Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền với vũ điệu Chăm.

22/04/201319:41(Xem: 4848)
Thiền với vũ điệu Chăm.

THIỀN VỚI VŨ ĐẠO CHĂM

Thông Thanh Khánh

---o0o---

Nếu có dịp tiếp xúc với văn hoá Chăm thì bất cứ góc độ nào, ta điều bắt gặp được nét nghệ thuật truyền thống đặc sắc của vũ đạo. Có thể nó, nghệ thuật truyền thống được thể hiện một cách đầy đủ nhưng tình cảm cũng như quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng vốn chịu nhiều chi phối của nền văn hoá Ấn Độ. Vũ đạo ở đây có một sức hút và chi phối một cách tích cực trong cuộc sống tinh thần, một sức sống mãnh liệt của cộng đồng vốn đã được ăn sâu vào tâm hồn của mỗi con người ngay khi còn tấm bé. Đề cập đến Vũ đạo, các sách, ở các thế kỷIV như An Nam Chi Lược, thế kỷ XV như Đại Việt Sử Ký, thế kỷ XIX như Giám Khâm Định Việc Sử Thông Giám Cương Mục, đã có những ghi chép hết sức quan trọng. Vũ đạo ở đây còn nâng lên thành một nghệ thuật hàng đầu trong cuộc sống tinh thần, tôn giáo – một khả năng truyền tải tín hiệu của cái đẹp đến khắp tất cả mọi người, làm say đắm biết bao tâm hồn yêu mến nghệ thuật. Lại nữa,ta hãy để tâm hồn thật lắng trong mỗi lần thưởng thức các động tác trong Vũ đạo, ta sẽ bắt gặp một hơi thở thiền đang được các nghệ sĩ Vũ đạo lay chuyển từ đôi bàn tay tài hoa biến hoá thành những động tác đặc biệt. Thật vậy, nếu như trà đạo là sự giản dị mang tính sơ khai, nghệ thuật bắn cung, đấu kiếm của võ sĩ đạo đòi hỏi tính nguyên tắc, tập trung cao trong mõi động tác, được phát huy phổ biến ở Nhật Bản, thì với Vũ đạo Chăm, những động tác luân chuyển, các tư thế trong các bài vũ là mức công án tối càn thiết, giúp cho những người đâng thưởng thức bước vào chiều sâu của sự suy tưởng. Vũ đạo và âm nhạc là cặp song sinh không thể tách rời nhau, âm nhạc đưa tâm hồn tha nhân bước vào sự tìm kiếm thực thụ… Tiếng kèn Saranai hướng dẫn, trống ghi – năng thúc gijuc, dù bận bịu lo toan đến đâu đi nữa, mỗi chúng ta đều say mê nhập cuộc trong sự tĩnh lặng !

Ta hãy quan sát nghệ thuật điêu khắc tượng Vũ nữ Trà Kiệu ở giai đoạn thế kỷ XIV - XVII, và tượng Bồ Tát (Avalokitesvara) ở thế kỷ XV để thấy rõ hơn điều đó. Với quần thể tượng Vũ nữ Trà Kiệu được các nghệ sĩ Chăm thổi vào những luồng tư tưởng, mà âm hưởng của nóa vẫn là sự tìm ẩn của dấu ấn thiền. Chẳng hạn với tư thế đứng ở đay, dáng ddwsnfgs của vũ nữ thgwowfng là dạng nghiêng, chân tạo thành hình lá nhĩ, bàn chân trái đưa cao, các ngón chân chụm lại hướng về phía trước tạo thành một góc độ cân đối hoàn chỉnh. Quần thể tượng Bồ Tát ở đây, tiêu biểu là tượng Bồ Tát được tìm thấy ở Phan Thiết, hiện được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh mang ký hiệu BTLS.591. Tượng được kết cấu theo thế đứng nghiêng, chân phải đưa về phía trước, chân trái đứng thế thẳng, nghiêng mình theo cánh tay trái, lòng bàn tay cầm vòng, tay phải từ vai đến khuỷu tay buông thẳng, từ khuỷu tay đến cổ tay đưa lên, lòng bàn tay cầm hoa sen. Với khuôn mặt biểu thị là Bồ Tát đang chìm đắm trong suy tưởng. Với tư thế này vẫn không thoát ra được phong cách tượng vũ nữ Trà Kiệu. Tới đây, ta có thể cho thất rằng âm hưởng của nghệ thuật vũ điệu đã có một sức hút mãnh liệt và dường như thấm sâu vào trong tư tưởng của nghệ sĩ Chămpa lúc đương thời, tư tưởng Phật giáo Đại thừa được xem như là một chất xúc tác mạnh mẽ, góp phần vào sự kiến tạo nên một nghệ thuật vũ đạo đặc sắc, qua đó chúng ta còn tìm thấy nét phảng phất của một tinh thần Duy ma độc đáo đang tìm ẩn. Vũ đạo Campuchia của người Khmer ngược lại, mang sắc thái sâu đậm của nghệ thuật Riêm Kê, một dị bản của trường ca Ramayana thiên về sự mô tả tính cách nhân vật, cầu kỳ trong các động tác vũ và đòi hỏi sự ppối cảnh cao. Ngược lại với Vũ đạo Chăm, một nét tương đồng gần như Trà đạo là tuy xuất phát từ tính cách cộng đồng qua âm hưởng nghệ thuật trường ca Ramayana của Ấn Độ, nghệ sĩ Chăm qua tư tưởng phật giáo Đ ại thừa, đã loại bỏ hoàn toàn những vướng chấp mà ta thường thấy hầu như ở các nghệ thuật vũ đạo Đông Nam Á. Chỉ bằng các động tác bình thường nhất của người Vũ đạo với một không gian đơn sơ nhất, thậm chí như đố chỉ là một không gian trống rỗng nghèo nàn, mà Vũ đạo Chăm có thể lay chuyển tâm hồn tha nhân tìm đến một sự thăng hoa thực thụ trong bản thể “ chơn như” của mỗi hành giả đang bước theo con đường thiền định.

---o0o--- Trình bày: Nhị Tường
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2014(Xem: 7617)
Đạo Tràng Từ Nghiêm tại Krefeld quy tụ gần 30 Nam Nữ Phật Tử đã về Tu Viện Viên Đức vùng Ravensburg(Đức Quốc) để tu học Thiền Vipassana qua sự hướng dẫn của Thượng Tọa Thiền Sư Walpola đến từ Tích Lan cũng như Thượng Tọa Anurudha(người Tích Lan đến từ Thụy Sĩ). Qúy Ngài dùng tiếng Anh và tiếng Đức để giảng pháp. Kinh tụng hằng ngày bằng tiếng Pali được dịch sang Việt Ngữ.
02/09/2014(Xem: 10341)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
14/08/2014(Xem: 9188)
Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) đã từ chức vào năm 2007, và chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do khi chưa làm được một năm, sau thất bại thảm hại của đảng này khi bầu cử Thượng viện. 12 tháng 9 năm 2007 : Nhiệm kỳ của ông lại bị phá hỏng vì hàng loạt cuộc từ chức của các Bộ trưởng Nội các và vụ tiết lộ về việc để mất số liệu lương hưu. Ông từ chức sau một năm tại nhiệm với lý do sức khỏe. Bảy tháng sau, Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) bị bệnh hay quên lãng và đã thử thách mình bằng cách dùng phương pháp trị liệu "Tọa thiền" ngồi thiền tại Chùa Zenshōan (臨済宗國泰寺)một ngôi chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế ở huyện Yanaka, Tokyo.
19/07/2014(Xem: 5862)
Bài “Thiền trị được bệnh, tại sao?” (4.4.2011) tôi trình bày một trong những vấn đề tổng quát là Thiền có khả năng chống lại sự thoái hóa của telomeres. Điều nầy ảnh hưởng đến tuổi thọ và bệnh tật của chúng ta. Khoa học gia tìm thấy, Thiền có khả năng cải thiện telomeres làm cho con người trẻ ra, già chậm và ngăn ngừa được nhiều bệnh tật. Tìm hiểu vai trò của telomeres đối với sự lão hóa và bệnh tật, chúng ta sẽ có một đời sống thọ hơn, khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc hơn. Bà Elizabeth Blackburn được giải Nobel về y học do ba đã tìm ra sự liên hệ giữa telomeres và tuổi thọ. Tại Đại học San Francisco, bang California, một nhóm chuyên gia do bà hướng dẫn, thí nghiệm xem phải chăng Thiền có thể chống lão hóa và tăng tuổi thọ (slow aging and lengthen life) mà truyền thống Đông phương thường nói đến. Lúc làm việc với hóa học gia Joe Gall tại Đại học Yale vào các năm 1970, bà Blackburn thường nối các đầu nhiễm sắc thể của sinh vật đơn bào mà bà đặt tên là tế bào của sinh vật sống trong
18/07/2014(Xem: 5820)
* Giác ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng can dự gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…) Cái được gọi là “thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm lợi ích cho tất cả thế gian. Nếu không thể phụng sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc mà mình đứng trong đó – nghĩa là, nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức”của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như vậy mà lại có thể làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm). (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
17/07/2014(Xem: 6834)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu. Người ta tạm định nghĩa, “ngôn ngữ chỉ là một công cụ” dùng để biểu đạt ý nghĩ, trạng thái tâm sinh lý để người khác nhận biết, thấu hiểu, cảm thông. Có nhiều dạng ngôn ngữ, ta có thể tạm chia ra làm hai, ngôn ngữ xuất phát ở bên trong (nội tính) và ngôn ngữ thể hiện ở bên ngoài (ngoại tính). Cho dù phát xuất từ đâu, một khi xử dụng nếu ta không có trí tuệ, chân thật, ái ngữ, lợi hành, lợi người, thì không khéo sự biểu đạt ấy, đôi khi lại là mầm mống, nguyên nhân của những hiểu lầm, ngộ nhận, xích mích, đáng tiếc khác.
24/05/2014(Xem: 12020)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đề mà giác ngộ thành Phật. Cho nên, mục đích tối hậu của thiền Phật Giáo là thành Phật, là giác ngộ chân tánh. Vì vậy, Thiền Tông chỉ nói đến “kiến tánh thành Phật,” không nói gì khác.
21/05/2014(Xem: 6604)
Mục tiêu của thiền dĩ nhiên là để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng đó không phải là nơi an trụ cuối cùng. Thiền bao gồm Phật giáo và là sự thực hành Phật đạo. Thế thì Phật giáo là gì? Và Phật đạo là gì ? Nhiều người cho rằng Phật giáo chỉ là những chuyện về thiên đường, địa ngục, và làm sao để tẩn liệm một xác chết, hoặc có thể là một ông già nào đó nói về sự xả ly.
21/05/2014(Xem: 6707)
Nhiều người gặp tôi trong bệnh viện thường hỏi tôi Thiền là gì. Tôi giải thích với họ Thiền chú ý về một đối tượng đặc biệt nào đó nhằm một mục tiêu đặc biệt. Những người thực tập tâm linh trong các truyền thống khác nhau trong nhiều quốc gia đã sánh tạo ra nhiều cách thực hành thiền khác trong nhiều thế kỷ. Có thể nói có hàng trăm cách thực hành thiền khác nhau và mục đích của Thiền là ‘thức tỉnh’, giúp chúng ta chuyển hóa và thay đổi, nhờ hiểu biết, lòng từ bi và đạt được cái nhìn đúng (chính kiến).
21/05/2014(Xem: 5891)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa. Nó giúp chúng ta lập lại thăng bằng của đời sống trong gia đình, bạn bè và nhất là duy trì và tăng cường sức khỏe. (Viết theo Barry Boyce và những người Biên Tập của Shambhala Sun)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567