Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

CHƯƠNG III

26/04/201318:29(Xem: 4796)
CHƯƠNG III

PHÁP MÔN
Trì Danh Niệm Phật, Vãng Sanh Cực Lạc

Tác giả:Huỳnh Lão cư sĩ

Hải Huyền Viên Giáodịch

PL. 2545

---o0o---

CHƯƠNG III

(1)

CHUYÊN THUẬT

PHÁP CẦN YẾU CỦA HÀNH TRÌ

TU HÀNH CẦN BIẾT

Pháp môn niệm Phật, chung nhiếp năm giáo, khắp trùm ba căn, là một thời giáo hóa của Như lai rất rộng rất lớn, là pháp lớn rất đơn giản dễ dàng. Ngàn kinh tán tụng, muôn luận tuyên dương, chư Phật mười phương khác miệng đồng âm mà khuyên bảo tin tưởng, cao tăng đại đức xưa nay nhất tâm hoằng dương, sự sâu xa của triết lý, sự rộng lớn của vấn đề nhiếp cơ, tám vạn bốn ngàn pháp môn, lấy đây làm thứ nhất. Bỡi vì pháp môn khác đó đều nhờ tự lực mà đoạn hoặc chứng chơn; pháp môn tịnh độ nầy còn gồm cả sự nhờ Phật lực rộng vượt ba cõi. Cõi Ta Bà nhơ uế trầm trọng, cần đến địa vị Thập tín mới ra khỏi vòng khổ; cảnh giới của Cực Lạc hơn hẳn cõi Ta Bà, niệm Phật vãng sanh chỉ chín phẩm cũng thảy đều “bất thối”. Từng nghe tôn giả Xá Lợi Phất phát tâm từ thời đức Phật Ðại Thông, đến nay trải qua nhiều kiếp số lượng nhiều như hạt bụi, hãy còn ở địa vị (thanh văn), có thể thấy rằng cái khó của sự tự lực tu chứng ở cõi nầy; Huống hồ hiện tại cõi nầy nhằm lúc mạt pháp, tâm tánh chúng sinh chướng dày huệ mỏng, phước nhẹ và nhơ uế nặng, muốn nhờ tự lực để tu chứng, lại là khó trên khó. Trong kinh Ðại Tập, đức Thế tôn chỉ dạy đại chúng:

Thời mạt pháp ức ức người tu hành, hãn hữu một người đắc đạo, chỉ nương nơi niệm Phật, sẽ được qua khỏi sinh tử”.

Bậc cổ đức cũng có nói rằng:

Học đạo các môn khác, giống như con kiến lên ở núi cao; niệm Phật vãng sanh như buồm đi thuận gió”.

Kinh Phật lời Tổ, khăng khăng khuyên tu tịnh độ niệm Phật, chúng ta sao được cô phụ lòng Từ bi của Phật Tổ, mà chẳng chịu đọc và nghe để sanh tín tâm, phát nguyện niệm Phật, cầu sanh về thế giới Cực Lạc ư!

Từ xưa đến nay người tu tịnh độ, pháp môn trì danh niệm Phật, được thành tựu rất nhiều, pháp môn đó rất là thẳng tắt, rất là viên đốn, có thể vượt bực, chẳng cần trải qua tu lần hồi mà có thể đốn siêu. Từ tiểu học có thể thẳng lên đại học, mà phương pháp vả lại rất đơn giản, khiến người chẳng dám tin, lại chẳng thể chẳng tin, thật là chẳng thể nghĩ bàn.

- Tu hành, hành là hành vi sinh hoạt, trong hành vi sinh hoạt khó mà tránh khỏi chẳng phát sinh sai lầm rất nhiều, sửa cho chính lại những hành vi sai lầm, gọi là tu hành. Năm trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc) đều là hư giả, chẳng phân biệt thì có thể thọ dùng, chẳng thể ái nhiễm càng chẳng được chấp trước.

- Tu hành học Phật, trước nhất cần làm cho rõ ràng, tin Phật là tin Phật, mà tu hành học Phật là tu hành học Phật!

Tin Phật, là đọc một vài quyển kinh, lạy một vài hiệu Phật, hoặc niệm một vài tiếng Phật, ngồi tỉnh tọa giữ năm giới, làm chút việc thiện, đời sau sinh lên cõi trời hoặc nhà giàu có. Cầu giàu có, cầu bình an, cầu gia hộ... Dính mắc nặng nề cuộc sống vật chất, hưởng năm dục của nhân gian, ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, tận tình ăn uống vui chơi.

Tu hành học Phật. Là cần phải nương theo lời dạy, như pháp mà tin thọ chịu làm, ngoài vấn đề trì giới (các ác chẳng làm), bố thí (các thiện vâng làm), còn cần phải tự thanh tịnh ý, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, thọ trì một phương pháp đó, tức là phương pháp đó cần phải chuyên tâm nhất ý. Ra khỏi luân hồi ba cõi, sáu đường lìa khổ được vui cho đến thành Phật! Niệm Phật, khi mạng chung vãng sanh thế giới Cực Lạc chú trọng đến cuộc sống tinh thần, ít ham muốn và biết đủ (thiểu dục tri túc), thì dẫn tới sự đầy đủ, cuộc sống đạm bạc giản dị, sẽ đầy đủ đối với các hiện tượng và tình huống, tùy nghi với những gì mình gặp mà được bình an thì “lý” sẽ được, trên không hổ thẹn với trời, dưới không dối gạt với đất, không tranh, không cầu, không vọng lấy, không vọng dùng, tự nhiên tự tại, yên ổn vui vẻ.

Nếu tu hành học Phật mà còn dính nặng nơi cuộc sống vật chất, như thế, cũng học mà không làm sao ra khỏi căn nhà danh vọng đâu!

- Tu hành học Phật, cần có CHÁNH TÍN, không được không chánh tín! Chánh tín rất là trọng yếu! Chánh tín thì vãng sanh thế giới Cực Lạc. Không chánh tín mà niệm Phật, tu phước, thì đời sau giàu có, giàu có thì sinh cuộc sống hưởng thụ, dễ làm ác, tạo các nhân xấu; người không chánh tín, đời nầy niệm Phật, đời sau hưởng phước, đời thứ ba phước hết thì rơi rớt vào ba đường ác! Ðây gọi là làm oán ba đời. Bỡi vậy chúng ta tu hành học Phật thì nên sanh tín tâm chân chánh! Không được sinh tín tâm chẳng chân chánh. “Chánh tín” và “chẳng chánh tín” khác xa nhau như trời và vực thẳm.

- Tu hành học Phật không nên mê ở nơi nhiều kiểu dáng nhiều trạng thái của hiện tượng vật chất, quên bẵng đi cội nguồn sinh mạng là ở nơi cõi tinh thần. Kinh Phật thường nói: “chúng sinh bội giác hiệp trần” (quay lưng lại với sự giác ngộ mà đi hợp với trần lào khổ lụy), chỉ ra là buông bỏ sự giải thoát mà đi tìm cầu sự phú quí vinh hoa. Cũng vậy, người tu hành nếu chẳng muốn đánh thức Phật tánh ở bên trong, cũng chỉ là ưa thích cái xấu tệ cạn cợt trọn đời của sắc - thanh - hương - vị - xúc - pháp ở bên ngoài. Cũng cần biết bỡi vì sao danh vọng, sự nghiệp, cơ đồ, hiển hách, cũng có một ngày rơi rớt lụn bại; bỡi vì sao quyến thuộc ân ái thân mật cũng có lúc phân ly.

- Siêng năng tu hành học Phật, trì danh niệm Phật, tức là có phước khí lớn (thiện căn lớn). Người phước mỏng (ít thiện căn) là “hữu thỉ vô chung” (có khởi đầu mà không có cuối cùng), chỉ hơi tin Phật. Người không thiện căn là người không tin tam bảo; càng thậm tệ hơn là không những chẳng tin rồi, mà còn hủy báng tam bảo!

- Tu hành, tức là phương pháp xem xét những sự sai lầm mà chúng ta đối với nhân sinh vũ trụ; pháp tưởng, pháp nói, pháp làm, cũng vậy, cần nên sửa đổi cho chân chính lại. Cũng bao hàm sự kiểm thảo điều chỉnh, đối kháng chính ta, khống chế dục vọng và cân bằng thân tâm.

Nhưng chúng ta cũng nên chấp nhận những nghi thức hành vi bên ngoài lại sinh ra tác dụng huân tập bên trong. Ở lúc hành trì công khóa sớm tối, chẳng phải là khiến cho tâm mình an định, chuyên chú ở nơi khóa tụng hay sao? Chúng ta lúc giữ giới nắm giữ trạng thái của tâm ta ra sao ư? Là một thứ giới điều, một loại hình thức giới luật đang làm. Kỳ thật giới luật là phạm vi ngăn ngừa cần thiết sự làm ác của chúng ta, giới luật giúp đỡ chúng ta giải thoát. Giả như người nào đó cảm thấy rằng giới luật là một vấn đề trói buộc, như thế là biểu thị người đó còn muốn làm việc xấu, đây là hình thức bên ngoài có công năng nhất định của nó, chỉ xem chúng ta dùng trạng thái của tâm thế nào để xử lý nó.

- Tu hành học Phật, xưa nay là việc của chúng xuất gia, chúng tại gia chỉ tin Phật trồng nhân thiện, được phước báo trời người, đời sau hưởng phước. Chúng tại gia cũng muốn học Phật tu hành - niệm Phật! Vãng sanh thế giới Cực Lạc, thân đó tại gia “Tâm” thì cần phải xuất gia, không thể thân tại gia mà tâm cũng tại gia (thường là nhớ nhung việc gia đình, việc trên xã hội, dục lạc hưởng thụ), nên cần phải công phu nhiều hơn chúng xuất gia một chút mới chế được tâm. Nhân vì chúng tại gia có nhà, có nhà rồi thì có thân bằng quyến thuộc - bỡi vậy mệt nhọc suy nghĩ, lại có việc đời - bỡi vậy phân tán nguồn tâm, lại có danh lợi - bỡi vậy biến động nơi ý, lại có họa hoạn - bỡi vậy lo buồn ở chí, cho nên thân và tâm không dễ gì yên tịnh được, lại chẳng có thể bàn đến sự thanh tịnh của ba nghiệp thân, miệng, ý được.

Nhà, thực tại là nhân duyên phiền não! Có nhà rồi lại nên xả bỏ việc thế tục mà tu hành, thực tế thì cũng không phải là mỗi người đều có thể làm được hết. Chúng tại gia có nhà, nếu có thể dùng “không nhà” để nhìn, thì nhà không thể là cái trói buột, xét ngược lại thì rất nhiều phiền não! Nếu là người không gánh vát sinh kế của gia đình, bỏ việc đời, chẳng khổ nhọc nặng, bỏ việc kinh doanh lo lợi, có thể chuyên tâm tu hành rất tốt!

- Tu hành không phải là phân biệt trên hình thức xuất gia hay tại gia, mà là phân biệt trên tâm địa. Người có thể xả bỏ sự suy nghĩ và công việc thế tục như: phú quí, vinh hoa... các dục vọng, thì cùng với người xuất gia như nhau; người xuất gia nếu không xả bỏ suy nghĩ và công việc thế tục, vẫn như người tại gia. Nên biết rằng tu hành cần ở trên tâm địa, không phải ở trên hình thức mà thôi.

- Vì sao học nhiều kinh luận như thế, là bực cao nhân biện tài vô ngại, ngồi yên tham thiền đã đạt đến tam thiền tứ thiền, người tay nắm tràng hạt niệm Phật, mà ra không khỏi ba cõi (không được vãng sanh thế giới Cực Lạc!). Tức là miệng nói tu hành, nhưng chưa đem tâm tin Phật để tu hành; Nếu hiệp với kinh điển, ngay khi ngồi yên đứng dậy, tiếng niệm Phật liền dừng, tức thì bề bộn những sự so tính đuổi kéo tâm ta, tức là bận rộn những sự việc gia đình, tức là bận rộn việc trên xã hôị, bận rộn chuyện ăn uống vui chơi, dục vọng rất là nhiều, rồi vọng giữ lấy, vọng sử dụng. Nghiên cứu kinh điển, lúc niệm Phật, ngồi yên, tâm mới chỉ được chút ít sự thâu lấy, vẫn còn bị hai cảnh thuận nghịch động chuyển, bị tình thức bủa vây, bị ái chấp trói buột, không thấy rõ tình đời, buông không được muôn duyên việc tục, lúc mạng chung tâm sinh điên đảo, ra sao được ba cõi sinh tử!? Vãng sanh thế giới Cực Lạc ư! Ngay cái thiện rốt cuộc cũng khó đạt được!

Gặp được việc tốt, thấy được việc tốt, nghe được việc tốt, tức là cảnh thuận. Gặp việc xấu, thấy việc xấu, nghe việc xấu, tức là cảnh nghịch. Ở cảnh thuận thì hớn hở vui cười, ở cảnh nghịch thì u sầu khổ sở; tức là bị hai cảnh thuận và nghịch chuyển. Nếu có thể ở cảnh thuận không vui vẻ, ở cảnh nghịch không phiền toái, thuận nghịch đều không khởi tâm động niệm; vì ngay nơi khởi tâm động niệm thì lập tức bị hai việc thuận - nghịch chuyển.

Vui giận, ưa ghét, ham muốn, đều là một chữ TÌNH; nếu làm được nhữung việc như: vi phạm không tra xét, xúc phạm không giận dỗi, làm tổn thương không oán hận... tiến đến coi những việc đó như không, ngược lại thương xót tâm ngu si; nếu có thể ngộ được lý nầy thì tâm thường thanh tịnh, như TỊNH ÐỘ (cõi tịnh) vậy.

Cha mẹ, con cái, công danh, tiền bạc giàu có, văn chương nghệ thuật, ngọc ngà của báu... đều là những thứ yêu thích. Nếu làm được việc có nó cũng như không có nó, chẳng nghĩ tưởng về nó; bỡi vì phàm là có tâm một khi ÁI tồn tại, thì lúc lâm chung bị cái ÁI nầy dắt dẫn, theo những việc trước mà luân hồi sáu nẻo. Do đây có thể biết một chữ ÁI chính là cội rễ của sinh tử, là một trở ngại lớn cho việc vãng sanh.

Người học Phật, trong tâm của đại đa số mọi người cũng đều muốn được tụng kinh, tham thiền, lạy Phật niệm Phật, ăn chay, tức là tu hành; chẳng biết rằng cũng còn bao quát cả những hành vi sửa đổi chỉnh đốn, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn trong cuộc sống thường ngày cũng tức là “đạo đức”, nó sửa đổi nuôi dưỡng làm cho tịnh sạch và vương lên, đều là sự cần thiết đối với hành vi chính mình và làm cái việc sửa đổi chỉnh đốn thích đáng. Giả như những hành vi nầy đã làm tổn hại đến chúng sinh và mình, hoặc giả đã mâu thuẩn đến đạo đức, phép tắc, chuẩn mực của xã hội đương thời, nơi đây.

Trong vấn đề học tập Phật pháp, cải tiến chính mình từ trong cuộc sống thường ngày, khiến cho mình cùng với ranh mức con người trên xã hội có được sự quan hệ càng hài hòa hơn, đây cũng là tu hành, mà vả lại càng dễ làm cho mọi người và gia đình tiếp nhận.

Tu hành là cần tự tại, nhìn cho rõ, buông cho hết, mới có thể được lợi ích. Phú quí, vinh hoa, ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, ăn uống vui chơi tận tình, những việc nầy là chỗ vui ưa tìm cầu của người đời, người tu hành cần nên bỏ lìa những cái nầy đi, bỡi vì phú quí vinh hoa... những cái đó làm ngăn ngại sự an bình và yên tịnh của thân tâm người tu hành, nó làm cho chẳng được tự tại và giải thoát.

Việc mặc, không được đẹp đẽ, không được hợp thời trang thì lại buồn buồn không vui; việc ăn, mà có chút ít không ngon miệng, không hợp ý thì cho là không ngon, ăn không được; ở phòng bình thường đi không có xe tốt thay vì đi bộ lại nói là không sang trọng, mất thể diện; những vấn đề nầy tức là không tự tại. Ở chỗ thuận thì mặt mày hớn hở, ở chỗ nghịch mặt ủ mày chau, đây tức là nhìn không rõ. Tham ái dính mắc nơi tiền bạc giàu có, danh vọng, quyền thế, con cái, nam nữ v.v... Ðây tức là buông không rời. Không tự tại, buông không rời, nhìn không rõ, đều là việc ngăn trở con đường ra khỏi ba cõi.

Tu hành là tác dụng trong cuộc sống thường ngày. Hiểu và tu hành không thể ăn khớp với nhau, thì cũng như: nói ăn, đếm của báu, bánh vẽ làm sao đỡ đói!

Chẳng xét là tại gia hay xuất gia, mà mục đích rất chủ yếu là mong cầu tu hành được chuyển mê khai ngộ, ra khỏi ba cõi, lìa khổ được vui... cho đến thành Phật.

Do từ việc nghe kinh, tụng kinh, chẳng biết dùng bao nhiêu thời gian, ngược lại biết rất là nhiều danh từ Phật học, thậm chí còn có thể diễn thuyết công khai, miệng nói ra những Phật pháp chính mình xem hiểu thông suốt như nước chảy mưa rơi; Nhưng - Ở trong cuộc sống thường ngày không cách nào đem những Phật pháp, rõ ràng là đạo mà chính mình đã nói ra được ấy, để ứng dụng, ra sức hành trì, như thế, giảng thì mặc giảng, làm thì mặc làm, không cách nào ở lúc làm việc và đạo lý mình giảng thích họp với nhau; như ngồi “tĩnh tọa”, qui định chính mình có thể ngồi rất lâu vững vàng không động, nhưng - chỉ cần một khi đứng dậy, thì vẫn vậy, theo danh tìm lợi, không có phương pháp nào đối với cảnh mà chẳng khởi niệm! Tay lần tràng hạt, tùy lúc tùy nơi niệm Phật, thế nhưng trong tâm vẫn vậy, tính toán so đo: giàu có, danh vọng, quyền thế v.v... Nếu cách nầy mà học Phật tu hành thì chỉ trên sự nghiên cứu lý mà thôi, đều chẳng thể lấy ra được một chút nào sức ứng dụng mà tu hành, ra ba cõi cũng chỉ là tưởng tượng mà thôi!

- Tinh thần của Phật pháp; Chơn nghĩa của Phật pháp cùng với cách nhìn của người đời chẳng đồng, nhận biết cũng chẳng đồng. Người đời cho là quí báu, Phật pháp cho là tầm thường, như là châu báu ngọc ngà v.v... Người đời tham ưa, Phật pháp xả bỏ, như là: tiền bạc, giàu có, danh vọng, nam nữ... Do Phật pháp chẳng theo thế tục, nên dẫn không được người đời hứng thú học tập, chẳng giống với ngoại đạo là theo cách thế tục để dụ dẫn và mê hoặc con người.

Ở trong con đường tu trì ấy, cần phải biết rõ cái để tu trì ấy là “TÂM”, tu trì là phải dùng cái tâm thế nào để tu, là tâm phàm hay tâm đạo? Là tâm phàm đúng mức chỉ chẳng qua có thể tự cứu lấy mình thì tính ra chẳng sai; là tâm đạo quyết cần phải tiếp nhận kiểm tra cái đạo, cái đức, cái tâm của vô tình đó, cần biết tâm con người tức là đạo tràng rất nhỏ, không phải sao? Nếu phân biệt chánh - tà, thiện - ác, tốt - xấu, làm và không làm, tất cả của tất cả đều là ở nơi TÂM, lặng yên khéo suy nghĩ một chút, thì có thể biết lời nói chẳng ngoa, lặng yên sẽ có thể biết tâm mình làm cái gì, quên đi tất cả tạm thời thì sẽ lặng yên sẽ dễ dàng một chút.

- Sự khoái lạc đời người là việc ngắn ngủi tạm thời, thế giới Cực Lạc mới là niềm vui vĩnh hằng. Mục đích của tu hành là cần giải thoát, vượt ra ba cõi, vãng sanh Cực Lạc; con người đều có sinh, lão, bệnh, tử, có những phiền não, mê hoặc các việc, mà ngay lúc chúng ta giải quyết những phiền não, mê hoặc của chúng ta thì gọi là giải thoát, giải thoát những vấn đề trói buột, đoanh vây, khổ đau, mê muội, những vấn đề nầy đều là việc mà người tu hành cần phải nổ lực. Tu hành là giải quyết những chướng ngại và vấn đề trên tâm linh, cần phải để cho con đường đạo của nội tâm được thông suốt. Tu hành chẳng phải chỉ chú trọng công đức ở bên ngoài, mà sơ sài lơ là công đức bên trong. Công đức bên ngoài là trì giới, bố thí v.v... Công đức bên trong là tâm thanh tịnh, bình tĩnh, bình hòa, bình đẳng. Nghĩ đông nghĩ tây, kiểu nầy cũng tốt, kiểu kia cũng cần, dục vọng càng nhiều, tâm thanh tịnh không? Ngay lúc một con người phiền não, thử nói học có bao nhiêu đức hạnh? Lời nói, hành vi, cử chỉ biểu hiện ra cũng không có sự tự nhiên bình tĩnh, bình hòa rồi, huống nữa là lúc họ giận dữ thì lời nói có thể nhu hòa được không? Công đức bên ngoài cần phải LÀM, công đức bên trong càng cần phải TU.

- Tu học có hai vấn đề trọng yếu: 1- Tu huệ, 2- Tu phước.

Tu huệ là: Niệm Phật, ngồi yên tham thiền, tụng kinh, trì chú v.v... được ÐỊNH phát HUỆ.

Tu phước là: Một chút việc ác cũng không nên làm, còn việc thiện nên làm nhiều, thanh tịnh tự tâm, nhẫn nhục, ăn toàn đồ chay.

Học Phật tu hành là nên tu cả hai PHƯỚC và HUỆ. Chỉ tu phước mà không tu huệ, hoặc chỉ tu huệ mà không tu phước, thì ra không khỏi ba cõi, vãng sanh thế giới Cực Lạc không được!

Phước và Huệ cũng như hai cánh của một con chim, nếu thiếu một thì không thể bay lên!

Ngài Vĩnh Gia Thiền Sư nói rằng:

Bố thí, trì giới, sinh phước trời; Cũng như bắn mũi tên lên hư không, hết lực rồi tên lại rơi xuống; Chuốt lấy đời sau không như ý”.

Giả sử cầu được phước báo trời người, hưởng tột cùng phú quí vinh hoa, cũng chỉ là phước nhơ (trong năm trược), một ngày kia hưởng hết rồi, lại gồm được cái gì? Cái hoạn của tâm là ba độc (tham, sân, si), chỗ thọ là năm dục (tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ); Như thế chính thật là nhân khổ. Trong kinh dạy rằng:

Tiền - sắc - danh - ăn - ngủ, năm việc gốc địa ngục, năm dục nếu chẳng trừ, trần lao không ra khỏi”.

Người tu hành tịnh nghiệp tâm ham muốn riêng tư chẳng nên quá nhiều, nếu như ba nghiệp (thân, miệng, ý) không thanh tịnh là chuốt lấy cái nhân họa vậy! Cho nên nói rằng: không vì tật bệnh đau khổ mà phát tâm không vì cầu hộ giúp nhà cửa của tiền mà phát tâm, không vì để tăng thêm phước thọ mà phát tâm; không vì báo đáp tình thân mà khởi niệm phát tâm. Chỉ có thể vô tâm ở nơi muôn vật, thì ngại gì muôn vật vây quanh, phàm phu có các món ác duyên trói buột, nên chẳng dễ an tâm tu hành. Chỗ nói đến của Phật pháp là “tâm pháp”, tâm không an thì có sự trở ngại, không thể tu hành, nên nói là buông hết.

Phàm phu do kiến chấp về NGÃ (ngã kiến) sâu dày, phiền não nhiều đời thô nặng, nên chướng ngại về cái “biết”. Kế đến là chấp người chấp ta, chấp pháp chấp ta. Như thế hai chướng (phiền não chướng, sở tri chướng) và hai chấp, lại thêm tham dục, sân nhuế, si mê, nhân đó mà tạo nghiệp, trôi trong sinh tử, dập vùi nơi biển khổ. Cho nên cần phải có cái biết đúng đắn chân chánh (chánh tri) và cái nhìn thấy chân chánh (chánh kiến). Hai tâm ghét và yêu đều là bất tịnh. Như nghịch duyên, oán duyên, kết oán với người, nhìn là thù địch muốn đánh muốn dìm; còn thuận duyên, thân duyên, xem như thân thuộc sinh tâm yêu mến; Riêng có không oán không thân, duyên chính giữa, xả thọ không khổ không vui. Còn nếu tình cảnh biến đổi, chuyển yêu thành ghét, thì sự yêu đó ở đâu? Như vậy xưa nay chẳng thật, bỡi sao cảnh duyên không tốt xấu, yêu ghét khởi nơi tâm, cho nên chớ nên tin tâm mình! Chúng ta thân nghiệp báo, coi như nghiệp báo nặng mà thọ chịu nhẹ, thảng nhiên chịu đựng tất cả giày vò, chỉ hay chuyển tâm niệm Phật, hết báo thân nầy, lại sanh vào nhà “Pháp vương”. Còn đối với gia đình so tính, con cái, giàu có tiền bạc... hay danh vọng, sự nghiiệp... trên xã hội, các việc khổ não, nhiều trở ngại cho tâm, thì phiền não theo đó mà sinh khởi, tâm không được an ổn.

Người đời đều có tâm, có tâm thì ắt phải có niệm, khởi niệm thì chắc chăÙn phải có “nhiễm” và “tịnh”, nhiễm là nắm lấy sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp); Tịnh nghĩa là không nắm lấy sáu trần. Quán sát lúc ban đầu do tâm niệm của chúng sinh mà sinh ra; cho nên đức Phật nói: “ba cõi chỉ nơi tâm, muôn pháp chỉ nơi thức”. Nên phải cẩn thận nơi niệm ban đầu, chế ngự tâm nhiễm, nếu chẳng giữ sáu trần tức là không có nghiệp, từ đó mà được vô tướng, cho nên một niệm không sinh thì sáu đường (Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỉ, xúc sinh) đều tiêu mất, cắt đứt luân hồi. Hạt giống nghiệp lại dứt mà ra khỏi ba cõi vậy.

Lợi ích của việc học Phật có thể nói từ hai phương diện:

ŸPhương diện chính mình: Người đã học Phật, có thể nương theo lý Phật mà chiếu xét tư tưởng và hành vi của mình, như có việc bất chánh thì đưa nó vào chánh, không qui củ đưa vào qui củ (nề nếp), tu dưỡng đối với thân tâm của mình, rất có ích lợi, là triết học cần thiết cho việc xử thế.

ŸPhương diện người khác: Học Phật có thể đem nhân sinh quan riêng tư vì ta mà cải đổi làm “vô ngã đại bi”, nhân sinh quan hy sinh vì người, mình và người cả hai đều lợi, làm tiêu chuẩn tối cao về đạo đức của nhân loại, chỉ có người học Phật mới có thể hoàn thành.

Vì sao phải học Phật? Học Phật chắc chắn có chỗ nhận thức đối với “thật tướng” đời người, có nhận thức thì chắc chắn có sự bảo bọc nuôi nấng, có sự bảo bọc nuôi nấng quyết chẳng nôn nóng, thì gặp rất nhiều vấn đề khó khăn trước mắt, như không mỹ mãn về cuộc sống, khổ rầu hoàn cảnh, khuyết điểm hạn cuộc của xã hội hiện thực, phiền não việc người giao tiếp cái xấu, đều được dẫn dắt từ Thánh trí, đều chỉnh lại tâm cảnh chẳng bình ổn và hài hòa của mình. Cũng nói thêm rằng, nhân sinh vũ trụ rất nhiều vấn đề lớn, người học Phật mà nghiên cứu Phật học thì đều có thể hiểu rõ được triệt để. Học Phật không chỉ tìm kiếm hiểu rõ trong hoàn cảnh cuộc sống hiện thực, còn phải tìm kiếm trên vấn đề từ sinh tử để giải thoát viên mãn, tìm được chốn về an lạc rốt ráo của đời người.

- Tu lúc bình thường cuộc sống hàng ngày cần bình ổn và điềm đạm, tâm tình đối cảnh cần phải bình tĩnh.

ŸBình đạm: Khổng Minh - Chư Các Lượng thường nói rằng: “Ðạm bạc để sáng Chí, yên tĩnh thì thấy được xa, tất cả thuận ở nơi tự nhiên”. Con người, có thể bình thường đạm bạc qua một đời nầy, là một hạnh phúc lớn không gì hơn.

ŸBình phàm: Gọi là bình phàm, không giống như thế tục tầm thường, chỉ là chẳng cầu nghe thấu đối với lời khen thế tục tầm thường, mà là hết lòng hết sức, cày cấy lặng lẽ mà chẳng hỏi thu hoạch thế nào! Người đời gọi là “Trong lòng nuôi chí lớn mà ngoài mặt như người thường”.

ŸBình thường: “Người tầm thường phước nhiều, bình thường là quí báu”, thật là một câu danh ngôn chí lý; bao nhiêu người đeo đuổi mục đích cao xa, một đời chẳng đạt được những ham muốn cảm thọ đầy đủ chính ta. Ngạn ngữ có câu rằng: “Bò lên càng cao, té ngã càng nặng”.

ŸBình tĩnh: Gọi là bình tĩnh, bèn là một thứ trạng thái tâm tình; thật chẳng phải là “đêm khuya yên tĩnh, muôn tiếng lặng yên”. “ngọn cỏ chẳng sinh” “trăng sáng sao thưa”, cũng chẳng phải là “nước dừng trong suốt, trọn không sóng nhỏ lăn tăn”; Trái lại là để chỉ một thứ định lực, nghị lực, công lực, cũng tức là tu thân dưỡng tâm, còn gọi là nuôi dưỡng công phu. Chỉ có như đây mới có thể “Trang trọng cung kính tự cường, gặp biến động không kinh sợ, cẩn thận toan tính có thể cắt đứt”, núi Thái lở sạt trước mặt mà vẫn không biến sắc.

Cho nên nói rằng, bình thường hàng ngày làm người phải có phong cách mô phạm, cần nên phù họp phạm trù đạo nuôi sống tâm linh, tu dưỡng tâm lý phải chú trọng hơn sinh lý, tâm lý nếu không khỏe mạnh thì dẫu trăm vạn, ngàn vạn, ức vạn, mua bán giàu có cũng khó mà mua được sự khỏe mạnh tâm lý, mong cùng cố gắng nhắc nhở nhau! Quá cầu phú quí, chẳng bằng tùy sự việc mà an, biết đủ thì thường vui, chỉ cần biết đủ và ít ham muốn, thì có thể được vui vẻ.

- Sao gọi là Tu Hành? Tu hành tức là “chúng sinh tự tâm thệ nguyện độ” tức là tự tánh mỗi người tự độ, cần rõ hiểu là chúng sinh của tự tâm - tức là các thứ tâm bất thiện: Tâm tà mê, tâm ác độc, tâm cuồng vọng, tâm đố kỵ... những tâm bất thiện nầy đều là chúng sinh ở trong tâm, mỗi người đều cần tự tánh tự độ, đây gọi là “chơn độ”.

Sao gọi là “tự tánh tự độ” ư? Tức là nắm lấy chúng sinh si mê, phiền não, tà kiến còn tồn tại ở trong tâm mình, dùng “Ðạo đế” trong bốn chánh đế (Chánh kiến của tám chánh đạo), thấy hiểu chính xác để độ thoát chúng nó, tức là tiêu trừ hóa giải phiền não ở nơi vô hình. Diệt sạch tất cả bất thiện, phát tâm bồ đề, xa lìa tâm niệm nhơ uế lộn xộn, khiến trong tâm thuần khiết.

- “Tu hành” tức là “tu chánh hành vi”, hành vi chúng ta đã có những sai lầm, sai lệch, sửa cho chính lại những lỗi sai lầm, lệch lạc ấy, đây tức gọi là: Tu hành. Hành vi của chúng ta trong cuộc sống ngày thường rất nhiều rất nhiều, Ðức Phật dùng phương pháp qui nạp đem nó phân làm ba loại lớn: Thân - miệng - ý. Thân là hành vi của chúng ta. Miệng là lời nói. Ý là tư tưởng, là thấy hiểu. Dùng ba loại lớn nầy thì đều đã bao quát hành vi của chúng ta, ba loại lớn nầy nếu có tổn hại, bất lợi, lỗi lầm, sai lệch đối với chúng sinh, thì đem chúng mà sửa đổi cho chân chính trở lại; Ðây gọi là tu hành.

- Tu hành là nương nơi qui củ mực thước của Phật pháp, để tu trì học tập, dựa trên qui củ chân chánh của Phật pháp, tịnh hóa thân tâm của mình, đem toàn bộ những tập khí vô minh của sự sai lầm bất chính đều sửa đổi cho chân chính trở lại, mà đạt được mục đích tột cùng của sự tu hành là THÀNH PHẬT!

Phật pháp chú trọng là ở sự thực tiễn, là hiểu, làm và tiến bộ, chẳng lẻ loi chỉ là sự hiểu biết trên chữ nghĩa, mà còn phải làm trên hành vi. Nếu chỉ nói mà chẳng thể làm, thì dẫu hiểu đạo lý ở trong đầu có đại tạng kinh, cũng vĩnh viễn không thể giải thoát. Nếu miệng nói, lại còn có thể thực hành thì mới hữu dụng.

- Ðường tắt của sự tu hành không những cần khắc phục những vấn đề hữu hình như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ... mà bên trong còn phải chế ngự ngàn vạn tà ma trong tâm của mình như: Tham, sân, si, mạn, nghi, tà, đố, hận, giải đãi, dục vọng... những phiền não của vô minh, những tà ma còn đáng sợ hơn những chướng ngại hữu hình. Tu hành là vì khắc phục phiền não ma chướng ở trong nội tâm chúng ta và tất cả những nhiễu loạn và chướng ngại bên ngoài, đồng thời còn phải nhẫn chịu những sỉ nhục và khổ nạn từ ngoài đem đến.

Thường niệm, tư duy và quán sát thiện pháp, nhiên hậu mới có thể phát sinh tác dụng chân chánh về thiện pháp. Thường niệm thiện pháp, thời khắc nào cũng chẳng nên quên mất. Tư duy thiện pháp thường tồn tại trong tâm, trong đầu, xem chừng thiện pháp mình làm, đối với mình với người khác là có ích hay không? Quán sát thiện pháp là cần phải kiểm tra sự khởi tâm động niệm của chúng ta từ sự nhìn lại và xét nét trong nội tâm, không để cho niệm đầu bất thiện sinh khởi.

Phần lớn người tu hành và không tu hành, thì phân biệt ở nơi ba nghiệp: Thân, miệng, ý. Nếu thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý khởi niệm ác, tức là người không tu hành.

- PHẬT, là người tu hành, không phải thần. Hãy nhìn khắp toàn thế giới các tôn giáo, trừ Phật giáo ra, không có giáo chủ một tôn giáo nào là chẳng lấy cách thức tự phong cho là “Thần siêu nhân”.

Giáo chủ Phật giáo là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, cho là tốt - xấu, họa - phước, thành - bại, vinh - nhục, đều quyết định ở nơi hành vi chính mình, thiện và ác do sự nổ lực hay không thôi. Không có một cá nhân nào có thể chịu sự đề bạt lên thiên đường, cũng không có một cá nhân nào có thể ngang chướng mà xô đẩy người thiện rơi vào địa ngục được. Khen tốt hay ca tụng thì không thể lìa khổ được vui đâu, chỉ có thể dẫm lên sự thật là tu thân dưỡng tánh, mới có thể khiến cho nhân cách của mình được tịnh hóa thăng hoa, khiến cho mình hưởng thọ được niềm vui của sự được lý an; Con người phân ra kẻ thượng trí, người trung bình và hạng hạ ngu, nhưng hễ thỏa đáng (đúng) căn cơ thì hiệu quả, do đó Phật giáo là tôn giáo tín ngưỡng chính mình, người làm thiện thì được quả thiện, ngưới làm ác chắc chắn thọ quả khổ; Do đó cần được huệ nhãn giải thoát, thì ắt cần phải tu trì chí thành, lấy giới - định - huệ để phá trừ tham - sân - si, lấy mười việc thiện để đối trị mười việc ác, nương theo tám đường chánh để tiến hành tăng trưởng đạo đức thực tiễn qua thời gian, công phu đến một lúc bèn có thể diệt trừ tất cả phiền não, khổ đau, thoát ly cảnh giới sinh tử luân hồi.

Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp bốn mươi chín năm: Không pháp nào chẳng vì người đời, mà chỉ đưa ra một điều là: “Ðạo thành Phật”. Tự mình sáng tạo ra trí huệ và nhân cách viên mãn rất triệt để, chỉ một đường nầy lại là chính mình nhờ vào nghị lực, đi bằng trí huệ và tâm thường hằng để hoàn thành nó, cho nên biết rằng thành Phật, bí quyết tu hành là từng giọt công phu, từng bước tu hành, một bước tới trời là không lên được.

Học Phật trong cuộc sống hiện thực là vì đã trải qua cuộc sống lý tánh, trong lòng đã hàng phục được phiền não chính mình, trước mắt làm bất cứ việc gì, trước nhất nghĩ xem chúng sinh, nếu như làm sẽ tổn hại đến chúng sinh, như thế thì không nên làm!

- Người học Phật cần nên KHÔNG ở nơi tâm, KHÔNG, thì có thể giải thoát, chẳng như vậy thì Từ bi nhiều, nhọc nhằn gánh vát cũng nhiều.

- Pháp môn niệm Phật rất thù thắng và tôn quí, khắp nhiếp hết căn cơ (thượng, trung, hạ) của chúng sinh. Như thế tại sao lại khiến cho người ta tâm tịnh (KHÔNG)? Ðầu tiên cần phải bỏ hạnh ác, xa lìa tham dục, dục nhiễm (ham muốn nhơ uế) chẳng tịnh, tâm chẳng tịnh thì niệm Phật không rõ. Cần thiết cho việc tu tâm là ở sự giữ gìn kiên cố giới pháp. Giới bị dục nhiễm là do ba nghiệp, tất cả chỉ nơi tâm tạo ra, sự ham muốn được sinh ra, rồi kết nhóm, khởi lên, duyên với nhau, nghiệp của ham muốn là do tâm sinh, nên theo đó các pháp được sinh, một khi đắm nhiễm tức là bị trói buột, chẳng được tự tại. Cho nên yêu tiền của thì chết vì tiền của, yêu danh thì chết vì danh, các việc khác thì xét biết. Sự nhiễm của cái nhiễm xô không đi, rảy không rớt, xen lẫn trói buột, nếu động thì buột càng chặc, nếu có thể không Ái không Thủ đối với sự ham muốn, cũng như “tráng sĩ chặt tay”; Hoa sen mọc lên từ bùn lầy mà chẳng bị nhơ.

- Người tu hành tịnh nghiệp, đối với tự mỗi cuộc sống, thiểu dục tri túc sẽ được đầy đủ, như đối với áo mặc, cơm ăn, chỗ ở, tới lui đều cần nên đạm bạc, càng đạm bạc càng tốt, thì sẽ không có sự trở ngại, công dụng đối với sự tinh tấn, dứt diệt tất cả tâm: Lợi danh, ham muốn, tham luyến, cống cao, bao che, nhân - ngã, thị - phi... đều nên diệt hết.

- Ðã niệm Phật nhiều năm, muốn cầu chứng được cảnh giới “nhất tâm bất loạn”, nhân vì căn tánh của mỗi người nào là: nghiệp chướng, phước đức, nhân duyên, tinh tấn có khác nhau, trên thời gian cũng rất khó nói, ra công đến lúc tự nhiên “nhất tâm bất loạn”; còn cưỡng cầu trái lại thì tâm càng loạn.

- Sự chứng nghiệm của niệm Phật rất nhiều, như là: hương lạ bay đầy nhà, nhạc trời réo rắt trên không trung, thấy hoa thấy hào quang, ánh sáng chiếu đến thân thể, tòa báu hiện ra trước mặt, biết trước giờ lâm chung đến, sắc mặt như lúc còn sống, thân thể mềm mại, khí nóng trên đảnh đầu chưa tan v.v... không phải là một việc.

Rất nhiều bạn lành ban đầu mới bước vào cửa Phật, chẳng biết làm gì đối với đời ác, chỉ trì niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, thì đã có chỗ tốt đẹp bất khả tư nghì, nói không thể hết. Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thương xót chúng hữu tình của cõi Ta Bà, ở trong kinh điển nhiều lần nhắc nhở, khuyến khích niệm Phật, chúng ta nên cảm lấy ơn niệm Phật, tin thọ vưng làm, nguyện xin chư vị bạn lành lập tức phát tâm tu hành, tịnh niệm tương tục, nhất tâm chuyên ròng niệm Phật, nếu chân chánh dụng công, cần nên biết rằng tu hành là việc lớn bổn phận. Mưu sinh công tác chỉ là liên hệ cái nghiệp bức bách.

Người ta nếu gặp nghịch cảnh, chỉ tăng sức niệm Phật ngày đêm, thành tâm bố thí nhiều, chẳng chấp giữ lấy duyên trần, chẳng cảm lấy sự ham muốn của tình thức, nhất tâm tinh tấn ở nơi vô vi, không dấy vọng tưởng, không khởi tạp niệm; Một cái vọng tưởng, một cái sinh tử, một cái tạp niệm, một cái chướng, không dấy vọng tưởng thì không khởi tham, sân, si, không khởi tạp niệm thì không sinh sự so tính nhân – ngã, thị - phi. Giữ chí chẳng hai, tâm trì hiệu Phật, niệm niệm rõ sáng, niệm niệm giác ngộ, là tâm thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh, cũng là tịnh nghiệp.

Người phàm phu thời mạt pháp chướng nặng nề, căn ám độn rất nhiều, người ta bất tất cần cầu quá cao, chậm chậm lại, chớ nên gấp rút, muốn mau thì chẳng được (dục tốc bất đạt), thời gian và không gian đều cần phải phối họp, đồng thời cần phải có tâm nhẫn nại, nhân duyên chưa thành thục thì nóng lòng chưa chắc có hiệu quả.

Niệm Phật quyết cần phải dẹp bỏ buông hết những bụi phấn cố chấp trong tâm và ngoài thân, nhất tâm trì niệm danh hiệu Phật, nhiên hậu mới có thể tương ứng, đem một câu danh hiệu Phật, niệm cho được rõ ràng, chớ nên giữ niệm nghi ngờ, quyết niệm được trong tâm có Phật, đến nhất tâm bất loạn. Niệm Phật chẳng khó, nhưng khó ở chỗ là có tâm cung kính, chí thành và lâu dài hay không thôi! Vì vậy nên cùng là người niệm Phật, nhưng sự cảm ứng ở nơi mỗi người thì chẳng đồng nhau.

Phàm phu nhiều điều bất tịnh cho nên mới học Phật tu hành. Tu hành tức là lãnh hội như thế nào để trừ bỏ công phu bất tịnh, ra tay theo sự tịnh hóa tâm địa, đã không bàn luận lẽ mầu nhiệm, cũng không cần cảm ứng thần bí, hoàn toàn là công khai, bắt đầu từ sự làm người tu thân dưỡng tánh.

Bất tịnh tức là ác, tịnh tức là thiện, trong ruộng thức thứ tám (A lại da / tàng thức) được giữ - hột giống thiện ác đều có, gặp duyên bên ngoài đụng tới tức họp. Nhưng học việc ác rất mau, nói ra tức hiểu liền, cho nên dễ đọa vào ba đường; Học việc thiện thì cần có tánh nhẫn nại, lần hồi huân tập, so ra thì chậm hơn nhiều.

Chúng ta sỡ dĩ học Phật tức là sửa đổi cái bất tịnh làm cho tịnh, bỏ ác hướng thiện, cho nên học Phật niệm Phật được gọi là TỊNH NGHIỆP, đơn giản như thế. Nhưng người niệm Phật nhiều năm, làm người tiến bộ bao nhiêu? Rất nhiều chẳng thể. Ðã gọi là tịnh nghiệp tức là ba nghiệp không nhiễm mà phải tịnh; nội dung bao gồm: Thân - không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng - không nói láo, không ác khẩu, không nói hai chiều, không nói chìu uốn nịnh nọt. Ý - Không tham muốn, không sân nhuế, không ngu si; Do bắt đầu từ mười việc thiện nầy, tiến đến mà làm được căn bản Phật pháp là Từ - Bi - Hỷ - Xả.

- Khởi tâm động niệm tạo nghiệp phải làm cách nào? Không có biện pháp nào tốt, duy chỉ có chánh niệm hiện tiền, niệm danh hiệu Phật, lấy danh hiệu Phật để thay thế vọng niệm, bất kỳ phiền não nào khởi lên, chỉ lo niệm Phật, chẳng cần lý giải về nó, mỗi niệm đều là tịnh nghiệp thì chẳng tạo ra tai vạ mới.

- Niệm Phật tu hành mà vẫn còn lâu chưa có chỗ tiến bộ là nguyên nhân tại sao? Bỡi vì bình thường phần nhiều hay chú trọng đến các duyên nhiễm ô. Người phàm phu đa số là có thói quen đắm nhiễm, do đó tâm bị cấu uế, việc làm tức nương theo, nên dễ tạo lỗi, phạm lỗi; người học Phật thì phải “hạ thủ công phu” từ đây. Nếu như ta khinh mạn, chê bai, đố kỵ, ghen ghét, phân biệt, so đo v.v... đều là chướng, cách đạo rất xa. Nên phải thường kiểm nghiệm cái tâm, tự hổ thẹn, sám hối nhiều, bỏ nhơ lấy sạch, nghiệp chướng lần hồi tiêu trừ, mới có cảnh giới tiến bộ cho thân tâm.

Luận “NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG” nói:

- “Niệm Phật có mười việc làm trở ngại lớn, chẳng nên cầu, người tu hành cần phải biết:

1.Niệm Phật chẳng cầu không bệnh.

2.Xử thế chẳng cầu không nạn.

3.Xét tâm chẳng cầu không chướng.

4.Gắng làm chẳng cầu không ma.

5.Mưu việc chẳng cầu cầu dễ thành.

6.Giao tình chẳng cầu lợi mình.

7.Ðối người chẳng cầu thuận - thông.

8.Làm ơn chẳng cầu đền đáp.

9.Thấy lợi chẳng cầu chia chiếm.

10.Oan ức chẳng cầu biện minh.

Tâm có niệm lộn xộn thì chẳng tịnh, vọng tưởng là ma của tâm. Lời thuật trên cần cho chúng ta lâu dài luyện tập, cũng như cổ đức nói rằng: “Người đến chỗ VÔ CẦU thì phẩm giá tự nhiên cao”. Ðây là tính trọng yếu của việc tu dưỡng đã nói rõ.

- Người tu hành tịnh nghiệp, quên đi sinh tử, chẳng quan tâm đến sự tính toán nói năng ngoài miệng, quán sát ngay nơi ngũ ấm là vô thường, thời gian không đợi ta, vui chơi một thuở mà lo sầu dài sau, đau xót tự nhàm lìa Ta Bà mà vui vẻ mong cầu vãng sanh Cực Lạc. Ngày nay bắt đầu chớ nên than học chậm, chỉ sợ rằng thiếu chí mà thôi!

- Lực chính của niệm Phật, trước nhất là cần tâm chí thành - chân tâm chẳng dứt. Niệm Phật phải thanh tịnh để đoạn trừ phiền não, là TỰ LỰC chí thành niệm Phật, cảm được sự gia bị của Phật đó là THA LỰC; Pháp môn niệm Phật rất thù thắng, thành tựu ở chỗ tức là hai lực TỰ - THA, nếu đem tâm chí thành niệm Phật, phiền não có thể giảm nhẹ, thậm chí được tiêu trừ. Lúc chí thành niệm Phật, đối với các việc nhân - ngã, thị - phi, được - mất, tốt - xấu, chẳng khởi tâm yêu - ghét, chẳng chuyển theo cảnh, chẳng sinh phiền não, một mức rất chí thành, nhất tâm bất loạn, mạng chung nhất định sanh vào nhà Như lai.

- Người đời ưa chấp có NGÃ, vì “có ngã” nên tạo nghiệp thọ khổ. Do có ngã nên sanh ra ba thứ bệnh: - Những vấn đề họp với ta thì sinh ra tưởng duyên gần gũi (Thân duyên tưởng), như: người thân, cha mẹ, vợ chồng, con cái v.v... những việc nghịch với ta thì sinh tưởng duyên oán giận (oán duyên tưởng) - đối với việc không thuận không trái thì là tưởng duyên trung bình (trung duyên tưởng). Do ba thứ nầy cảm thọ không đồng; như thân duyên tưởng thì sinh LẠC THỌ; Oán duyên tưởng thì sinh KHỔ THỌ; trung duyên tưởng thì sinh XẢ THỌ, chẳng khổ chẳng vui. Do ba món THỌ nầy dẫn sinh ra ba món độc: Tham, sân, si. Vì sao? Lạc thọ sinh tham, khổ thọ sinh sân, và xả thọ sinh si.

Nắm chắc vào phương pháp niệm Phật, không gấp rút không trì huỡn, chẳng thả lỏng chẳng gút chặc, chẳng buồn chẳng vui, chẳng cao chẳng thấp, chẳng dứt chẳng đoạn, chẳng cống cao, chẳng tự mãn, không lo không rầu, rất là VÔ VI, khiêm tốn hài hòa nhún nhường, lặng lẽ ra sức hành trì. Ngoài ra cũng phát tâm, tùy hỷ các khoảng từ thiện, văn hóa, công ích xã hội... những công việc Phật, tự mình cố gắng, tùy sức tùy phần, cần biết rằng nước lớn thì thuyền tự cao, bỡi “vô sở đắc” (không chỗ được) mà! Trong lúc ngồi nằm bình thường, thường tự mình hướng tây, lễ Phật niệm Phật, khẩn thiết phát nguyện, lòng thành khẩn thì sẽ cảm ứng. Thường tự quán xét tâm, nếu có tiền của dư thì chuyển làm việc ích lợi cho chúng sinh, nên xa lìa dục lạc trong đời sống hiện tại, cần nên cẩn thận!

Nghèo nàn khốn quẩn nhiều bệnh ấy là bản thân không tránh khỏi những trạng thái: buồn rầu, khổ sở, bi thương, tinh thần thường xuyên ở nơi sự rỗng không, tẻ nhạt, ai oán... thế thì làm sao? Nghệ thuật của cuộc sống không cầu cạnh ở người khác. Cần biết rằng, người không tốt cả ngàn ngày, hoa không tươi thắm đủ trăm ngày, sao bằng ngược lại cầu ở chính mình, không sợ cuộc sống gặp cảnh khốn quẩn, ngại gì lấy khổ chế khổ, thản nhiên mà tiếp nhận để dũa mài, xem như quả báo nặng hơn mà sự chịu đựng lại nhẹ, lấy khổ làm thầy để bồi dưỡng cho tinh thần lạc quan, tiến thủ, phấn đấu; không sinh tâm ngu si, chẳng oán trời trách người, chẳng nhụt chí. Quí tiếc thân người, có một ngày làm thì một ngày tính toán. Quán sát vô thường, thân nầy rốt cuộc rồi cũng trở về với sự bại hoại, sao đủ để tiếc, tư duy về nhân quả, thì nghiệp báo nghèo nàn khốn quẩn nhiều bệnh như thế chắc chắn có nguyên nhân mà phát sinh ra, chớ cần oán trách, đã như vậy thì nắm chắc cuộc sống nầy, đem nhân quả của khổ làm một sự giải quyết triệt để mới là bực đại trí. Do đó, có bệnh thì tự nhiên tìm thuốc để trị liệu - là nguyên tắc, trong thời kỳ trị liệu cũng có thể đồng thời tiến hành mà sám hối, làm việc thiện, niệm Phật để cầu chuyển biến nghiệp báo, sớm được bình phục lại sức khỏe.

- Lúc gặp những vấn đề mà đột khởi lên niệm ác, phải nhiếp trụ ba nghiệp thân - miệng - ý, nỗ lực như thế nào lâu ngày chắc chắn sẽ thành công. Nếu lúc khởi niệm ác, muốn làm việc tổn hại người, thì lập tức niệm: Nam Mô A Di Ðà Phật.

- Người niệm Phật tu hành, cần thường giữ ba nghiệp thanh tịnh, việc tổn hại người nhất quyết không được làm; Ngược lại, nên thường giữ gìn tâm thiện, làm việc tốt, nói lời tốt đẹp; Nếu khởi ác niệm, thì theo đó tức nên sám hối.

- Con đường tu hành không phải đối với người hoặc cái gì khác, duy chỉ có sự sửa đổi tâm mà thôi, tức là đem “tâm sinh diệt” của chúng sinh chuyển làm “tâm đại bồ đề”, bất sinh bất diệt. Nội tâm không vọng tưởng tạp niệm, phiền não tà kiến không khởi lên, lâu rồi tự tánh được thanh tịnh, chẳng bị thế giới phồn hoa dẫn dắt, nghiêm nhặt trong những sự tạo tác và đeo đuổi của cuộc sống. Nếu có thể mỗi niệm mỗi niệm đều “vô cầu - vô đắc”, lìa bỏ tâm truy tìm cầu sự được mất, lìa bỏ tâm sợ sệt và hy vọng, lìa bỏ tất cả tâm đối đãi và phân biệt, ngoài không bị cảnh trần chuyển, trong không bị tâm niệm chuyển, lâu rồi sáu căn được thanh tịnh, ánh sáng vi diệu của chơn tâm tự hiển lộ, tức thành Phật đạo.

Kỳ thật tu trì Phật pháp tiến bộ hay không là nhìn ngay vào vọng tưởng và phiền não đó càng ngày càng ít hay không? Tập khí mỗi ngày mỗi ít không? Và tâm Từ - bi - hỷ - xả có càng ngày càng thêm lớn hay không?

- Học Phật tu hành không phải là một loại chức vị hay nghề nghiệp, làm cho người ta xem; Ở trước người thì làm một kiểu, như ăn chay, trước người thì ăn chay, sau người thì ăn thịt uống rượu; ngoài miệng không chưởi người mà trong lòng lại chưởi, bị khinh bỉ thì nghĩ cách báo thù; chẳng chiếm đoạt được vợ con của người thì ngược lại tìm cách chọc ghẹo kích thích tính dục; trăm cách kết giao với người quyền quí, không hề dòm ngó đối với kẻ bần cùng; dung túng chính mình, hà khắt với người... đây tức là trong ngoài không một mối, chẳng được làm như thế.

- Tu hành giống như đánh đàn, lúc dây đàn xoắn quá cứng thì đánh không ra âm, dây đàn buông lỏng quá đánh cũng không ra âm, dây đàn nếu xoắn đúng mức, âm vận sẽ cao thấp thích đáng thì các âm sẽ được hài hòa. Tu hành cũng cần phải như thế nầy, chẳng nên gấp rút thành đạo, cũng chẳng được lười mỏi buông lung thối lui, cần phải có sự hành trì chuyên tâm hằng tâm, rốt rồi cũng sẽ có ngày thành đạo. Nếu gấp rút để thành, như thế quá lao nhọc mà lại tổn thương thân thể, còn làm cho thối lui công việc hành trì, tất nhiên sẽ tạo ra nhiều các nghiệp ác; cho nên người tu hành cần phải gấp – qưỡn cho thích đáng, “ý” giữ lấy sự an lạc.

- Niệm Phật là niệm GIÁC, giác ngộ tất cả tập khí vô minh, khiến cho nội tâm thanh tịnh, trở về với “bản lai diện mục” - Phật tánh. Rõ được lý rồi sau lại niệm, thì niệm được ngay; đã rõ rồi vì sao cần niệm Phật? Khắp các cảnh giới đều dùng một câu: “Nam Mô A Di Ðà Phật” đề giải quyết. Bồi dưỡng và tập thói quen ở nơi đức Phật, ngày ngày niệm Ngài, giờ giờ niệm Ngài, cùng Ngài duyên, đến lúc tự nhiên tương ưng; Chỉ việc miệng niệm thôi mà tâm tâm tưởng khác, theo niệm lơ là, niệm Phật cách nầy thì chẳng được hiệu quả. Chúng ta đã ở trong cuộc sống như biển khổ tham, sân, si... mênh mông nầy, trừ sự giác ngộ giải quyết vấn đề ra, thì cần phải nương nhờ vào trì giới, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn để vượt qua biển khổ nầy, ở ngay trong đây tức là một câu: “Nam Mô A Di Ðà Phật”, khiến cho vọng tưởng, tạp niệm của chúng ta sinh ra chẳng được.

- Không cần phải hỏi là: Niệm Phật có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây hay không? - mà ngược lại phải hỏi rằng: Chính mình có phải là niệm Phật chuyên nhất chí thành hay không? Chuyên ròng niệm Phật không? Trong tâm có Phật không? Có thể nghiêm trì giới luật hay không? Có thể: bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, nhìn rõ tình đời, buông rời việc thế tục hay không? Có thể nói người tại gia tu hành, lúc mạng chung Ðức Phật A Di Ðà cũng đồng đến tiếp dẫn họ. Không thể nói là người xuất gia tu hành lúc mạng chung Ðức Phật A Di Ðà cũng chẳng thể đến tiếp dẫn họ! Còn nếu đã được chút ít thành tựu, thì tự NGÃ hiện khởi, rao bày danh phận đến mức khoe khoang, được chúng khen ngợi, kính nể thì cao hứng thích thú, đến mức cuộc sống vật chất cao cấp thì vô cùng khoái trá phơi phới mặt mày, tham luyến ảo ảnh tốt đẹp, thế thì sai lầm lớn, sai lầm đặc biệt.

- Tu hành không phải là việc của một năm, mười năm, mà là việc cho cả cuộc đời, không nên cầu mau đạt hiệu quả, mà nên tu bình tâm tĩnh khí, chẳng nên tu một đoạn thời gian rồi thấy không cảm ứng thì không tu nữa, như vậy là không có tín tâm đối với Phật Ðà. “Cảm ứng” là sự lưu lộ hiển bày của Phật tánh trong con người vốn đủ, nhưng gặp mà chẳng nên cầu! Nếu đem niềm hy vọng hoàn toàn gởi gắm ở Phật và Bồ tát - nhân bên ngoài nầy, là lực lượng của duyên, mà căn bản đã phủ nhận cái Nhân (nhân bên trong) quyết định bản chất sự vật, phủ định sự nổ lực của chính mình. Hơn nữa người mới tu hành tâm lực chẳng kiên cố, động cơ cần cầu thì lại phần nhiều chẳng thuần thục, cho nên khó cầu việc cảm ứng. Niệm Phật không phải là làm cái việc mua bán, tôi đưa anh tiền, anh phải đưa lại tôi hàng hóa, cũng vậy, tôi niệm Phật, Phật nên cho tôi sự cảm ứng! Người có tâm niệm như thế là đã dính mắc “tà kiến”, làm sao được sự cảm ứng. Niệm Phật có cảm ứng là người niệm phải chí thành chuyên nhất, duyên đến tự nhiên có cảm ứng, có tác dụng mà chẳng dính mắc ở chỗ mong cầu, duyên chẳng đến thì dẫu mong cầu, lại cũng không tác dụng!

- Việc tốt đẹp của niệm Phật, không những lúc mạng chung được Ðức Phật A Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh về nước Cực Lạc ở phương tây, mà chư Phật Bồ tát, tám bộ Trời Rồng, tất cả thiện Thần còn sẽ ủng hộ người niệm Phật được bình an; Nếu công phu chín mùi còn sẽ được “niệm Phật tam muội”, phát sinh trí tuệ. Cuộc sống tinh thần được an ổn tốt đẹp, tự tại, vui vẻ; phần lớn làm giảm nhẹ đi sự “bi quan nhàm chán” ở trên mọi công tác, gia đình và xã hội, tinh thần sáng suốt và thoải mái, nhận lấy sự lợi ích vô cùng.

- “Nói ít đi một câu chuyện, niệm nhiều thêm một câu Phật”. Ngoài những lời chân chính ra, không cần phải huyên thuyên những lời trên trời dưới đất, tào lao những chuyện đông tây, mà chẳng chịu dừng (không phải là chẳng cần bàn bạc cùng với người, mà là không nói những lời nhàn tản vô ích hay tổn hại người), càng không nên khởi lên VỌNG TƯỞNG, mà sinh phiền não.

- Ðối với thuận cảnh thì mặt mày rạng rỡ cười vui, đối với nghịch cảnh thì lại buồn rầu khổ sở, đây tức là đã bị cảnh chuyển rồi, cần phải nên làm cho được đến lúc gặp thuận chẳng vui, gặp nghịch chẳng buồn, tốt - xấu đều không khởi tâm động niệm, đừng để bị cảnh chuyển lôi. Sự khởi tâm động niệm nầy là lúc NGHIỆP đang hành động (hiện hành nghiệp), nếu chấp lấy không xả bỏ, thì chẳng được vãng sanh!

- Tu hành, tức là sửa đổi cái thân hiện tại, việc ác không làm, việc tốt làm nhiều, nên không vọng tưởng, không khởi phiền não, phàm việc gì chẳng nên so kể, tình đời không nên gút - mở được thì mở, việc tục muôn duyên buông rời, công việc thì đảm nhiệm được tâm thoải mái, yên lành, tự tại, vui vẻ, xem tất cả đều thuận mắt thanh thảng thư thái, sẽ được kết cuộc thiện (lâm chung tốt đẹp).

Trong tu hành, nếu gặp phải những việc bất lợi (hay thất bại), không như ý, những việc rối rắm khốn quẩn vô lý, đều xem đó như là quả báo oan gia, tiếp nhận nó không có chút oán hận, nếu có thể thọ nhận một cách vui vẻ, lúc thọ nhận xong rồi, thì sẽ trả lại sự bình an. Nếu oán trời trách người, thì qua lần nầy sẽ tiếp đến lần khác nữa.

Tu hành, không nói đúng hay không đúng, tức là làm sao cho tự mình đúng thì thôi, còn người nhà nói lệch đi cho là anh không đúng đi nữa, cũng chẳng nên tranh biện, vì ngay khi tranh biện thì phiền não liền khởi, tâm sẽ không an. Chỉ nên quan tâm đến cái không đúng của mình, chẳng nên nói cái không đúng của người ta, nói người ta không đúng tức là cái không đúng của mình.

Nếu đã học Phật, trên cuộc sống so với ngày trước không thuận lợi bằng, lại thất chí, đó là chủ nợ (oán-thân) nhiều đời đến để đòi nợ; Nên đem công đức mà hồi hướng cho chủ nợ, thì nghiệp trước mới có thể tiêu trừ; nghiệp trước tiêu trừ thì làm việc được thuận lợi; nếu thân có bệnh, nên lấy vô bệnh để nhìn thì sẽ chẳng cảm thấy khổ, có khổ cũng nên tự rõ đó bỡi ác nghiệp đời trước mà đời nầy chịu báo, nên trả nợ, sau khi nợ hết, mới có thể thân an, quán sát như vậy mới chẳng cảm thấy khổ.

Mỗi khi gặp lời ác (xấu) đến với ta, lời phi lý dính dán đến ta, lời phỉ báng, nhục mạ, ác ý phê bình, đều chẳng nên tồn tại ở ý, chẳng phân bua đạo công bằng với người ta, nên nhìn cho thật rõ (không cố chấp), thì tâm sẽ tự bình ổn, hãy lùi một bước để trời cao biển rộng, phiền não chẳng thể sinh trưởng được.

- Nhận ân huệ không vui, chịu nhục không sân, thì tâm được tự tại. Khi khen, thì nhìn người ta vui hay không, nghe hay không; Lúc hủy báng, xem người ta có công phu nhẫn nhục hay không, chịu suy xét kiểm nghiệm hay không. Nếu có thể nhận ân huệ mà không vui, chịu nhục không sân, không khởi tâm động niệm, là có động lực không bị cảnh chuyển.

Tâm như hư không, chẳng chấp trước sắc thân, buông hết việc đời muôn duyên, phàm việc gì cũng phải xem cho rõ, buông cho rời, tự nhiên phiền não không khởi. Không tạo tác chuyện vu vơ, không trau chuốt, không khoe khoang, không phô bày, không nịnh hót, không ứng suông, chẳng làm công việc bề mặt, không đầu cơ thu lợi, không thuận mặt trái lòng; phải nên khởi lên CHÁNH TRI KIẾN, CHÁNH NIỆM, nhất tâm niệm Phật.

Ngăn chặng sự kiêu ngạo, tự lợi, tư riêng, khinh nhờn, phẫn nộ, hoài nghi, tà kiến, dục vọng. Không ham muốn thì yên tĩnh, yên tĩnh thì sáng suốt. Ngàn vạn lần cũng đừng nên chấp dính sự vật hay công việc mình yêu vui, lại càng không được ghét nhơ những gì không vui vẻ đối với mình. Buồn thương, âu lo, sợ sệt, bận tâm, vui vẻ, yêu thích, đều là đến từ sự ghét - thương của con người.

Phàm có tâm ghét - thương, đây gọi là TÌNH, nếu xem oan gia thấy như người thân, thì “tâm ghét - thương” có thể cắt đứt được.

- Học Phật tu hành, là học Phật pháp (chân lý) của đức Phật dạy bảo chúng ta, tổng kết lại một câu nói tức là: TU TÂM CHÍNH MÌNH, Phật tức ở trong tâm mình, chẳng nên hướng đến cảnh bên ngoài để cầu, mà phải hướng đến tâm mình để cầu, dùng tâm lực bình thường thực hành tám đường chánh (bát chánh đạo), tin luật nhân quả, khiến cho ba nghiệp thân, miệng, ý được thanh tịnh, ăn toàn chay, điều hòa, bình ổn tùy thuận, an tường, vui vẻ ở nội tâm, tự nhiên tự tại, sửa đổi chân chánh tư tưởng và hành vi của mình, thường thường quán sát tâm, bỏ hết những niệm đầu: bất chánh sai lầm, tối tăm nhạt nhẽo, luống dối trá ngụy; Cảnh giác ngăn dè chính mình, tự phê bình chính mình, như có lỗi lầm thì nên sám hối sửa đổi, nhưng không được phạm lỗi mà cố ý che đậy, lại càng không được sám hối để cố ý che đậy.

- Học Phật tu hành, là tu TÂM của mình, sửa đổi cho tốt cái tâm, việc tu hành mới không trở ngại, tâm niệm ác, việc làm ác, đều không nên có một chút nào, giữ tâm thiện, làm việc thiện, nói lời từ ái, đoạn dứt phiền não, vọng tưởng tạp niệm không sinh, tình đời nhìn rõ, việc tục buông rời, không bị hai cảnh thuận nghịch chuyển lôi, chẳng bị “tình” vây hãm, chẳng bị “ái” trói buột; làm cho được việc không tưởng ác cũng không tưởng thiện, nếu không tu tốt được TÂM, dẫu cho thông kinh thông giáo mà tự thân không thông, thì vẫn ra không khỏi ba cõi!

- Ở trong cuộc tu hành hàng ngày, khi dụng công phu cần phải cầu ở bên trong, dụng công ở tâm. Thứ nhất, là làm mỗi công việc đều cần cho tâm không có niệm tạp, chuyên chú rõ ràng, làm cho xong mỗi công việc dù có lâu, làm việc, niệm Phật đều nên nghiêm túc, thì đối với công tác, tiếp vật đãi nhân đều có sự giúp đỡ. Thứ hai, lúc rảnh rang việc giảng nói nên “tự hỏi tâm ở đâu?” trong khoảng thời gian nầy làm cho được việc không vọng tưởng, lâu rồi công năng phát ra, thì sẽ được an tịnh thể hội cảm giác không vọng tưởng, chầm chậm bồi giúp cho mình quán sát niệm đầu của mình, niệm đầu ngay khi khởi lên, liền biết nếu là ác thì lập tức buông bỏ. Thứ ba, bất luận là vấn đề gì phát sinh, cần phải nên quay lại quán sát chính mình là có hay không có vấn đề, tất cả đều xem ở nơi tâm mình, cần phải làm chủ (chủ động).

- Tu hành, là tu sửa cho chánh chơn cái “tâm” của ta, tu sửa cho chánh chơn hành vi và lời nói của ta. Chỉ cần có sự vận hành của tâm, thì sẽ có hành vi của thân và ngôn ngữ của miệng. Dùng tâm thanh tịnh để làm tất cả mọi việc, đây mới là sự chắc thật chân chính của tu hành. Mà không phải là chỗ thanh tịnh làm việc bẩn thỉu. Tu hành cần nên xét tự tâm, chẳng nên chỉ biết việc bên ngoài, cầu danh cầu lợi... bận rộn. Tu hành là lấy sự “Minh tâm kiến tánh” làm chủ yếu. Tất cả Phật pháp đều là nghiên cứu trạng thái biến động của tâm, tất cả việc tu hành đều là phương pháp chế phục tâm. Một đời mà chỉ cầu nơi việc bên ngoài: ăn, mặc, ở, đi, vì danh, vì lợi, hoặc vì vợ chồng con cái mà bận rộn, e rằng tạo nghiệp chẳng phải ít, thì đối với việc tu hành không có nhân trợ giúp, nhiều lắm thì cũng chỉ có thể được phước báo trời người.

Tham cái vui thế gian (tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) mà dùng tâm dùng sức rất là nhiều, lúc hưởng thụ thì lại ít, tạo nghiệp ác nhiều, tạo nghiệp thiện ít, được thì khó mà mất thì dễ, vui thì lại ít mà khổ lại nhiều.

Phật pháp chỉ bất quá là hy vọng người đời chẳng nên “chấp trước” mà thôi, thật ra chẳng phải là muốn người đời dù thế nào cũng đều không nên nghỉ tưởng, không thể làm việc; Ðây tức là: “Ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Ứng với sự không chấp giữ mà sinh tâm). Còn đời người thì là: “Hữu sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (có sự chấp giữ mà sinh tâm), đối với việc khởi tâm động niệm, cho là đồng với khái niệm suy nghĩ mà phát sinh ra sự kiên nhẫn, nhận giả làm chơn, cho nên cuộc sống không vượt ra khỏi tư tưởng non nớt. Con người tóm lại có thể khởi tâm động niệm, giải thoát cũng giống nhau, chỉ là giải thoát, chẳng nói là đình trệ ở niệm đầu, chẳng đình trệ ở niệm quán sát; cũng giống như chim bay qua bầu trời chẳng thể lưu lại dấu vết.

Con người đều có tâm, tâm nầy có lúc vui, có lúc giận, có lúc buồn, có lúc khoái, có lúc thiện, có lúc ác, có lúc thù hận người, có lúc ái mộ người; Bỡi do tâm nầy biến hóa vô thường, từ đó cuộc sống cũng khổ - vui chẳng ổn định. Cho nên tu hành nên từ nơi tâm mà bắt đầu.

Con người đối với việc quá khứ chớ nên tìm tưởng đến, tâm của quá khứ không khởi vậy. Ðối với việc vị lai chớ nên nghĩ lường, vì tâm của vị lai chẳng có thể được vậy. Ðối với việc hiện nay chớ nên vin duyên vào, vì tâm của hiện tại không có trụ yên vậy. Tuy thấy nghe rõ ràng mà chẳng quan tâm, là nói rằng chẳng khởi, chẳng khởi là vô niệm.

- Tu hành cần “rõ lý”, rõ lý là nương theo Phật pháp như pháp mà tu hành; Như niệm Phật, thì một lòng chuyên niệm, niệm nhiều, trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn. Trì giới, phàm là có tâm tổn hại đối với chúng sinh thì chẳng nên tưởng đến, thân không nên làm, miệng không nên nói. Bố thí, có tâm Từ bi, giữ lấy tâm thiện, làm việc thiện, nói lời thiện. Tự tâm thanh tịnh, không có phiền não, không tạp niệm vọng tưởng, muôn duyên thế tục buông rời. Nhẫn nhục không giận dữ, không oán hận. Tin nhân quả, tin làm thiện có báo thiện, làm ác có báo ác.

“Chẳng rõ lý”, ví như niệm Phật, cho là mười niệm, hoặc sớm tối niệm một niệm Phật là đã niệm Phật rồi, sẽ được vãng sanh Cực Lạc; Lúc niệm Phật thì tâm có Phật, còn lúc chẳng niệm Phật thì quên mất Phật, bình thường hàng ngày làm tất cả các việc ác, phiền não căn cứ theo ngày trước mà phát sinh, khí nóng nương nơi ngày cũ mà hưng khởi, dục niệm càng nhiều, tâm sự chồng chất, vọng tưởng chấp trước, mà trở thành hay không trở thành tánh tình con người, oán hận, chẳng tin có sự báo ứng của nhân quả, đây tức là không rõ lý.

- Vì sao trí tuệ của mình khai mở? Vì công phu chẳng ra sức, không có tiến bộ, nguyên nhân chủ yếu đó là tham, sân, si, mạn chưa dứt đoạn; bình thường phạm phải bệnh nầy đối với người, với công việc, với sự vật, nên quyết cần phải tự hối trách sâu xa.

Sinh tử không dứt bởi vì tham muốn thèm khát vậy. Tham là tham ái, muốn là muốn thèm, là thèm ngon. Ở thế gian nầy mà còn tham ái kiểu nầy, kiểu nọ, thì muốn rời khỏi Ta Bà là điều khó được. Chúng ta đời đời kiếp kiếp tu hành mà không thể ra khỏi ba cõi, vẫn ở nơi luân hồi cũng là do tham muốn thèm khát. Nếu không ly khai thì như nuôi oan gia, một đời tu hành toàn rơi vào trống rỗng.

Dục niệm, dục là mong muốn, niệm là vọng tưởng, hai cái nầy tuy không thể cắt đứt, cũng nên từ từ mà buông bỏ đi, chẳng như vậy thì dẫu một ngày niệm đến vài vạn tiếng danh hiệu Phật, cũng không được sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.

Ðức Phật dạy rằng “Dục” là nguồn gốc của sinh tử, cần thành tựu nhất định nên tiêu trừ tất cả “dục niệm”. Nhưng phương pháp đối trị “dục niệm, thật ra chẳng phải là dùng cách dè ép hay cấm ngăn, mà là cần chuyển hóa. Từ sự nhận biết đặc tính của “dục niệm” một cách triệt để là: Vô thường, khổ, hư vọng, chẳng được tự tại; nhận rõ ràng chân tướng của nó lại chuyển hóa thành trí tuệ, nhiên hậu lại đem nó nâng lên, rộng ra, thành là sự quan tâm đến với tất cả chúng sinh.

Nếu như tâm mình bị “bảy tình, sáu dục” che ngăn, thì không những không thể ngăn dừng hạnh ác của mình, ngược lại sẽ chuốt lấy càng nhiều những rầu buồn, phiền não và khổ đau.

Người ta ở đời đều hy vọng có một cuộc sống hạnh phúc khoái lạc, song hạnh phúc khoái lạc từ đâu mà đến? Tuyệt đối không phải là do nơi “tu phước” mà đến, thấy người giàu có ngày nay, mọi người khác ngày ngày đều mong muốn được, cả ngày mặt ủ mày chau, thật ra chẳng vui vẻ gì. “Thiểu dục tri túc” (ít ham muốn và biết đủ) là ÐẠO. Dục là năm dục sáu trần (năm dục: tài, sắc, danh, ăn, ngủ - sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), cuộc sống không thiếu, thọ dụng đủ rồi thì được, chẳng cần tham nhiều; ăn no, mặc ấm, ở thoải mái thì được rồi; Cuộc sống thảnh thơi tự tại là chân hạnh phúc, tuyệt đối không phải là ở chỗ có bao nhiêu tiền bạc giàu có và sản nghiệp; Không buồn lo, không bận tâm, cho nên nói là: “tâm yên thì lý được”, hiểu được đạo lý, sự thật chân tướng rõ ràng thì tâm sẽ được an. Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với cảnh giới của sáu trần chẳng mê, đối với việc “đối nhân xử thế” hay tiếp vật đều gom về chỗ tốt đẹp, thì tự nhiên được tốt đẹp vui vẻ.

Trong cuộc sống ngày thường, đối với năm dục như thấy sắc nghe tiếng, chẳng thể chẳng động tâm, chỉ có là trẻ nít, còn như nếu có một chút xíu tâm yêu ghét, thì ra khỏi ba cõi cũng khó rồi!

Ðem những sự tình từ thân, tâm cho đến ra ngoài thế giới... tất cả buông hết, chớ nên trở lại khởi tâm động niệm. Thị - phi, được - mất, cảnh khổ, cảnh vui, việc trước việc sau, đại khái chớ suy nghĩ; Tức lúc niệm sinh khởi khiến lập tức phải giác ngộ mà chiếu soi, chớ cùng với nó mà tiếp niệm. Cần nên biết rằng những tai ách trước mắt đều bị nghiệp ngày trước dẫn đến, đến lúc cuối cùng nghiệp duyên thì tự nhiên giải trừ.

Dứt ác tu thiện, tích lũy công đức, làm được như thế nầy, đời nầy đời sau có thể được phước báo lớn. Nhưng nếu không thể bảo đảm được đời đời kiếp kiếp không tạo nghiệp, thì khi phước báo hưởng hết, ác báo lại hiện khởi, chắc chắn đọa vào ba đường ác mà thọ khổ.

Cảnh giới hiện tiền, tập khí tâm bệnh lại đến, thấy được cảnh thuận - nghịch lại sinh tâm yêu - ghét, tham - sân - si - mạn, riêng tư tự lợi, cần gấp rút là giác ngộ, dùng một câu “A Di Ðà Phật” để thay thế tất cả niệm đầu là đúng nhất.

Chẳng nên trước cầu niệm Phật nhất tâm bất loạn, mà nên trước phải làm được công việc là niệm Phật nhiều, trong tâm có Phật, tâm thanh tịnh. Tâm không chuyển theo cảnh. Cảnh giới hiện tiền, vọng tưởng nhiều, mà tâm chuyển theo cảnh thì làm sao niệm Phật có thể nhất tâm bất loạn.

Lúc niệm Phật, mà trong tâm nghĩ suy lung tung, thậm chí tham, sân, si mạn, y như cũ chưa diệt chút nào, chẳng chơn chánh tu hành. Lúc niệm Phật mà sinh ác niệm thì không những không công, mà còn ngược lại là có tội lỗi.

Niệm Phật nếu có tín tâm chẳng đủ, lại còn muốn học những pháp môn khác, đối với việc thế gian sự hứng thú còn đầy ắp, lại trải qua ngàn đời vạn kiếp cũng vẫn vậy, sẽ mãi luân hồi nơi sáu đường.

SỬA TÂM BỆNH ÐỔI TẬP KHÍ

Sanh làm thân người, khó mà tránh khỏi những thói quen chẳng tốt (tâm bệnh), một ngày thân tâm bị cảm lấy sự nhiễm ô, nếu muốn giải trừ thói quen không tốt, nếu như chẳng ráng sức hạ quyết tâm, như thế kết quả còn khó hơn cả sự lên trời, chỉ vì: “cắt cỏ chẳng trừ gốc, gió xuân về lại mọc lên”, trước tiên phải yên tịnh mà xét nét chính mình, nhận thức chính mình, mới có thể rõ suốt được sự cuồng vọng, hung hăng, ấu trĩ và không hiểu biết của mình; cũng chỉ có nhận thức chính mình mới không thể tự đại hoặc tự ti mù quáng.

Thói quen trên hành vi, ngay lúc mới nhiễm ô nếu phát hiện phải lập tức quyết tâm sửa lỗi, thì rất là dễ sửa đổi lỗi lầm; Chỉ sợ rằng từ nơi sự bất tịnh đem tâm xét ngược lại mình, rồi nói rồi làm, có sự tổn hại đến tâm bệnh mà không tự biết; Ðợi đến lúc tổn hại tâm bệnh theo tuổi tác mà thành lớn, một ngày kia sau khi thấu triệt giác ngộ, muốn cần sửa lỗi, cũng không bằng lúc vừa mới nhiễm để được dễ dàng, chẳng qua trên đời không có việc khó, chỉ sợ người không có lòng, nhất định có thể hoàn thành được.

Sửa tâm bệnh đổi tập khí, là sửa chữa sự mê hoặc của chúng ta, sự tà kiến, vô tri, cố chấp, võ đoán, lầm lỗi bất thiện v.v... của chúng ta, do TỰ NGÃ làm trung tâm mức độ không đồng, tu sửa tư tưởng và hành vi hại người lợi mình.

Làm đến khi “chỉ có thiện không có ác”, bên trong tâm không khởi niệm mới thôi, một khi khởi niệm thì là thiện, chẳng trở lại có ác, tiến tới ngay cả thiện niệm cũng không có. Sửa đổi đến khi có thể “Ðại trí giống như ngu”, như câm như điếc, tốt xấu được mất đều chẳng động tâm, tâm kia được thanh tịnh.

Người đời nhân vì thói quen vốn có từ nhiều đời trở lại đây, cho đến đời nầy từ nhỏ đã chịu lấy sự tập nhiễm ở hoàn cảnh, mà tự nhiên hiện khởi ở thân, miệng, ý, gọi là TẬP KHÍ (thói quen). Người người đều vốn đủ có PHẬT TÁNH. Nhưng Phật tánh nầy bị sự che ngăn và trở ngại của nghiệp chướng do “tập khí vô minh” và vọng tưởng chấp trước. Ví như gương sáng bị bụi bặm phủ đầy, mất đi “tánh sáng thanh tịnh” vốn có, “tập khí” tức là bụi bặm, nên triệt để hơn nữa để sửa đổi lau dọn. Ví như muốn đạt được tốt sự “tham dục”, thì cái gì cũng muốn, cái gì cũng cần, thế nào cũng không đủ, tham không biết đủ, muốn không biết dừng; phải nên sửa đổi thành “đạm bạc thiểu dục”. Không làm tốt sự tham muốn thì bực bội, chút ít không như ý thì tức tối, vậy thì phải nên sửa thành sự nhẫn nhục và khoan dung. Không làm việc hung bạo, mở miệng thì chưởi, động tay thì đánh, cần phải sửa đổi cho tâm bình khí hòa, vui vẻ diện mạo. Không làm cho tốt việc nói láo, mà nên đổi làm lời nói trung thực và thành thật. Không giảo quyệt và gian trá, nên sửa đổi thành sự thành thật và không khinh dối. Không làm việc phù hoa xa xỉ, cần nên đổi lại là sự mộc mạc giản dị và tiết kiệm. Không làm việc riêng tư, xung khắc và đố kỵ, cần đổi lại là vì việc chung mà không riêng tư. Không làm kiểu hẹp hòi và nôn nóng, mà phải sửa đổi thành sự rộng rãi và nhẫn nại. Không làm sự gan dạ điên cuồng, mà cần phải đổi thành sự chín chắn cẩn thận. Không nặng lòng đố kỵ, ganh tỵ mà phải đổi lại là sự rộng lượng quảng đại. Không nặng lòng nghi kỵ, cần đổi lại là sự tín nhiệm người khác. Không tự đại tự mãn, cần đổi lại là: ta không bằng người, thấp giọng hạ mình nhún nhường. Luống dối đổi là thành kính, sự bộp chộp nôn nóng đổi là trầm tĩnh, kiêu ngạo đổi là khiêm tốn, biếng nhác trác tán đổi là siêng năng cần mẫn, tàn nhẫn đổi thành nhân từ, cay nghiệt đổi thành khoang dung, thiên kiến đổi thành hòa bình, keo kiệt đổi thành thí xả; sửa đổi trừ bỏ tâm ghét hận, tâm ngạo mạn, tâm thờ ơ, tâm phẫn nộ, tâm cướp lấy, tâm tình nghi, tâm buồn rầu, tâm cố chấp, tâm hẹp hòi, tâm sợ sệt, tâm quên ơn, tâm thấp hèn, tâm bi thương, tâm không có công đức, tâm cuồng vọng tự đại, tâm tự cho là phải không phục thiện, tâm riêng tư tự lợi, tâm trong mắt không có người, tâm bất bình bất mãn, tâm bất an thô tháo... Ác khẩu cũng cần sữa đổi, tóm lại những vấn đề ác niệm ác hạnh không sao kể xiết; Phàm là tư tưởng, hành vi và ngôn ngữ tổn hại đến chúng sinh đều nên sửa đổi, chẳng được riêng tư tự lợi, ra sức tranh hơn, cái gì cũng chỉ làm đầy đủ cho mình, có việc gì mà chẳng thể làm, ra sức tích đức, sao lại ra sức thông cảm bỏ qua, quí tiếc mình, ngược lại chà đạp mình! Tu hành thì cần phải “sửa tâm bệnh đổi tập khí”.

Sửa tâm bệnh đổi tập khí (cải đổi ác, tu thành thiện) là điểm bước đầu tiên tu hành học Phật, tập khí (ác) chẳng đổi, tu thiện như thế là tu không tốt rồi. Như vậy chẳng phải là tu hành học Phật!

Sửa tâm bệnh đổi tập khí phải cần “minh tâm”, cần “thành tâm”. Minh tâm là trí tuệ, đối với tất cả sự tướng, sự lý đều có thể thông đạt rõ hiểu mà không sai lầm; thế nào là thiện? Thế nào là ác? Cái gì đáng làm? Cái gì không đáng làm? Rõ ràng sáng suốt, cho nên gọi là MINH. Thành tâm tức là “chơn tâm”, “trực tâm”, “chí thành tâm”, cũng tức là ý nghĩa THÀNH. “Chẳng minh” thì không thể rõ phân thiện - ác, thị - phi. “Chẳng thành” thì dối gạt người khác, dối gạt chính mình.

Bỡi vậy MINH, ở nơi sự học Phật tu hành của chúng ta mà nói, tức là công phu soi xét. Chúng ta cần thường phản tỉnh, kiểm tra, quán sát, thì sau mới có thể làm được việc sửa lỗi, mới có thể làm được việc tu thiện. Chúng ta nếu như không có minh tâm và thành tâm, thì không hiểu được thế nào là thiện, ác, như thế còn bàn gì đến việc sửa lỗi, tu thiện!

Chỉ có người sáng suốt (MINH) thì mới hiểu thế nào là thiện, ác? Cái gì nên làm, không nên làm! Rõ ràng minh bạch. Chúng ta từng bước tìm ra tập khí (ác) tâm bệnh của mình, thì nên sửa đổi (sửa ác) bằng chơn tâm thành ý, tu thiện, không nên phô bày, không nên lơ là.

Chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật cần dùng “chơn tâm”, chẳng dối gạt mình, chẳng dối gạt bất cứ một người nào. Cuộc sống thường ngày vọng niệm (ác) không sinh, thường thường giữ gìn “chánh niệm hiện tiền”, chúng ta hiện tại dẫu chịu khổ chịu nạn, cuối cùng khổ nạn cũng sẽ qua đi rất mau. Cho nên gốc rễ lớn của pháp thế gian và và xuất thế gian tức là “sáng suốt và chí thành”.

Con người, hẳn nhiên không phải sinh ra tức là Thánh nhân liền, thế thì làm sao không có lỗi lầm? Nếu có lỗi thì chẳng nên sợ sửa đổi lỗi lầm. Lỗi nhỏ còn phải sửa đổi, còn tội lỗi quá lớn đương nhiên chẳng thể phạm được.

Nhưng sửa lỗi thì cần “phát tâm” sửa lỗi. Bàn đến việc sửa lỗi, thứ nhất cần phát tâm hổ thẹn, thứ hai cần phát tâm sợ lỗi, thứ ba cần phát tâm dõng mãnh.

“Phát tâm hổ thẹn”, người xưa nói: “Biết hổ thẹn thì gần với cái DŨNG”. Chỉ có biết hổ thẹn mới có thể chân chính sửa lỗi, mới có thể hưng phấn mà hướng lên. Chư Phật, Bồ Tát ở vô lượng kiếp về trước cũng như chúng ta, cũng là phàm phu, các Ngài ngày nay thành Phật thành Bồ Tát, ta vẫn còn luân hồi trong sáu đường, cảm thấy hổ thẹn đáng tủi hổ lắm! Như nếu thường thường phản tỉnh, tự nhiên sẽ dõng mãnh tinh tấn, chân chánh quay đầu. Người nếu chỉ biết tham luyến âm thanh, sắc đẹp, danh vọng, lợi dưỡng, buông lung tình ý, ở sau lưng người khác làm những trò (thủ đoạn) mà người không thấy được, bỡi vì người khác không thấy được, mà tự cho là đắc ý, không xấu hổ chút nào, thì sẽ lần lần biến thành cầm thú đội lốt người mà chẳng tự biết. Trên cõi đời lại không có gì so sánh được hành vi nầy, càng hổ, càng thẹn. Có thể làm đến khi biết hổ thẹn thì có thể thành Thánh Hiền, còn không biết hổ thẹn là vật gì? Chắc chắn là cầm thú rồi không còn nghi ngờ gì nữa. Chìa khóa của sự sửa lỗi tức là ở trong một niệm nầy; Người sở dĩ khác với loài cầm thú cũng chỉ sai khác ở một niệm mà thôi!

“Phát tâm sợ sệt lỗi lầm”, sợ tức là sợ sệt; Con người thường ôm lòng sợ, thế là một sức khống chế rất lớn, khiến cho mình không dám làm ác. Người khác có chỗ sợ sệt, thế thì họ sợ cái gì? Có câu rằng: “Trời đất ở trên, quỉ thần khó dối”. Gạt người dễ, gạt mình cũng dễ, gạt Chư Phật, Bồ Tát, Trời thần chẳng phải dễ, không nói đến Phật, Bồ Tát, Trời Thần mà ngay cả quỉ thần phần lớn đều có năm món thần thông, trong đó có: thiên nhãn thông, tha tâm thông v.v... Chẳng qua là năng lực đó lớn hay nhỏ không đồng mà thôi. Con người nếu khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm chỉ phạm một điểm nhỏ lỗi lầm thì quỉ thần cũng biết được rất là rõ ràng. Cho nên chúng ta sau khi đã đọc kinh luận và sách vở Thánh Hiền, thật là dựng đứng lông tơ, không có mảy mún nào có thể dối ổn. Nếu là phạm lỗi nặng nề, trời ắt giáng xuống những tai họa, nếu phạm lỗi nhỏ, thì sẽ tổn đến phước báo đời nầy. Con người không thể không sợ Trời thần, quỉ thần, một người nếu là sinh hoạt ở trong nhà tối che dấu, thì Trời thần hoặc quỉ thần cũng sẽ đồng nhìn thấy rất rõ ràng, tức là che đậy dẫu rất là kín đáo, làm rất là khéo léo, cũng không cách nào che lấp được ý niệm phát sinh tâm tư thiện ác, “ý niệm” cũng tựa như một làn sóng điện, mà quỉ thần giống như cái thể dẫn vô hình, đây cũng là quỉ thần không chỗ nào là chẳng biết, mọi người cần nên kính sợ nguyên nhân của tâm. Ðồng thời cũng không cách nào che đậy tâm tốt của mình, dối gạt mình, cho nên chúng ta làm sao mà có thể chẳng sợ được ư!

“Phát tâm mạnh mẽ và quyết tâm”; Quyết định cần phải phát ngay tâm mạnh mẽ hướng về phía trước, một người sở dĩ đã có lỗi lầm mà chẳng chịu sửa đổi, đều là do dần dà không có dũng khí chẳng thể sửa đổi, đều là do dự cẩu thả, mắc lỗi thì chịu lỗi, không thể ra tay làm một cách phấn phát, nên thụt lùi và rơi vào nguyên nhân của sự e dè sợ sệt. Cần biết sửa lỗi, nhất định ngay nơi cơ sở của lỗi, lập tức dứt bỏ, phải sửa đổi ngay, chẳng nên dần dà nghi hoặc. Lỗi nhỏ giống như gai châm trong thịt, mau chóng nhổ trừ. Phạm lỗi lớn, tai hại giống như rắn độc mổ ngón tay, cần ngay cắt bỏ ngón tay, đây là so sánh để ví dụ cần phải hạ quyết tâm quyết định, dứt tất cả ác, chẳng được có ý niệm do dự nghi ngờ chậm chạp.

Một người sửa lỗi, nếu như có thể đầy đủ ba cái tâm là: tâm hổ thẹn, tâm e sợ và tâm mạnh mẽ quyết định, như trên đã nói, thì tội lỗi chẳng câu nệ là lớn nhỏ, hễ là có lỗi, thì sữa đổi ngay; Giống như băng mỏng của mùa xuân, gặp ánh sáng mặt trời, còn sợ gì chẳng tan ư? Cho nên sửa lỗi để được thiện chắc chắn thành công.

(Tuy là có lỗi nếu có thể sửa đổi thì tốt, nhưng tuyệt đối không được cho rằng phạm lỗi có thể sửa đổi, rồi thì thường xuyên phạm cũng không sao, như thế rất là không thể được. Nếu có cái tâm nầy, tức là có tâm phạm lỗi, tội lại càng nặng thêm). Nhưng đời người vô thường, chỉ cần một hơi thở không trở lại, thì thân thể nầy không phải là của ta nữa rồi! Muốn sửa lỗi cũng không còn kịp được. Báo ứng rõ ràng, tiếng xấu muôn năm ở tại dương gian, khiến cho con hiếu cháu hiền muốn tẩy rửa cũng không tẩy rửa được. Báo ứng mờ mịt, nếu lỗi phạm là nhỏ, thì sẽ tổn hại đến phước báo hiện đời; Nếu lỗi phạm là lớn nặng, Trời sẽ giáng xuống những tai họa, chết rồi sẽ bị chìm đắm trôi lăn trong địa ngục, vĩnh viễn bị chặt mài, thì Phật, Bồ tát, cũng cứu không được, làm sao mà không đáng sợ!

Sửa ác tu thiện, có rất nhiều chỗ tốt đối với người tu hành; Chỗ tốt thấy rõ là an bình tốt đẹp, tự tại, vui vẻ; Còn việc khó thấy là sự nghiệp thuận lợi, con cái ngoan hiền, gia đình hòa mục, được nhiều người tôn kính.

Phương pháp sửa lỗi, một khi người sửa lỗi có đủ ba phương pháp: Sửa trên SỰ, sửa trên LÝ và sửa từ TÂM. Nếu công phu không đồng thì công hiệu được cũng không đồng.

Phương pháp sửa lỗi tốt nhất là sửa từ tâm, tu tâm, khiến cho tâm địa thanh tịnh - tâm không động niệm - không riêng tư ham muốn (Nhân phạm lỗi đều bỡi vì niệm đầu các việc xấu xa động ở trên tâm). Có thể tu tâm, thì niệm đầu xấu xa nhánh nhóc ấy đều sẽ biết rõ, lập tức quở trách, sẽ mau chóng dừng trụ chẳng động cái tâm; Tâm không động, thì niệm đầu xấu xa như thế đều tiêu mất, cũng sẽ không thể phạm lỗi được. Ðây tức là bí quyết chân chánh tu tâm sửa lỗi rất tinh thuần mà lại là duy nhất!

Sửa lỗi từ trên tâm là thế nào?

Lỗi lầm của con người có trăm, ngàn, vạn kiểu rất nhiều, đều là tạo ra từ nơi tâm. Tâm người - ta chẳng động niệm, các việc (thiện - ác) gì cũng không thể nào xảy ra, thế thì lỗi lầm còn có thể từ đâu mà sinh ra ư? Chúng ta sửa đổi từ tâm địa, tức là sự sửa đổi của chơn tâm, cái muốn của chơn tâm là cần sửa đổi, chơn tâm dứt ác, chơn tâm tu thiện, đây tức là dùng công phu trên tâm địa (đất tâm).

Cũng chẳng cần phải chạy theo kiểu cách, kiểm thảo, háo (ưa) danh, háo lợi, háo sắc, ưa nộ nạt... nhưng lỗi lầm rất nhiều; Chỉ cần nhất tâm hướng thiện, phát tâm bồ đề, niệm đầu chân chánh hiện ra trước mặt, làm việc thiện, nói lời thiện, như thế các niệm đầu tà vạy sẽ tự nhiêu tiêu mất.

Việc sửa lỗi, khi mới bắt đầu đều là tiến tiến lùi lùi, sửa rồi lại phạm. Không nên nhân vì nhất thời sửa không xong, thì nổi nóng trong lòng, vấn đề là cần phải có tâm nhẫn nại, tâm lâu dài, hai tâm nầy rất là quan trọng! Chỉ cần có hai tâm nầy, thì sẽ có tâm thường hằng, có nghị lực, có quyết tâm, cần thiết tha sửa đổi cái sai ngày trước, thì những tập khí tâm bệnh nầy sẽ được sửa xong. Không dễ gì dứt được trong chốc lác là xong, là dứt được liền.

Sửa tâm bệnh đổi tập khí (sửa ác tu thiện), cần có năng lực rõ biết thiện - ác, việc thiện lớn thì có công nhiều, việc thiện nhỏ thì có công ít. Việc ác lớn thì lỗi nhiều, việc ác nhỏ thì lỗi ít. Tốt nhất là đặc ra một cái “Giá công - tội”, qui định tất cả hành vi thiện ác đều cần phải nhớ lấy, tự mình nhớ, nhớ công việc hàng ngày của mình, cần có tâm thường xuyên, tâm nhẫn nại và tâm quyết định, chẳng nên sợ phiền toái, hoặc so tính! Chẳng nhớ được, như thế thì khó thành công. Phàm khởi tâm động niệm, lời nói và việc làm các việc thiện - ác nhỏ nhặt đều nên nhớ lấy, tùy lúc tùy chỗ mà nhớ. Mang theo bên mình một cây bút nhỏ hai ngòi, một khi có những ý niệm, hành vi, lời nói thiện ác thì nhớ lấy, tối về lại ghi ở trên “giá công - tội”.

Lúc mới bắt đầu tu nhất định thiện và ác xen lộn với nhau, chúng ta mỗi ngày nên nhớ lấy, lần lần thiện nhiều ác ít, thời gian sẽ làm được “chỉ có thiện không có ác”. “Giá công - tội” một khi mở ra đều là thiện, không có ác, chỉ cần làm được một ngày nầy, tiêu nghiệp chướng nhất định thấy hiệu quả. Nói cách khác, một năm làm được thì một năm thấy hiệu quả, mười năm làm được thì mười năm thấy hiệu quả.

Thời gian mới học của chúng ta, mọi người đều giống nhau, lúc ban đầu đều rất khó, thiện và ác lộn xộn. Giá công - tội một khi mở ra xem ta, xem ta ngày nay đã khởi bao nhiêu niệm ác hạnh ác? Ðã khởi bao nhiêu niệm thiện hạnh thiện? Trong một ngày thiện nhiều hay ác nhiều? So sánh hàng ngày cho đến hàng năm. Nếu như mọi người có thể thật sự làm được như thế nầy, chẳng ngoài năm năm thì có thể làm được “chỉ có thiện không có ác”. Ở trong tâm chẳng khởi niệm thì thôi, một khi khởi niệm thì là thiện, chẳng có ác, đến lúc nầy mà hành trì thì tự nhiên tự tại, xứng họp với tâm rất nhiều. Có thể làm được ngay cả thiện niệm cũng đều không có, tâm không có niệm khác, chỉ biết niệm Phật không dứt, chẳng bị loạn bỡi cảnh bên ngoài, đến lúc nầy thì có được sự tương ứng. Tương ứng là thân tâm an tường, tự tại và vui vẻ.

Chúng ta khởi tâm động niệm đều là tâm thiện không có niệm khác, vì sao không được tương ứng ư? Thế thì tự mình phải nên rõ biết, ứng là việc ác đã làm trong đời quá khứ, não hại chúng sinh, tội chướng rất nặng, phải rơi vào tội báo của ba đường ác, bây giờ còn có may mắn sửa ác tu thiện, tin theo Phật pháp tùy thời tùy chỗ mà niệm A Di Ðà Phật, cho nên trước mắt nầy người đời một chút khổ nhỏ, chính để tiêu diệt tội nặng của ba đường ác lớn lao, cho nên phải nhẫn chịu, không được nói lời không có nhân quả, hủy báng Phật pháp, nên biết rằng hủy báng Phật tội lỗi rất nặng! Ðây là câu “Trọng báo khinh thọ” mà trong kinh Phật thường giảng. Kinh Kim Cang dạy rằng:

Người thiện nam, kẻ thiện nữ, thọ trì đọc tụng kinh nầy, nếu bị người khinh chê, đó là tội nghiệp đời trước của người, nên rơi vào đường ác, vì do đời nầy người ta khinh chê, thì tội nghiệp đời trước tức được tiêu diệt, nên được: Vô thượng chánh đẳng chánh giác”.

Cho nên đối với đạo lý nhân quả báo ứng cần phải tin tưởng sâu xa, chẳng được có mảy may nghi ngờ sai lệch. Ðồng thời phải nên kiểm thảo tư tưởng, hành vi của mình, và kiểm thảo câu niệm Phật, có phải là niệm chí thành cung kính hay không? Có phải niệm tùy thời tùy chỗ, niệm nhiều hay không? Ðối với bất cứ người nào, xử sự, tiếp vật có cung kính khiêm tốn hay không? Một mức bình đẳng, có cống cao ngã mạn hay không?

Sửa tâm bệnh đổi tập khí (đổi ác tu thiện), chứa nhóm công đức, nếu có thể tu tất cả thiện, lìa tất cả tướng, thì sẽ tiêu nghiệp trừ chướng, quả báo nặng mà nhận thọ nhẹ, là công dụng hiệu quả tốt nhất. Tốt nhất là niệm ác không sinh, ngay cả niệm thiện cũng không có, làm được “tâm chẳng động niệm” (vô niệm), lìa tất cả tướng, tất cả chẳng chấp trước, niệm Phật chẳng dứt, trong tâm có Phật, vãng sanh thế giới Cực Lạc là điều chắc chắn! Ðời nầy còn có khả năng được “Niệm Phật tam muội”.

Chúng ta bị hủy hoại bỡi tâm bệnh từ rất lâu xa đến nay, thì chẳng dễ dàng mau chóng có thể sửa đổi trừ bỏ. Nếu biết rằng tâm tham và sự phẩn nộ của chúng ta đều đã rất là khốn đốn và nguy nan, huống chi chúng ta chỉ phân tích chính mình, chuyển biến chính mình, chuyển hóa tâm ý, nhất định cần từ từ trải qua một khoảng thời gian mới có thể thành công được. Chỉ cần chúng ta từng bước từng bước, tự mình tiến tới, theo từng bước nhận thức được thói quen xấu xa của mình; Ðồng thời phát huy tích cực tiềm lực tiến lên, nổ lực chẳng nên lười mỏi, thì cuối cùng sẽ đạt được cảnh giới thành công.

Tóm lại, người tu hành “sửa tâm bệnh đổi tập khí”, đều do phát tâm của mình, người khác chỉ khuyên nhắc, nếu mình không sửa đổi, thì họ cũng chẳng làm gì được cho mình, sửa đổi hay không hoàn toàn ở chính mình.

·CẨN THẬN RIÊNG MÌNH:

Người ta phàm có những việc tạo tác và hành vi, khởi tâm động niệm, Phật, Bồ tát cho đến quỉ thần, không có việc gì là chẳng thấy hết biết hết, nếu lúc dấy lên tư tưởng như thế, thì tự không dám tạo tác hồ đồ và hành vi cuồng vọng.

·TÂM TRỐNG RỖNG:

Người thường chẳng hiểu thiện - ác, chẳng sợ nhân quả, quyết không chịu nhận mình có lỗi, thì nói gì đến việc cải đổi? Nhưng Thánh Hiền ngày xưa thì không phải vậy. Nay đưa ra một ví dụ, Ðức Khổng Tử nói rằng: “Năm mươi vì tuổi còn dùng cái học để sửa trị, cho nên không lỗi lớn”.

·SUY XÉT:

Ðã vậy rồi, tức cần phải thường suy xét, từng lời nói từng việc làm, là thiện ư? là ác ư? Nếu đó là ác thì phải cố gắng mà sửa đổi, ngoài việc từng giờ chú ý sửa lỗi ra, lại ở mỗi ngày trước lúc sắp ngủ, bèn đem việc đã làm một ngày mà suy nghĩ thật rõ ràng.

·SỬA ÐỔI:

Sau khi suy xét, nếu biết là lỗi tức thì ra sức sửa đổi, chư vị nên biết rằng việc sửa lỗi bèn là quan minh lỗi lạc mười phần, đủ để biểu thị nhân cách vĩ đại. Người xưa nói rằng: “Lỗi mà có thể biết là MINH, biết mà có thể sửa đổi tức là THÁNH”. Vì vậy có thể nào mà chẳng cố gắng ư! Việc sửa lỗi nói thì dễ mà làm thì khó, cho nên càng sửa càng phạm, tự mình chưa có thể mạnh mẽ làm chủ được, thật ra do thói quen huân tập của ngày trước từ vô thỉ đem đến, thế nên mong rằng mọi người thường nên niệm Phật để gia trì, chí tâm chí kính khẩn thiết mà sám hối nghiệp đời trước từ vô thỉ, trong mờ mịt tự có sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Nương nơi lực Từ bi của Phật gia bị, nghiệp sẽ tiêu, trí sẽ sáng, thì việc sửa đổi lỗi lầm ngõ hầu có thể viên mãn thành tựu, đời hiện tại bước vào cõi Thánh Hiền, lúc mạng chung vãng sanh Cực Lạc, đây có thể là sự tính toán trước của chư vị vậy.

·CHỊU THUA THIỆT:

Người xưa nói rằng:

Ta không biết những gì là Quân Tử, chỉ nhìn ở ngay sự chịu thua thiệt từng công việc; Ta không nhận thức được những gì là Tiểu nhân, chỉ xem ngay nơi những tiện nghi mà họ chiếm giữ ở nơi công việc”.

Không biện bạch khi nghe hủy báng, người xưa nói rằng: “Làm sao dứt được sự hủy báng? - Ðáp rằng: Không biện bạch”. Lại nói rằng: “Nuốt chịu sự thua thiệt nhỏ, thì không đến nỗi nuốt chịu sự thua thiệt lớn”.

·KHÔNG TRANH CHẤP:

“Tranh”, là cái nhân nuôi dưỡng sự tổn thương và có hại. Tranh danh, tranh lợi, việc lớn tranh, việc nhỏ cũng tranh. Chỉ cần có tranh chấp thì sẽ có phân ra cao thấp, chia thành mạnh yếu, có niệm được mất, sẽ khó lấy khó bỏ, do tranh mà quay mặt thành cừu thù, vì sao vậy? Chỉ vì tâm riêng tư, vì sỉ diện, sẵn sàng tranh cho được, cả hai đều bại, đều tổn thương, thậm chí mất mạng ở chốn suối vàng. Người chẳng tranh chấp mới có thể nhìn rõ sự thật; Ðã tranh chấp thì loạn, đã loạn thì phạm lỗi, phạm thì thất bại. Con người thường thường rất là chấp trước mà sinh ra tâm phân biệt. Là anh, là tôi, phân biệt rất rõ ràng, đến nỗi liều mạng cho sự yêu thích của ta mà đi tranh chấp cầu mong, tranh cái tốt, tranh cho nhiều, mạnh hơn người; Tâm tranh chấp một khi khởi lên, thế nào là nhân tình, hữu nghị, công lý, chánh nghĩa đều quên hết! Con người phần lớn tâm danh - lợi rất nhiều, còn có tâm háo thắng, tranh chấp với người, tranh chấp với công việc. Nếu như không tranh chấp với người thì người an, không tranh chấp với công việc thì việc an, người và công việc nếu mà ta không tranh thì thế giới bình an. Thà có thể chịu một chút thua thiệt, chẳng chiếm lấy sự tiện nghi, thì sẽ không có sự tranh chấp.

Như đời nhà Thanh có một vị đại quan, nhận được một lá thư nhà của con cái dưới quê gởi lên, nhân vì sự phân chia ranh giới những người ở trong nhà mà xảy ra việc tranh chấp, cả hai bên không chịu nhường nhau nên tranh chấp mãi, mấy lần động đến võ lực, con cái muốn dựa vào quyền thế chức vị con của quan để mà tranh lấy thể diện, nhưng vị quan nầy là vị quan lớn có sự tu dưỡng đạo đức, ông ta sau khi đọc xong thư mĩm cười, rồi ghi vào đầu thư trả lời cho con cái - thư viết rằng: “Ngàn dặm gởi thư chỉ vì tướng, ngại gì ba tấc chẳng chịu nhường, trường thành còn đó dài vạn dặm, giờ đây chẳng thấy Tần Thủy Hoàng”. Có thể xem ra thì không có gì tốt đẹp cho việc tranh chấp cả. Trong truyện Tế Công cũng có hai câu: “Dẫu có ôm giữ ngàn gian nhà, một thân khó nằm được hai giường”.

·KHÔNG OÁN HẬN:

Oán hận là biển khổ, sẽ nhìn kiểu nầy không đúng, kiểu kia không tốt, oán trời trách người, sinh tức giận; Thọ điều uẩn khúc, nhận lấy thiệt thòi, các việc không như ý thì sinh tâm hận, càng nghĩ càng tức, đến nỗi không chuốt lấy họa thì cũng sinh bệnh; Khí oán hận có độc, tích chứa nhiều thì sẽ thương tổn nơi thân. Xem ra thì chẳng nên oán, khoang dung thì chẳng chuốt hận. Nếu gặp việc ngược lại, thì nên nhận thức rằng bỡi do kiếp trước chẳng chịu trồng nhân thiện, đời nầy mới bị quả báo ác, coi nó là quả báo oán, thọ nhân một cách vui mừng rồi sẽ qua đi; Nếu như thọ rồi, mà trong tâm bất mãn, muốn trả báo phục thù, thì lần kia lần nầy qua rồi, lần sau sẽ lại đến.

Phàm là người đối với ai đã từng chưởi ta, trêu chọc ta, đánh ta, thì canh cánh ở trong lòng, nỗi oán hận đó sẽ mãi mãi không có một ngày bình yên dừng dứt. Nỗi oán hận trong tâm con người không thể nhân vì đem ra oán hận người khác mà được bình yên và dừng nghỉ, duy chỉ có quên bỏ đi oán hận, thì nỗi oán hận mới có thể bình yên và dừng nghỉ.

·KHÔNG SO SÁNH VỚI NHÀ NGƯỜI KHÁC:

Hoàn cảnh gặp phải ở mỗi người không đồng, thể chất trí tuệ ở mỗi người mỗi khác, nếu muốn được thông, thì không có cái gì tốt so sánh cả. Tự mình kiếm được cái gì, ăn gì, mặc gì nếu thua nhà người khác thì không thể diện! Bỡi vì thể diện mà ra sức so sánh với người ta, thì sẽ không vãng sanh được Cực Lạc, vì sao vậy? Bỡi vì anh muốn so ra tốt hơn người ta, tận lực bận rộn ở việc thế tục, thế thì có lòng dạ nào để tu hành!

·CHẲNG ÐỐ KỴ:

Người đố kỵ ganh ghét chẳng thấy được thành công của người khác, hoặc việc tốt hơn của người khác; Chỉ cần người nào đó tốt hơn anh ta, mạnh hơn anh ta, thì anh ta ghét hận xốn mắt gay lòng, thế là chọn lấy những thủ đoạn: làm tổn thương, phá hoại, bài xích, phản kháng, hủy diệt... chỉ có anh ta mới tốt hơn, mạnh hơn người khác; Còn nếu người khác tốt hơn, mạnh hơn anh ta, thì không thích, không vui; Ðây là không có tâm Từ bi.

·KHÔNG HỐI HẬN:

Vì sao phải làm kiểu nầy ư? Làm như thế thì chẳng tốt sao? Tự oán tự trừng trị, theo niềm hối hận mà áo não, tự trách, sai lầm lại càng sai lầm, hối hận không giúp gì được cho công việc. Nên tìm biện pháp sửa đổi lỗi lầm, hoặc là lần sau chẳng làm như thế nầy thì tốt, xem ra mọi người đều là Bồ Tát, ta là phàm phu, làm việc khó tránh khỏi không có lỗi lầm, đã lỗi thì nên SÁM HỐI mà sửa đổi, tâm sẽ được an. Cho nên chỉ đóng khung trong sự hối hận, thì đối với sự việc có giúp ích gì đâu?

·KHÔNG NGHI NGỜ:

Hoài nghi đối với chân lý, đối với chính mình cũng hoài nghi, mỗi một việc đều hoài nghi. Ðã có tâm nghi thì không thể tin chân chánh, sẽ trở ngại cho sự nghiệp của mình không thể thành công, là gốc rễ trở ngại trên còn đường tiến vào Phật đạo.

·THA THỨ:

Tha thứ, không riêng gì lỗi lầm được người khoang thứ, mà ngược lại đem lỗi lầm nầy tự xét lấy, bỡi vì Phật pháp chú trọng nhân quả, ví dụ người ta mắc tội với anh, mà anh nhất định cần phải báo phục, việc gì cũng quyết báo, thì “oan oan tương báo” đến bao giờ dứt? Cho nên việc có thể tha thứ thì tha thứ, chẳng nên đắc lý mà chẳng tha người, có thể tha thứ người thì vui vẻ không dứt. Tha thứ người, những phương tiện đối với mình, tâm không trở ngại, không còn tồn tại tâm báo phục, tâm tự nhiên được rỗng rang, được tự tại nhiều, vui sao chẳng làm!? Huống nữa người ta mắc tội với anh, dẫu cho có báo phục được, thì đối với những tổn thất trước kia cũng chẳng nên đòi lại, song thì tội khổ gì mà lại trồng lấy oán cừu. Nếu người khác mắc tội với ta, không những chẳng quở trách họ, mà còn phải cảm ơn họ, là đời trước của ta đối với họ không tốt, nên đời nầy họ đến đòi nợ, trả được cho người ta thì sự kết oán được giải trừ.

·KHÔNG CHỖ MONG CẦU:

Học Phật tu hành cần đạt được tâm cảnh “không chỗ mong cầu”. Như bố thí, là vì tu được tâm thanh tịnh; Nếu như bố thí là vì tiêu trừ nghiệp chướng hay là làm công đức, thì đó là “có chỗ mong cầu”.

·CẢNH MỘNG VÀ HIỆN THỰC:

Cái thấy ở trong mộng và cái gặp ở lúc thức, đồng là một loại cảnh huyễn; Ðời người đi qua, đâu từng chẳng là một loại cảnh mộng ư? Vấn đề là ở nơi người đời khởi tâm phân biệt. Nếu tâm chẳng trụ, thì chơn hay giả, có gì phân rõ đâu? Việc quá khứ ngày nay lục lọi để nhớ, đâu từng chẳng phải là cảnh mộng? Ngày trước giàu có vinh hoa, ngày nay liền nghèo khó như tẩy rửa, lại đâu từng chẳng phải là một cuộc mộng Nam Kha? Ðó là vì chơn giả giả chơn, thật ra là ở tâm của con người khiến vậy. Ðức Phật nói rằng: “Ba tâm chẳng trụ, tánh vẫn như như”. Thế nào gọi là ba tâm? - Việc quá khứ, không khởi tâm nhớ tưởng phân biệt; - Việc hiện tại, không khởi tâm niệm tha thiết mong cầu; - Việc vị lai, không khởi tâm tưởng vin vào duyên. Ðó là ba tâm an trụ, ngược lại là ba tâm chẳng trụ, vì người ôm ấp rõ ràng như thế.

·NHÂN DUYÊN PHIỀN NÃO:

Ban đầu của người đời vốn là rỗng rang thơ thới, không chỗ mong cầu. Nhưng khi khởi tâm phân biệt, liền sinh ra rất nhiều mầm rễ phiền não. Ví như giàu có và nghèo nàn, đều là do tâm phân biệt của con người làm ra, nếu không có “sự tham đắm” giàu có thì nghèo cũng vui, nếu không có “sự phân biệt” cái quí, thì cái hèn cũng chẳng biết, làm sao có phiền não, nếu có thể xét thấu được muôn tướng là một lý, sự mong muốn sẽ tự tiêu diệt, thì phiền não làm sao đến được.

·MUỐI:

Phật Giáo đồ nên có tinh thần giống như “Muối”, độ lượng giống như “Muối”, một lòng giúp người mà chẳng cầu danh. Muối là một vật, mà hết thảy mọi người đều biết nó là vật phẩm phổ thông thấp hèn không gì đáng nói; Nhưng nếu đem công sức của muối mà nói, thì có sự quan hệ nặng nhẹ trong vấn đề đưa ra: Muối có thể ngăn ngừa được sự thối rữa, lại có thể điều chỉnh được vị, đồ ăn ngon trăm vị đều gọi muối là bực trên, nếu không có sự điều chỉnh vị của muối, thì chắc chắn nhạt nhẽo mà lại thiếu vị, đủ thấy rằng sức lực của muối có thể nghĩ biết. Chỉ duy ở nơi sau những bàn tiệc thịnh soạn mỗi người thưởng thức xong, chỉ ra sức khen món nầy quí, món kia ngon, còn đối với muối - công đầu to lớn - thì nửa chữ cũng không được nêu lên, thật khiến cho người làm muối chẳng có giá trị gì cả. Mà muối thì “công” lại thành mà “thân” lại thối lui, đây cũng tức là sự trân trọng về muối khiến cho người ta khâm phục, địa vị tuy thấp hèn không đáng để nói, mà công sức thì đứng ở bực trên.

Lại nói rằng: Như vậy thì học như thế nào? Vả lại quán sát tiền thân của muối, muối là nước biển, nhân tánh của nước nhu hòa, bằng phẳng không góc cạnh, không phải thể cứng nhắc, để trong vật tròn thì tròn, để trong vật vuông thì vuông, ở trong biển lớn cũng chỉ dung thân, để trong vò trong bình cũng yên như vậy... làm người cũng nên như vậy.

·LÀM NGƯỜI, LÀM VIỆC:

Tâm người xưa nay bình thường nhạt nhạt, nếu như gặp dính mắc với sự hấp dẫn của vật bên ngoài liền nổi sóng, khởi lặng không nhất định, phiền não theo đó mà dẫn đến. Cho nên làm người gặp lúc tâm nổi sóng nhỏ, liền cần phải ra sức ức chế làn sóng suy nghĩ của mình, ngăn chặn ham muốn của mình, cho nên công việc làm người quyết nên tùy thời khống chế tâm mình, chẳng nên để người khác nổi sóng, cuộc sống cũng nên tùy thời mà kiểm thảo. Làm việc trước tiên phải từ góc độ xấu mà suy tưởng, ngược lại không nên từ góc độ tốt mà nhìn, như thế lại yên ổn đáng để dựa nương. Giả sử xử một việc gì, nếu từ phương diện tốt mà nhìn, nhất định không nhìn thấy tất cả, đáo đầu lại là một thất bại, lại không có gì, thất vọng càng sâu; Nếu trước tiên từ phương diện xấu mà nhìn, dẫu cho mất đi cũng chẳng đến nỗi thất vọng. Làm người, làm việc thế nầy chẳng thể chẳng biết.

·KHOẢNG CÁCH NHÂN - NGÃ:

Người tức là ta, ta tức là người, người và ta không khác biệt. Kỳ thật thế nào là công danh, thế nào là phú quí, đều là giả tướng, hà tất tranh giành? Sao lại khởi niệm nhân – ngã? Có chỗ nói rằng: “Ngủ đến nửa đêm, cái gì là công danh đều là bóng huyễn, nghĩ sau trăm năm, không luận già trẻ, đều là người xưa!”; Bình tâm tịnh khí nghĩ thử xem. Nếu anh lấy “ta” làm “người”, thì đối phương rất là thân thiết đối với anh ta, lấy “người” làm “ta”, thì làm việc chắc chắn được người kính trọng. Cho nên ranh giới “Nhân - Ngã” cần phải đả phá.

Làm người cần phải giữ bổn phận, mỗi việc đều hết phận mình, làm gì thì giống nấy, làm cha phải ra cha, làm con phải ra con. Kính để mà xử sự. Thành để mà đối đãi với người. Lề luật cho mình cần phải nghiêm, đối đãi với người cần phải khoang dung, từ ái, hiền lành, nhan sắc hòa vui, nêu tình thân thiết, phong độ nhún nhường.

Công tác cần gánh vát hết chức trách, kính hòa vui vẻ với mọi người, tài nhiều dùng ít, việc đảm nhiệm thoải mái, tài ít mà dùng nhiều, lại không thể đeo đuổi mục tiêu cao xa.

·THƯỜNG LAO ÐỘNG:

Công việc không nên phân ra cao quí hay thấp hèn, những việc nầy làm, những việc kia không làm, chẳng nên làm kẻ cả cần người đến hầu hạ, những việc người khác không muốn làm, như quét dọn lau chùi, ta đến làm, như không lao nhọc, làm nhiều một chút lại ngại gì, công việc nhọc về sức lực, vừa làm vừa niệm Phật, công việc làm xong, Phật cũng niệm xong, sao vui mà chẳng làm! Không nên là có những công việc nầy không họp với thân phận của ta, ta nghĩ chẳng thể làm; mà công việc đã làm thì thân thể khỏe mạnh, tức là được phước báo.

·TIẾC VẬT, TIẾC PHƯỚC, CHẲNG BỎ PHƯỚC:

Trong cách ngôn “Chu Tử trị gia” nói rằng: “Chút cháo chút cơm nên nghĩ chỗ đem đến chẳng phải dễ, cọng tơ đoạn chỉ thường nhớ sức của vật khó khăn”. Bình thường hàng ngày chỉ cần mặc kín ăn no là đủ rồi, chẳng nên lại tham cầu không nhàm chán, xa xỉ lãng phí, quá dính mắc cuộc sống say bạc mê vàng.

Ðồ có thể ăn chẳng nên vứt bỏ, đồ có thể dùng chẳng nên xử lý như rác rưởi. Ðồ ăn, ăn bao nhiêu thì nấu bấy nhiêu, hoặc mua bấy nhiêu, không nên nấu nhiều hoặc mua nhiều, ăn không hết thì lại vứt bỏ. Ðồ mặc, mặc đồ chẳng được vài lần hoặc chút ít không được lưu hành (lỗi thời) thì xử lý như đồ rác rưởi. Ðồ vật còn có thể dùng được không nên chê cũ mà vứt bỏ để mua cái mới... đều tức là không tiếc vật, không tiếc vật tức là không tiếc phước. Chẳng nên cho là ăn mặc của hiện tại đều là dùng tiền của mình để mua, tiền của ta nhiều, cần tiêu gì thì tiêu, nên biết PHƯỚC của con người là phước có hạn lượng, mà anh lãng phí chà đạp một cách không hạn lượng, thế thì phước của chúng ta hưởng dùng hết rồi, đáo đầu lại là lúc bần cùng thiếu thốn, hưởng thọ cuộc sống sẽ không tốt đẹp được.

Không hiểu được sự tiếc phước, mà tùy ý lãng phí tiêu xài rộng rãi, rốt cuộc cũng giống như những người lớn tuổi, chỉ có thể thỉnh thoảng di động thân thể một chút, lại cũng không thể nào giống như kiểu không bị trói buột của trẻ nhỏ, sức lực tung tăng đầy đủ; không cách nào lấy tâm bình thường để xem và đối đãi trong thời gian hiện tại, cư xử với cảnh rất là buồn rầu.

Học Phật tu hành cần phải tu phước và tiếc phước. Tiếc phước tức là chẳng bỏ phước, bỏ phước tức là xa xỉ lãng phí trong việc đi, ở, ăn, mặc đối với cuộc sống thường ngày của chúng ta, gọi là “bỏ phước”. Người tiếc phước thì yêu tiếc phước báo, đây cũng là cái “Ðức Kiệm” truyền thống của chúng ta, KIỆM là tiết kiệm, kiệm không phải là keo kiệt, kiệm - tức là có sự chi phối của kế hoạch, thành quả của chỗ được, nắm vững nguyên tắc họp tình, họp lý, tự qui ước, tự chế định, đối với các khoảng tiền bạc trong cuộc sống, lấy tâm tình quí tiếc mà sử dụng cẩn thận nghiêm túc, ra sức cầu bớt phóng túng, cố gắng giảm bớt, ngõ hầu chẳng đến nỗi tàn hại hết của trời, lãng phí nguồn sống.

“Tiết kiệm” là tiếc phước ở trong Phật giáo, là đối với cuộc sống của mình, không nên xa xỉ. Tiết kiệm về tiền tài để đem làm việc cúng đường Tam bảo, cứu trợ người nghèo hoặc phóng sinh, đều chẳng phải là keo kiệt không xả bỏ. Làm bố thí tức là tu phước vậy.

Người có tiền làm việc bố thí (tu phước) rất là dễ; Nhưng bỏ phước (tạo nghiệp tội) cũng càng dễ hơn. Ví dụ như ăn cơm bình thường chỉ tiêu hơn ngàn đồng, còn ăn nhậu say xưa đến vạn đồng; Mặc đồ thì mặc hàng hiệu, họp thời trang, thế nầy lãng phí chẳng biết là bao nhiêu? Thức ăn là những gì? Toàn là thân thể, thịt, sinh mạng của chúng sinh, cho thỏa mãn sự ham muốn ngon miệng no bụng của mình.

Người có tiền là có phước báo hơn, phước báo là việc của đời trước đem lại cho đời nầy, nếu có thể lấy phước để đắp bồi thêm phước, thì phước báo càng ngày càng lớn, muốn mình tu hành, cuộc sống đừng để sự nhàn rỗi chen vào, phương diện tự lợi rất tốt cho dụng công. Muốn nghĩ đến việc lợi tha cũng rất dễ, nhu cầu của lợi tha là có phước báo - có tiền - mình có phước báo có tiền tài, muốn lợi tha cần cứu giúp kẻ nghèo khó thì làm, muốn cúng dường Tam bảo thì cúng; Có tiền thì có thể dùng nó cúng dường Tam bảo, lợi ích chúng sinh, đây gọi là lấy phước bồi thêm phước, phước báo càng ngày càng thêm lớn. Nếu không có phước báo, thì miếng ăn của mình cũng là vấn đề phải lo, thì sao có thể tu hành dụng công? Cuộc sống của mình chẳng được đủ, sao có thể trên thì cúng dường Tam bảo, dưới lợi lạc cho chúng sinh? Cho nên nói là nhất định cần phải có phước. Phước đời trước vun đắp được bao nhiêu, tự thân chúng ta không biết được, ngày nay trồng thêm thì tự mình có thể làm chủ được. Mong mọi người nổ lực tu phước, nên phải tu phước thanh tịnh phước mà tịnh lại gọi là “tịnh nghiệp”.

Người bần cùng, đời nầy phước mỏng là bỡi do đời trước không có vun bồi phước, tức là thiếu việc bố thí. Muốn tu hành thì tu không được, ma chướng rất là nhiều; - Thứ nhất là “ma bệnh”, không tu hành dụng công để không có bệnh, ngay khi muốn tu hành dụng công, thì bệnh nầy bệnh kia kéo đến. Bỡi vì phước mỏng không có tiền bạc, đã hại bệnh không có thuốc để dùng, như vậy làm sao mà tu hành? Ðây gọi là “ma bệnh”. - Thứ hai, là “ma công việc”, bỡi vì phước mỏng thì cuộc sống sẽ gian nan khốn khổ, bỡi vì cuộc sống không đủ đầy nên phải lặn lội mưu sinh, từ sáng bận rộn đến tối, bận rộn để được đủ ấm đủ no một cách miễn cưỡng, cách nầy vì mưu sinh mà phải đắng cay làm việc, làm đến khi tinh thần mỏi mệt, sức lực suy tàn, thế làm sao mà tu hành được? Ðây gọi là “ma công việc”. Ma bệnh, ma công việc, tóm lại thuộc về “Ma phiền não”. Bỡi vì phiền não nổi lên lăng xăng khiến cho thân bất an, tâm bất an, làm sao mà tu hành được?

Ðây là người bần cùng, đời trước không tu được phước, đời nầy phước mỏng nên nghèo khó, chỉ có đời nầy gấp rút nổ lực tu phước; Vậy thì phải tu như thế nào?

Thứ nhất, nên tinh tấn TRÌ GIỚI, trì giới là nghiệp chính đối với nghiệp tội mà nói, trì giới là “phòng phi chỉ ác” (ngừa phòng sự sai quấy, dừng dứt việc ác), chẳng vì việc sai quấy mà làm ác, tức là không tạo tội, không tạo tội thì làm thiện, mà làm việc thiện tức là vun bồi thêm phước.

Thứ hai, ăn toàn chay.

Thứ ba, đọc tụng kinh điển đại thừa, phát nguyện mỗi ngày nên tụng kinh Di Ðà mấy quyển.

Thứ tư, mỗi ngày đều niệm Phật, hàng giờ thường xuyên niệm Phật, thế là vun bồi thêm phước lớn; Ðây đều là chẳng cần phải xin tiền bạc, mà phải cố gắng nổ lực tu hành.

Cho đến việc bố thí, chẳng thể đem tiền mà bố thí, có thể đem pháp mà bố thí, đem Phật pháp mình nghe được, chuyển nói cho người khác nghe, đây là bố thí pháp chẳng tốn tiền. Lại nói rằng người phước mỏng có thể đem tiền mà bố thí hay không? - Một là có thể làm, chỉ cần xem là có phát tâm hay không? Người nghèo khó tiền bạc thiếu thốn, chỉ cần sự phát tâm, thì có thể từ sự chi dụng ở trong cuộc sống tiết kiệm ra một hai trăm, một hai ngàn đồng mà thành tâm bố thí cầu phước, như thế nầy so ra công đức còn lớn hơn người có tiền bố thí trăm ngàn vạn ngàn đồng, sự vun bồi phước còn nhiều hơn. Ðây là nói người phước mỏng muốn cần tự mình dụng công tu hành, thì đối với nơi có chướng ngại, cần nghĩ vì tưởng đến lợi ích chúng sinh, nên chỗ cầu mong chẳng thể mãn nguyện.

Tiết kiệm không phải là keo kiệt, tham lam và bần tiện. Người tiết kiệm là lường so được đầu vào mà xuất ra, ngay lúc tính xét thì tính xét, đến lúc dùng thì dùng; Người keo kiệt thì tính toán đầu ra để mà thu vào, có thể xét thì bèn xét, cái không đáng xét cũng xét, cái đáng dùng cũng chẳng dùng.

Có thể ở đời nầy được giàu có, khỏe mạnh, quyền thế, danh tiếng, bình yên, khoái lạc v.v... đều là phước báo, nhưng nếu không khéo, phước báo ấy ngược lại là nhân của sự đọa lạc, khiến người lãng phí vô độ, phí phạm của trời, tranh quyền đoạt lợi, tự tư tự lợi, vì phước báo mà sinh ra tham - sân - si, chính là nguồn gốc sinh khởi ra tai nạn và nghiệp chướng.

Nếu nhìn mà không thấy đối với ác nghiệp, như thế có một ngày nghiệp ác sẽ tìm đến ngay cửa, cần phải biết rằng phước báo cũng rất là mau chóng bị dùng hết (tổn phước mau chóng), nhưng sự chứa nhóm phước báo ngược lại rất khó khăn, lập tức khiến có một ngày, đó là người trời cũng có “tướng suy” hiện khởi; Chúng ta có thể nào chẳng “tiếc phước” ư? phước báo là việc khó được mười phần!

Chúng ta đọa lạc bỡi vì hưởng thụ phước báo mà không biết quí tiếc để tạo thành, rõ ràng cần tiêu nghiệp chướng thì trước nhất cần phải tiếc phước, nên theo tốt mà xua đuổi xấu, càng cần phải tiếc phước mà không bỏ phước.

+ Con người cần phải có “luật của mình”, gọi là: “Luật của mình” tức là có thể dùng lý trí để trói buộc tư tưởng và hành vi của mình, chẳng ghen ghét, chẳng cầu cạnh, không oán giận, không khoe khoang, chẳng phóng túng, chẳng phí phạm, hay nhẫn nại, tự trọng tự ái, giữ nghĩa an thân, khoang thứ tiếp người.

+ “Quân tử an mạng, bất khả cưỡng cầu”; Phàm việc gì cũng đều ra sức chính ta, mong cho được tâm an mà thôi. Mưu sự ở nơi người, thành sự do trời, tự hỏi đã làm thiện hết chức năng và bổn phận chưa, thì có thể không thẹn không dối, bất tất gì việc vọng mà ganh cầu. Có chỗ nói rằng: “Không vọng cầu thì tâm an, không vọng làm thì thân an”. Ngoài việc vùi lấp oán hận ra, cũng không được tự khoe khoang, tự ngạo nghễ, tự mãn, tự kiêu. Cần phải làm cho được: “CHÁNH để ứng xử tâm, LIÊM (ngay thẳng) để làm luật lệ cho mình, CUNG để trên công việc, TÍN để tiếp vật, KHOANG DUNG để đãi người, KÍNH để thừa hành công việc”. Thường xuyên lúc nào cũng giữ nghĩa an thân, mọi việc đều nên trách lấy mình tha thứ cho người, thì tâm và cảnh hòa bình, tất cả bực tức phẩn nộ tự nhiên không cách nào phát khởi.

Cần phải tránh khỏi những mưa gió bạo tàn của sự biến họa tâm lý bi quan, phẩn nộ và ưu sầu xâm nhập.

+ Không nên muốn quản lý người ta, quản lý vợ con, anh em, bạn thân, phàm là chiếm được thế bề trên đều muốn quản lý, cưỡng người cho là đồng mình, cường điệu tự ta, quên mất sự tồn tại của người khác, giận dỗi, bực tức, khổ đau đều là do sự quản lý mà ra cả. Người trí thà có thể bị người khác quản lý, mà chẳng đi quản lý người ta để chuốt lấy phiền não. Chỉ cần đức hạnh tốt, ngay thẳng, lời nói tròn đầy, chẳng quản lý người, thì cũng sẽ được người khác tôn kính.

+ Riêng dung túng mình, lúc trời nóng thì nói: “Ngày hè chói chang ngủ là tốt nhất”, lúc trời lạnh, tự dặn mình đừng ra khỏi tổ ấm, để khỏi bị lạnh lẽo, công việc ngày hôm nay thì không làm xong, lại dùng cách qua loa tắc trách bảo rằng: “còn có ngày mai”, lúc tìm cầu hưởng lạc thì ngược lại nói: “sáng nay có rượu sáng nay say”. Dung túng người khác không phải là một việc tốt; Dung túng chính mình lại dễ chuốt lấy phiền phức.

+ Người thường có thói quen chỉ trích người khác, sẽ không biết tự xét mình, chẳng thể chấp nhận sai lầm, thiên kiến và hấp tấp, chẳng trải qua sự nắm chắc và xét nghiệm.

+ Một người nếu buông lung lòng ham muốn, chẳng kiểm thúc và tự chế hơn, rốt cuộc chắc chắn sẽ không thành một việc gì. Nên cần luyện tập chẳng dứt để chặn đứng “thất tình lục dục” trong tâm, chẳng bị lung lay vì chúng nó; Nên phải phục tùng mệnh lệnh của lương tâm, để nuôi dưỡng thành lực phán đoán phân biệt thiện ác, mới có thể tự chủ tự tại một cách chân chánh.

+ Gặp việc “đắc ý” thì hớn hở như cuồng, gặp việc “thất ý” thì buồn rầu lo lắng, hoàn toàn tùy thuộc vào những cảnh hoặc vui hoặc buồn ở trước mắt, tự thân không có mảy may sức làm chủ, lại còn làm sao bàn đến việc tu tâm dưỡng tánh nhẫn nại được ư!

Khổ, vui, thuận, nghịch đều là trong khoảng một niệm. Ở trong nghịch mà chẳng vì bị nghịch, bèn hóa nghịch làm thuận, chuyển phiền não thành bồ đề. Có lúc may mắn và không may mắn, chẳng ở nơi hoàn cảnh mà quyết định, mà ở nơi cảm giác chủ quan của chính mình vậy. Có lúc gom cảnh để kiểm tra tâm, càng ở chỗ đắng cay càng cảm thấy an tâm.

Chẳng luận là vui hay buồn, là phong phú hay khô gầy, là giàu có hay nghèo khó? Ðều là một cái gặp được, từ bên ngoài đem tới, những tâm tình nầy đều nên thảng nhiên mà đối diện, buồn vui tùy duyên.

Giàu có, quyền thế, ham muốn, ăn uống nhìn sắc, tôn vinh, hưởng thụ... rất nhiều phương diện. Trí tuệ, tu dưỡng, đạo đức, văn chương, chí nghiệp, trí tuệ... nhiều các phương diện. Tâm chẳng đủ, cũng như con trăn nuốt con voi, sẽ thành “nhân của phiền não, mối của tật đố, nguồn của oán hận, gốc của đau khổ, họa của sự hại thân”.

+ Bình thường mặt nở nụ cười, mọi người muốn thân cận, như cả ngày cau có mặt mày để tiếp đãi người, khiến người tránh xa, việc không như ý sẽ đến với anh. Mỉm cười là phương cách hay để xa lìa tai họa.

+ Phật giáo nêu rõ đời người có sinh, già, bệnh v.v... các đau khổ; Lại nói: “Ðời người vô thường”. Cho là muôn sự muôn vật trên thế giới, đều là nhơn duyên tạm có, đều là rõ dứt muôn biến, cho nên nói rằng tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ đều là hư huyễn, do đó khuyên người đời chẳng nên chấp trước thái quá, tức là tham luyến chẳng xả.

+ Người niệm Phật bình thường tức phải buông rời thân tâm, chuyên chí nơi tịnh niệm. Một mai sinh bệnh, lại ở trong sự bệnh hoạn mà thể nghiệm cái thân “bất tịnh” của sắc thân. Do vậy, có bệnh thì cần phải trị thuốc là nguyên tắc, trong thời gian trị liệu đương nhiên cũng có thể đồng thời tiến hành “Sám hối”, làm thiện, niệm Phật để cầu chuyển biến nghiệp báo, sớm ngày bình phục. Nếu muốn hoàn toàn nương vào sức niệm Phật, làm thiện, cầu cho bệnh bớt, thì khả năng nhân chuyển điều kiện nghiệp báo sẽ chẳng đủ mà thất bại, khiến kết quả xem được, so ra còn tồi tệ hơn trị liệu bằng bác sĩ. Do đó, người đương sự phải tin sâu nhân quả, kết quả chẳng khả quan nếu có phát sinh thì không oán, không hối, chẳng được vậy thì không nên tùy tiện buông bỏ sự trị liệu của bác sĩ. Xin nói với tất cả mọi người rằng cả hai việc đồng thời tiến hành so ra là lý tưởng. Nhưng nếu có hoạn mà bệnh, y học không có cách nào chữa trị, thế thì chỉ tốt nhất là nương vào “sám hối”, ngăn chặn việc sát sinh, nên ăn chay, niệm Phật, làm việc thiện, cầu Phật Bồ Tát Từ bi gia hộ cho sớm ngày được bình phục khỏe mạnh như cũ.

+ Người không bệnh nặng thì được rồi, bất tất vì bệnh nhỏ trên thân mà buồn rầu khổ não, đã chết chẳng được, còn so tính những gì, người ăn lương thực ngũ cốc thì ai không đau bệnh ư!

+ Coi nhẹ mình là Bát nhã (trí tuệ), xem trọng mình là chấp trước. Chúng sinh có phiền não là nhân vì có sự quan hệ của “Ngã chấp”, bỡi sự tư riêng của NGÃ là lớn, chẳng những khiến mình đau khổ, mà còn ảnh hưởng những người xunh quanh cùng đau khổ. “Quên Ngã” mới có thể ở trong sự tu tâm dưỡng tánh, tạo cho thân tâm khỏe mạnh, nhân sinh quan hạnh phúc.

+ Hàng ngày tham cứu pháp nầy, tông kia; Hàng ngày cái nầy không hiểu, cái kia không biết, học Phật tu hành thì thành một việc khổ sai. Rời cái chướng của chữ nghĩa, đó là chơn tu hành. Chẳng cần kỳ vọng rất cao đối với kinh Phật. Con người đối với thân thể, công sức, hành động mà nói thì vô lượng pháp môn là việc khó khăn chẳng tác động được người khác, bỡi vì họ không có nghĩa vụ gì để mà học cái “vô lượng” ấy. Chỉ có người trốn tránh trong đống sách, mới có thể “tham” cái vật báu vô lượng ấy, bỡi vì những điều nói trên sách đều tốt, cái nầy tốt, cái kia cũng tốt; Thiền tông tốt, Mật tông cũng tốt, Tịnh độ tông càng tốt... mọi người đều nói tốt!

+ Phật giáo cho là: “nhiều ham muốn là khổ”; Ham muốn rất nhiều, thường là gốc rễ của phiền não và khổ đau. Do đó khuyên người nên: “ít ham muốn và biết vừa đủ”. Mỗi người đều phải đong đo tài trí của mình để quyết định sự nhiều ít của lòng ham muốn; Nếu tài trí của mình không đủ, mà ngược lại cả ngày tưởng mộng nghĩ suông, đâu chẳng phải là tự chuốt tìm phiền não sao? Nhưng nên nhớ rằng, Phật giáo thật ra không cần chúng ta “dứt ham muốn”, mà chỉ nói “ít ham muốn và biết vừa đủ”. Thậm chí đến nỗi làm tổn thương thân thể, cũng là việc không được chấp nhận trong Phật giáo.

+ Học Phật tu hành mà ở nơi hoàn cảnh “thái quá” và “bất cập”, trên cơ bản là nhân chướng ngại. Hoàn cảnh quá tốt đẹp thoải mái, tâm không dễ yên tĩnh; Còn “khổ hạnh” thì dinh dưỡng không tốt, ngủ nghỉ không đủ, tạo nên sự thiếu hụt cho sức khỏe, trái lại bị lùi sụt; Cho nên hoàn cảnh lý tưởng là chẳng khổ chẳng vui.

+ Lúc đức Phật còn tại thế, nói pháp bốn mươi chín năm, những lời dạy dỗ của Ngài không việc gì là chẳng chỉ dạy cho chúng sinh sự thật đau khổ của sinh tử luân hồi, chỉ cho chúng sinh đạo lý (phương pháp) để: “Liễu sinh thoát tử”.

Pháp môn của đức Phật nói rất nhiều, sâu có, cạn có, khó có, dễ có, từng việc từng việc chẳng đồng (giống) nhau. Pháp môn và căn khí nếu tu mà chẳng khế họp với nhau, thì dùng sức nhiều mà thu được hiệu quả ít; Còn nếu cùng với căn khí khế họp nhau, thì dụng công ít mà thu được hiệu quả lớn. Ở lúc mạt pháp nầy, căn khí của đại đa số chúng sinh cùng với một pháp môn nào là khế họp nhất ư? - Nói ra thì chỉ có: TỊNH ÐỘ TÔNG với pháp môn “Trì danh niệm Phật”. Bỡi vì tu qua loa pháp môn khác, ở trong đời ác năm trược (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược) nầy là khốn khó; Nếu chuyên tu “Pháp môn trì danh niệm Phật”, thì nương vào sức nguyện đại bi của Ðức Phật A Di Ðà mà sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây, được gặp Phật nghe Pháp.

Vì pháp môn trì danh niệm Phật rất là đơn giản, rất là thẳng tắc, chỉ cần kiên trì một câu - Nam Mô A Di Ðà Phật - chí thành chuyên nhứt, niệm đến khi: Trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn. Như vậy lúc mạng chung tâm không điên đảo, tức có thể nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc, không luận là người lợi căn hay độn căn, đều có thể tu hành thọ lãnh.

Cách chung pháp môn đều nương vào tư lực, tu Giới - Ðịnh - Tuệ, thẳng đến dứt mê hoặc, mới có thể chứng được chơn (khai ngộ), nói ra thì dễ, trên thực tế không có căn cơ và công phu như nhau thì không dễ gì làm được.

Vấn đề tu hành Phật pháp, phải có tu tự lực và tu tha lực: Như học kinh, tập luật, tu mật, niệm chú, xếp bằng tham thiền v.v... các pháp môn đó là “tu tự lực”, là dựa vào sự nổ lực của mình mà tu thành, đã có thành tựu (khai ngộ) thì ra khỏi ba cõi, nếu không thành tựu thì còn lẩn quẩn trong sáu đường, lại được thân người thì phải tu lại; Tu tha lực cũng nhờ vào nổ lực tu của mình, lại nhờ vào lực gia bị hộ trì của Phật mà sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây. Không luận người thượng trí kẻ hạ ngu, dẫu ít hiểu giáo lý, chưa đoạn được nghiệp mê hoặc, chỉ cần TÍN – HẠNH – NGUYỆN đầy đủ và trì giữ câu danh hiệu Phật, lúc mạng chung tâm không điên đảo, quyết nương nhờ Phật hiệu mà tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

PHÁP MÔN TU: TỰ LỰC và THA LỰC

·TU TỰ LỰC (pháp môn chung):

Nhờ hành trì pháp môn tu tự lực, cũng giống như ra khỏi cửa đi du lịch, không nhờ vào thuyền xe, chỉ nương vào lực của đôi chân mà đi bộ, bỡi khổ nhọc nên bước đi đó cũng chậm lại, rõ ràng nhờ vào sức lực của mình, từ sáng đi đến tối - từ sinh đến tử - chưa đạt được mục đích. Cũng vậy, ra khỏi ba cõi, đành phải để ngày mai, đời sau lại tu tiếp. Tu tự lực cũng giống như đi học, người người đều đi học, nhưng người có thể được học vị học sĩ chẳng có nhiều, người được học vị bác sĩ càng ít.

·TU THA LỰC (pháp môn đặc biệt):

Tu tha lực, cũng giống như ra cữa đi du lịch, từ sáng xuất hành, lái xe máy đi tới chiều (Mạng chung), mà chưa đến được mục đích (sanh tây), có người lái xe hơi đến tiếp (nhờ Phật hiện ra tiếp dẫn), thì dễ đi đường (pháp môn rất thẳng tắc). Dẫu là người thượng trí hay kẻ hạ ngu, nam nữ già trẻ, người người đều có thể tu, đều có thể thực hành phương pháp pháp môn “trì danh niệm Phật vãng sanh Cực Lạc”.

Học Phật “tu hành” và “giải hành” cùng tiến bộ là tốt nhất, việc đáng tiếc là rất nhiều người tu hành nhân vì thời gian, sức lực và trí tuệ bị hạn chế, có hạn chế hiểu biết về Phật pháp, thường thường nắm không được điểm quan trọng của sự tu hành, mà lại đầy dẫy những cảm giác ngăn trở.

Chúng ta nhận thức một con người, cũng chẳng qua là nhận thức diện mạo thân thể của người đó đại khái mà thôi, thì biết được người đó là ai, sao lại có thể đem cả toàn thân, tay, chân, lông, tóc... từng chỗ của người đó ra mà nhận cho rõ ràng? Học Phật tu hành - pháp môn trì danh niệm Phật - cũng vậy, đâu có thể nào đem toàn bộ tam tạng kinh điển ra mà giải cho rõ ràng? Có thể đem: năm giới, mười thiện, tự tâm thanh tịnh, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, luật nhân quả đều đã rõ ràng, chấp trì một câu danh hiệu “Nam Mô A Di Ðà Phật”, tức là đã tu hành. Nắm vào tay từ sự tu thân, chánh tâm và trên thành ý, thân không làm việc ác, miệng không nói lời ác, ý không nghĩ việc ác; Làm việc thiện, nói lời tốt, giữ tâm thiện hành trì.

“Sự lý luận” trong Phật pháp, biết ít không thành vấn đề, vấn đề là biết phương pháp tu hành.


---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com