Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06_Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975), Tổ Thứ 6 Tịnh Độ Tông

10/11/202409:27(Xem: 461)
06_Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975), Tổ Thứ 6 Tịnh Độ Tông

vinh minh dien tho-4

Lược Truyện 
Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ
Tổ Thứ 6 Tịnh Độ Tông
( 904-975)

Đại sư Vĩnh Minh ( 904-975), tăng nhân thời Ngũ Đại (Bao gồm 5 triều đại: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu)cuối thời Đường, là tổ thứ 6 của Tông Tịnh Độ, tổ thứ 3 của tông Pháp Nhãn. Sư họ Vương, tự Xung Nguyên, quê ở Tiền Đường (Nay là Hàng Châu, Chiết Giang). Từ nhỏ sư tin Phật, kiêng sát sanh, thích phóng sanh. Vào thời Tiền Văn Túc Vương, sư làm quan thuế vụ, thấy cá tôm chim chóc.v.v. liền mua phóng sanh. Khi sử dụng hết tiền lương của mình, dùng đến tiền quan để mua các loài vật phóng sanh, sau bị phát giác, đáng tội chết, đưa đến phố cho quan xử trảm. Văn Mục Vương phái người xem, bảo người xử tội: Nếu thấy phạm nhân sợ thì giết, phạm nhân không sợ thì phóng thích. Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ trước khi sắp bị hành hình tự trấn tỉnh mình, sắc diện không thay đổi, nói:”Đối với tiền ngân khố, tôi không xài mảy may con cho riêng mình, tôi chỉ dùng để mua vật phóng sanh, không biết là số bao nhiêu. Nay tôi chết, sanh thẳng về thế giới Tây Phương Cực Lạc, chẳng vui sao?! Văn Mục Vương sau khi nghe vậy, liền phóng thích Đại sư khỏi tội chết.

Sau Đại sư ở Minh Châu lễ Thiền sư Thuý Nghiêm xuất gia, năm đó sư 30 tuổi. Tống Cao Tăng truyện ghi: “ Đại sư tu hành sinh hoạt ở chùa: Sư cùng chúng tăng lao tác, quên mình làm việc, ăn mặc giản dị, mặc bằng vỏ cây rừng, để qua ngày.” Ban ngày lao tác, đêm tọa thiền, mỗi ngày chỉ dùng hoa quả rừng, đời sống mười phần đạm bạc. 

Sau Đại sư tham học với Quốc sư Đức Thiệu ở Thiên Thai, ban đầu tu thiền định, đắc được huyền chỉ. Tống Cao Tăng ghi:” Vĩnh Minh Diên Thọ ở trong hội của Đức Thiệu, phổ thỉnh, nghe tiếng củi rơi, hoát nhiên khế ngộ, bèn nói: “ Rơi đổ chẳng phải vật khác, dọc ngang chẳng là trần, núi sông và đại địa, toàn hiển lộ thân Phật”. Nhân đó thành tổ thứ 3 tông Pháp Nhãn.

Sau, Đại sư ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai kết đàn tràng tu tập Sám Pháp Hoa 21 ngày, lại đến núi Thiên Trụ ở Kim Hoa tụng kinh Pháp Hoa 3 năm, tu dưỡng Phật học và công phu thiền định ngày càng tăng. Trong thời kỳ tu học ở núi Thiên Thai, khi thiền quán thấy Bồ Tát Quán Thế Âm rưới cảm lồ vào miệng, nên đạt được đại biện tài, lại trong đêm khi kinh hành, bỗng thấy hoa sen cúng dường trước tượng Bồ Tát Phổ Hiền bỗng nhiên ở nơi tay. Từ đó, Đại sư cảm nơi mình trọn thân tu hành nhưng hướng chưa có quyết định, bèn lên Thiền viện Trí Giả viết 2 thẻ: Một thẻ ghi”Nhất Tâm Thiền Quán”, còn thẻ kia ghi “Vạn Thiện Trang Nghiêm Tịnh Độ”. Sau khi tha thiết khấn nguyện, qua bảy lần rút thăm đều rút trúng thẻ “ Vạn Thiện Trang Nghiêm Tịnh Độ”. Từ đó, Đại sư hạ quyết tâm, chuyên lòng tu Tịnh nghiệp.

Đại sư trụ ở Vĩnh Minh 15 năm, đệ tử hàng ngàn người. Sư thường truyền giới Bồ Tát cho mọi người, mỗi ngày định 108 Phật sự làm thời khoá, chủ yếu trì chú, lễ Phật sám hối, tụng kinh, ngồi thiền, phóng sanh, thuyết pháp .v.v. Ban đêm ở nơi hoang vắng thí thực cho quỷ thần. Tất cả công đức đều hồi hướng cho chúng sanh để làm tư lương vãng sanh Tịnh Độ.

Niên hiệu Khai Bảo thứ 7 (974) thời Bắc Tống, tuổi đã cao, Đại sư Diên Thọ về lại núi Thiên Thai sau thời gian dài xa cách, trên núi sư mở đàn truyền giới Bồ Tát, có lần khoảng hơn vạn người người cầu thọ giới. Đây là pháp hội truyền giới trên quy mô lớn do sư chủ trì lần cuối cùng. Sau đó, Đại sư tự biết nhân duyên với trần thế không còn bao lâu nữa, liền bế môn, không tiếp khách, chuyên tâm niệm Phật, thệ sanh Tịnh Độ. Ngày 26 tháng 12 niên hiệu Khai Bảo thứ 8, thời Tống, buổi sáng sau khi thức dậy, đốt hương lễ Phật, bảo khắp đại chúng, Đại sư ngồi kiết già viên tịch, thọ thế 72 tuổi, tăng Lạp 42 năm.

Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 1 (976), môn nhân ở Đại Từ Sơn lập tháp, dựng chùa để ghi nhớ, Tống Thái Tông ban cho chùa biển ngạch”Thọ Ninh Thiền Viện “. Về sau, có vị

du tăng từ Lâm An đến nhiều năm nhiễu tháp này. Mọi người hỏi nguyên nhân. Du tăng đáp: “ Khi tôi bị bịnh trong lúc mơ màn, thấy bên phải điện có tượng một vị tăng, mà vua thường ân cần đến lễ bái, hỏi ra mới biết đó là Thiền sư Vĩnh Minh ở Hàng Châu, đã vãng sanh về Thượng phẩm Tây phương, vua vì trọng đức của Thiền sư nên kính lễ như vậy. Vì vậy, du Tăng tôi thường về đây kính lễ Đại sư và đến chiêm ngưỡng đảnh lễ bảo tháp Xá Lợi.

Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ đã kết hợp Thiền giáo, Tịnh độ và giáo lý của các tông phái khác quy hướng về Tây Phương Tịnh Độ. Đó là chỗ đặc sắc tư tưởng Phật học của Đại sư. Đại sư đồng thời chú trọng việc thể nghiệm tu hành của tự thân mình với việc tâm đắc nghiên cứu Phật học chỉnh lý thành văn tự. Tác phẩm do Đại sư trước tác gồm có: Tông Cảnh Lục, Vạn Thiện Đồng Quy, Thần Thê An Dưỡng Phú, Duy Tâm Quyết, Thọ Bồ Tát Giới, Định Tuệ Tư Lương Ca, Cảnh Thế .v.v. Hơn cả là Tứ Liệu Giản do Đại sư đề xuất có tầm ảnh hưởng rất lớn với người tu Tịnh độ trong các thế hệ về sau: 

-Có thiền có Tịnh độ, như cạp mọc sừng, hiện đời làm Thầy, đời sau làm Phật làm tổ.  

-Không Thiền có Tịnh độ vạn người tu vạn người vãng sanh, nếu được gặp Phật Di Đà lo gì không khai ngộ.  

-Có Thiền không Tịnh độ, mười người thì hết chín người lạc lối, cảnh âm hiện ra trước mắt, mờ mịt theo đó mà đi.  

-Không Thiền không Tịnh độ, giường sắt trụ đồng, muôn kiếp ngàn đời, không đâu nương cậy. 

Ngô Việt Vương Tiền Thúc thiết thiên tăng đại trai cúng dường chúng tăng trong mười phương, trai tăng xong, vua hỏi Đại sư Diên Thọ: Nay ngàn tăng vân tập, không biết có cao tăng nào giáng lâm chăng? Đại sư đáp: Hôm nay có Phật Định Quang giáng lâm, Hoà thượng có đôi tai dài là Phật Định Quảng. Vua liền đến chùa lễ bái trụ trì Hoà thượng có đôi tai dài, sám hối lỗi tiếp đãi không chu đáo. Khi đó, Hoà thượng đang thiền định, mở mắt nói 4 chữ:  “Di Đà lắm lời”! (1)Nói xong Hoà Thượng liền viên tịch. Vua nhất thời không biết ra về, lòng nghĩ Phật Định Quang nhập diệt, lại còn Phật A Di Đà ?Vua lập tức xa giá trở lại chùa Vĩnh Minh, nào ngờ vừa đến chân núi, thị giả báo cho biết Đại sư Vĩnh Minh đã Niết bàn.  Vua xúc động, hóa ra Đại sư Vĩnh Minh mới vừa viên tịch. Từ đó về sau tín đồ Phật giáo lấy ngày sinh của Đại sư ( Nông lịch là ngày 17 tháng 11) làm ngày Khánh đản của Phật A Di Đà.

Tu Viện An Lạc, California, 4:00 giờ sáng 09-11-2024

Thích Chúc Hiền ( Kính lược dịch )

———————————

(1) “Di Đà lắm lời”: là lời của Hoà Thượng có đôi tai dài ngầm ý trách Đại sư Diên Thọ.

Chuyện kể rằng:

  • Vào thời Ngũ Đại, Ngô Việt Vương cúng dường trai tăng cho ngàn vị tăng. Hôm đó có ngàn vị tăng đến, biết là trong đó có Thánh Tăng, nên không ai dám ngồi đầu bàn. Sau có Hoà thượng ăn mặc luộm thuộm, có hai trái tai dài chấm vai, ngang nhiên đến đó ngồi, thọ trai xong liền đi. Sau Ngô Việt Vương đến hỏi Đại sư Diên Thọ: “ Ngàn vị tăng đến hôm nay có vị A La Hán nào không? Đại sư Diên Thọ đáp: Vị Hoà Thượng ngồi ở đầu bàn là cổ Phật Định Quang. Ngô Việt Vương nghe xong liền phái người chạy theo. Đến nơi, Hoà thượng nói: “Di Đà lắm lời!” Nói xong Hoà thượng liền viên tịch . Mọi người quay về bẩm báo, Ngô Việt Vương bỗng nhiên tỉnh ngộ, hóa ra Đại sư Diên Thọ là Phật Di Đà tái lai, liền vội đến gặp. Khi đó tin tức lan truyền là Đại sư Diên Thọ vừa viên tịch. 



vinh minh dien tho-2

永明延壽大師(公元904~975年),唐末五代時僧人,為淨土宗六祖,亦為法眼宗三祖。俗姓王,字沖元,錢塘(今浙江杭州)人。自幼信佛,戒殺放生。錢文穆王時,做稅務官,見魚蝦飛禽等,輒買放生。自己俸薪用完,即用官錢買之放生,後被告發,罪當死。押赴市曹處斬,文穆王派人視之,指令監刑人,若見犯人懼怕即殺之,否則釋放。永明延壽大師臨刑前鎮靜自若,面不改色,說道:「我於庫錢毫無私用,盡買放生,莫知其數。今死,徑生西方極樂世界,不亦樂乎!」文穆王聽聞後,遂將大師免刑釋放。

隨後大師即於明州投翠嚴禪師出家,時年三十歲。《宋高僧傳》中記載大師在寺院的修行生活:「執勞供眾,都忘身宰,衣不繒纊,食不重味,野蔬布襦,以遣朝夕」,白天勞作,夜晚習禪,每天只以野蔬果腹,生活十分淡泊。

後參訪天台德韶國師,初習禪定,得其玄旨。《宋高僧傳》記載:「永明(延壽)在德韶會中,普請次,聞墜薪有聲,豁然契悟,乃云:撲落非他物,縱橫不是塵,山河並大地,全露法王身。」因此成為法眼宗第三代祖師。

大師後於天台山國清寺結壇修習為時二十一天的《法華懺》,又往金華天柱峰誦《法華經》,歷時三年之久,佛學修養與禪定功夫與日俱增。在天台山修學期間,於禪觀中見觀音菩薩以甘露灌其口,獲大辯才;又於中夜經行時,忽見普賢菩薩像前供養的蓮花忽然在手。由是大師感於自己終身修行趣向未有決定,遂上智者禪院做二紙鬮:一名「一心禪觀」、一名「萬善莊嚴淨土」,冥心請禱之後,歷經七次信手拈起的都是「萬善莊嚴淨土」一鬮,於是大師下定決心,一意專修淨業

從此大師發願求生西方,日誦彌陀聖號十萬聲。日暮時往別峰行道念佛,跟隨者常有數百人之多。清宵月明之夜,時聞螺貝天樂聲音。忠懿王敬重其德,聞此大為感動,歎言:「自古求西方者,未有如此之切也!」遂為大師建西方香嚴殿以成其志,賜號「智覺禪師」。

大師住永明十五年,弟子數千人。常為眾人授菩薩戒,每日定一百零八件佛事為常課,主要受持神咒、禮佛懺悔、誦經、坐禪、放生、說法等,每夜則於曠野施食鬼神。一切功德悉皆迴向眾生,以作往生淨土之資糧.

北宋開寶七年(974年),年事已高的延壽大師再次回到久別的天台山,在山上開壇傳授菩薩戒,一時引來約一萬餘求受戒者,這也是他最後一次主持大型的傳戒法會。此後,大師自知世緣無多,便閉門謝客,專心念佛,誓生淨土。宋開寶八年十二月二十六日大師晨起之後焚香禮佛,普告大眾,趺坐而化,世壽七十二歲,僧臘四十二年。

太平興國元年(976年),門人在大慈山立塔建院紀念,宋太宗賜塔院匾額曰「壽寧禪院」。後來有位從臨安來的遊僧經年繞此塔,人問其故,答曰:「我病入冥,見殿左供一僧像,王勤致禮拜,詢之乃知杭州永明禪師也,已往生西方上上品,王重其德,故禮敬耳。」因此仰慕大師,特來此瞻禮舍利寶塔。

永明延壽大師集禪教、淨土於一身,而會宗各家之說導歸西方淨土,是其佛學思想之特色所在。大師同時注重將自己的修行體驗與對佛學的研究心得整理成文字,著作有《宗鏡錄》和《萬善同歸集》、《神棲安養賦》、《唯心決》、《受菩薩戒》、《定慧相資歌》、《警世》等,尤其大師所提出的《四料簡》對後世修淨土者影響極大:

有禪有淨土,猶如帶角虎,現世為人師,來生作佛祖。
無禪有淨土,萬修萬人去,若得見彌陀,何愁不開悟。
有禪無淨土,十人九磋路,陰境若現前,瞥爾隨他去。
無禪無淨土,鐵床並銅柱,萬劫與千生,沒個人依怙。

吳越王錢俶設千僧大齋供養十方僧眾,齋僧完畢,王問壽公大師:今日千僧雲集,不知有無高僧降臨?大師答:定光佛今天降臨,即大耳和尚是也。王即前往某寺禮拜住持大耳和尚,懺悔慢待之過。此時和尚正在禪定,開目說「彌陀饒舌」四字,遂即圓寂。王一時知所措,心想定光佛入滅,還有阿彌陀佛在?立即駕返永明寺,哪知才到山門,訃告永明大師涅槃的侍者與王撞個滿懷,原來永明大師剛剛圓寂。因此後世佛教徒公定永明大師的生日(農曆十一月十七日)為阿彌陀佛聖誕。



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 7768)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 7400)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 9424)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4671)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 6729)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 20614)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 12259)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 10776)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 16107)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 6651)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]