ông tập gần 1 giờ vẫn thấy khỏe. Không ai biết được ông mắc bệnh Parkinson hơn 10 năm mà khỏe như thế!
Bà Trần Thị Huệ, từ tiểu bang Minnesota qua, nói: “Tôi bị đau đầu gối, thấp khớp đi không nổi, cao máu, tiểu đường, lại bị té rất nặng. Sau khi tập hai năm, nhận thấy các bệnh trên giảm nhẹ hẳn, đi đứng mạnh dạn, rất yêu đời, không hổ danh với biệt hiệu ‘người đẹp lão nhất’ mà các bạn cùng tập đặt cho!”
Còn tại phòng tập thiền chuyển tâm công, yoga, chuyển tâm đao tự trị bệnh của võ sư Chu Tất Tiến lại chú trọng nhiều hơn về thiền như một cách tự chữa bệnh, mà đa số người tập ở đây là những vị cao niên.
Võ sư Chu Tất Tiến cho biết “Chuyển Tâm Công” có nghĩa là tự tâm của mình, phải thay đổi quan niệm của mình, phải hòa hợp với cuộc đời, với tha nhân, với vũ trụ, thiên nhiên, con người mới thật sự khỏe mạnh được. Trọng tâm chính là trong khi tập, dùng phương pháp hít thở thật sâu trong phương pháp thiền.
Sinh hoạt tại đây, ông Nguyễn Viết Nghĩa cho biết bị bệnh Parkinson hơn ba năm, sau khi theo lớp tập, nay thấy bệnh không nặng thêm nữa, có vẻ như dừng lại, ông mừng lắm và cho biết sẽ siêng năng tập luyện nhiều hơn nữa.
Còn ông Trần Văn Ngôi, tập hơn ba năm cho biết: “Tôi bị bệnh gout mấy mươi năm rồi, đem theo từ Việt Nam qua đây, hai đầu gối đau nhức lắm, không ngồi xổm được. Sau khi theo tập ba tháng thì đầu gối mềm đi. Ba năm nay có thể ngồi xuống đứng lên nhẹ nhàng hơn, nhất là không thấy bệnh trở lại.” Ông cho biết vừa tập vừa uống thuốc vẫn tốt hơn, nếu bỏ tập thì bị đau lại, ông rất sợ.
Bà Nguyễn Ngọc Dung, lớp trưởng, cho biết bà có bệnh “ba cao,” và chồng bà bị gout, nhưng “Sau ba năm tập, giờ thấy bình thường, thiệt là mừng,” bà nói.
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tùy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
Sự chia rẽ giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa trầm trọng ở mức độ nào? Sao bên nào cũng tự nhận là đi đúng đường và cao siêu hơn? Và tại sao Phật từng nói trong Kinh Pháp Hoa, Đại Thừa là hạt giống rắn chắc, khác với Tiểu Thừa là hàng thấp thỏi, trình độ kém, như vậy Phật đã xếp hạng giữa hai phái, vậy mà Tiểu Thừa vẫn tự nhận là Nguyên Thuỷ đúng lời Phật dạy
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Động đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.