Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05_Đại Sư Thiếu Khang, Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ

06/11/202407:42(Xem: 444)
05_Đại Sư Thiếu Khang, Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ
Thieu Khang Dai Su



Lược Truyện

Đại Sư Thiếu Khang
Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ



Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.

Ngày Đại sư sanh ra hào quang xanh khắp nhà tỏa ra mùi hương thơm của hoa Phù Dung. Đại sư có tướng mạo trang nghiêm, môi đỏ, mắt xanh, thông minh, khả ái. Thơ bé có vẻ khác thường, không giống như những đứa trẻ khác, không thích vui đùa, thường mỉm cười, ngồi ngay ngắn. Mọi người biết sư đều nhận ra sư có vẻ của một vị tướng.

Lên bảy tuổi vẫn chưa nói năng. Một hôm, mẹ sư dắt sư đến lễ Phật ở chùa Linh Sơn. Mẹ hỏi sư: “ Con biết tượng Phật không”? Đại sư bỗng nhiên đáp: “ Đây là Phật Thích Ca Mâu Ni”. Mẹ sư nghe xong rất ngạc nhiên, biết con mình nhất định là có đủ căn lành từ đời trước và có duyên với Phật nên liền cho con xuất gia tu hành

Năm 15 tuổi, sư thọ giới, học luật, sau năm hạ đã thông hiểu nghĩa lý sâu mầu của năm bộ kinh lớn như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm..v.v.
Năm 20 tuổi, sư đến chùa Long Hưng phủ Giang Ninh tỉnh Giang Tô để học kinh Hoa Nghiêm và Luận Du Già. Sau sư du phương khắp nơi để tham học với các bậc thiện tri thức

Vào niên hiệu Trinh Nguyên thứ nhất đời nhà Đường (năm 785), sư đến chiêm bái và tham học tại chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, thấy văn tự trong điện Phật phóng ra ánh sáng, tìm xét kỹ thì phát hiện nơi phát ra ánh sáng chính là từ quyển Tây Phương Hoá Đạo Văn của Đại sư Thiện Đạo, sư liền cung kính khấn nguyện: “ Nếu có duyên với Tịnh Độ thì hãy khiến cho tập sách này phát quang lần nữa”. Khấn nguyện xong thì hào quang lại hiện ra sáng rỡ. Trong hào quang ẩn hiện vô số hóa Phật và Bồ Tát. Sư thấy tướng lành ấy liền phát nguyện: “ Kiếp thạch có hết, (1) nguyện con không thay đổi”.

Từ đó trở đi, sư noi gương theo Đại sư Thiện Đạo, quy tâm Tịnh Độ để bày tỏ lòng mình sư bèn đến chùa Quang Minh ở Trường An, đến nhà tưởng niệm bia ký và tôn tượng của Đại sư Thiện Đạo để chiêm ngưỡng lễ bái. Bỗng nhiên thấy tượng chơn thân của Đại sư Thiện Đạo bay lên hư không bảo với Đại sư rằng: “ Ngươi y như sự hành trì của ta làm lợi lạc cho hữu tình thì công đức của ngươi, đồng sanh nơi An Dưỡng.”(Nghĩa là hãy noi và học phương pháp giáo hóa của ta mà giáo hóa khắp tất cả hữu tình thì công giáo hóa của ngươi liền được cùng với ta đồng sanh thế giới Cực Lạc, được thánh hiển gia trì của Đại sư Thiện Đạo lại củng cố thêm lời thệ nguyện trọn đời hoằng dương Tịnh Độ của Đại sư).

Sau Đại sư đi xuống phương Nam đến huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc tại chùa Quả Nguyện gặp một vị tăng nói với sư: “ Thầy muốn giáo hóa chúng sanh thì hãy đi Tân Định”. (2) Nói xong vị ấy liền biến mất. Đại sư y lời của vị tăng đến Tân Định ( Nay là thành phố Kiến Đức, tỉnh Chiết Giang) khéo hiển bày sự giáo hóa độ khắp chúng sanh. Sau Đại sư hành khất được một số tịnh tài, khuyến khích bọn trẻ rằng: “ Phật A Di Đà là Bổn sư của con, con niệm một danh hiệu Phật thì ta cho con một tiền”. Bọn trẻ vì tiền đua nhau niệm. Sau mấy tháng niệm Phật, bọn trẻ càng tăng tiến. Đại sư lại khéo khuyến tấn: Niệm mười câu cho một tiền. Cứ như thế, trải qua một năm khuyến hoá, nam nữ già trẻ khắp vùng Tân Định gặp Đại sư Thiếu Khang họ đều niệm A Di Đà Phật, nơi nơi được nghe danh hiệu Phật. Vì vậy, Phong trào Niệm Phật ở Chiết Giang trở nên hưng thịnh.

Đại sư thấy cơ duyên chín muồi ở núi Ô Long, sư kiến lập đạo tràng Tịnh độ, xây dựng giảng đường ba tầng để giáo hóa chúng sanh. Mỗi ngày trai giới thiện nam tín nữ vân tập đến để được sư giáo hóa có đến hơn ba ngàn người. Mỗi khi lên tòa giảng, Đại sư cao thinh xướng niệm A Di Đà Phật, mỗi một tiếng niệm nhiều người trong hội chúng thấy từ trong miệng Đại sư hiện ra một vị Phật, tụng liên tục mười tiếng thì hiện mười Phật, giống như tràng hạt châu. Đại sư nói với đại chúng rằng: “ Các ngươi thấy Phật, nhất định được vãng sanh”. Chúng đệ tử nghe lời thọ ký họ đều hoan hỷ lạ thường lại thiết tha niệm Phật. Trong chúng cũng có một số ít chưa thấy Phật buồn cảm tự trách, nhân đó càng thêm tinh tấn niệm Phật gấp bội lần.

Tháng 10, niên hiệu Trinh Nguyên thứ 21 thời nhà Đường, Đại sư Thiếu Khang triệu tập tăng chúng và đệ tử tại gia căn dặn lời di chúc sau cùng: “ Nên khởi tâm tăng tấn với Tịnh Độ, hãy khởi tâm nhàm chán xa lìa với cõi Diêm Phù Đề. Giờ đây các ngươi người nào thấy hào quang của ta là chơn thật đệ tử của ta”. Nói xong, Đại sư ngồi kiết già, thân phóng ra mấy luồng háo quang rồi an nhiên viên tịch. Khi đó, thời tiết đột nhiên thay đổi, gió thổi mạnh, hàng trăm con chim hót líu lo, núi Ô Long trong chốc lát dường như trắng xóa. Sau lễ trà tỳ, chúng đệ tử của sư dựng tháp xá lợi, thế hệ sau tôn xưng “ Hậu Thiện Đạo Tháp”.


Trích dịch từ Tịnh Độ Ngũ Tổ Thiếu Khang Đại Sư Lược Truyện
Tu Viện An Lạc An Lạc, California, 10:30 tối, 19-09-2024
Thích Chúc Hiền ( Kính dịch)


———————-
Ghi chú:
(1)劫石: Tỉ dụ cho sự lâu dài của kiếp. Theo Trí Độ Luận, quyển 5, có tảng đá rộng bốn mươi dặm, có người trường thọ mỗi năm dùng áo mềm phẩy qua tảng đá một lần cho tới khi tảng đá ấy mòn hết mà kiếp vẫn chưa hết. Do vậy, mới gọi tảng đá ấy là “kiếp thạch”.
(2) 新定(即今天的浙江省建德市): Tân Định: Nay là thành phố Kiến Đức, tỉnh Chiết Giang



Thieu Khang Dai Su




淨宗五祖少康大師略傳


少康大師,俗姓周,浙江省縉雲縣人。母親羅氏夢遊鼎湖峰,有玉女授給她一枝青蓮花說:「此青蓮花表大吉祥,寄於你所,當生貴子,冀愛護之。」意為這支青蓮花代表著大吉祥,暫時寄存於你這裡,你應生尊貴之子,希望你好好愛護他。大師降誕之日,青光遍室,散發著芙蓉的芬香。大師相貌莊嚴,朱唇碧眼,聰慧可愛,幼時即有不凡之態,與一般孩童不同,不喜玩鬧,經常含笑端坐,識者皆認為大師有將相之態。師長到七歲都未曾開口講話,一日,母親帶他到靈山寺拜佛,問他:「認識佛像不?」大師忽出言回答:「這是釋迦牟尼佛。」母親聽了甚感驚詫,心知此子定是宿具善根與佛有緣,便令兒子出家修行。師十五歲受戒,學律五夏後,已能通曉《法華經》、《楞嚴經》等五部大經的奧義。弱冠之年,往江蘇江甯龍興寺聽講《華嚴經》與《瑜伽論》。後遊歷四方,參學知識

唐貞元初(公元785年),拜學於洛陽白馬寺,見佛殿內文字大放光明,仔細探查之下,發現發光的是善導大師的《西方化導文》,即恭敬祝禱:「若與淨土有緣,當使此文再發光明。」祝禱剛剛完畢,光亮又再次閃爍。光中還隱隱約約現出無數的化佛菩薩,師睹斯瑞相,乃發誓言:「劫石可磨,我願無易矣。」

大師南下到湖北江陵,在果願寺遇一僧對他說:「你欲教化眾生,應當去新定。」說完,便消失不見。大師依言到達新定(即今天的浙江省建德市),巧施教化,廣布度生。大師行乞得錢後,勸誘兒童說:「阿彌陀佛是汝本師,能念一聲佛號,我便給你一錢。」眾兒童為了錢,爭相念佛。幾月之後,念佛兒童劇增,大師又善巧引導,念十句佛給一錢。如此經過一年的勸化,新定地區男女老少見少康大師都口念阿彌陀佛,處處得聞佛號,江浙念佛之風由此而興。

大師見機緣成熟,於是在烏龍山興建淨土道場。築造三層講壇用於教化眾生。每逢齋日,善男信女雲集而至,被教化者多達三千餘人。大師每登壇講座,即高聲唱誦阿彌陀佛。每念一聲,眾人多有見大師口中即出一佛者,連誦十聲,則出十佛,若連珠狀。大師對大眾說:「汝見佛者,決定往生。」眾弟子聽到這個授記,欣喜異常,念佛更切。亦有少數未見者,悲感自責,因而加倍精進念佛

唐貞元二十一年十月,少康大師召集僧俗弟子作最後的囑示:「當於淨土,起增進心;於閻浮提,起厭離心。汝曹此時見我光明,真我弟子。」言畢結跏趺坐,身放數道光明而化。當時,天氣陡變,狂風四起,百鳥悲鳴,烏龍山間仿佛也一時變白。遺體火化後其弟子等為師立舍利塔,後人稱之為「後善導 塔」










🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

- 🌹Thiếu Khang Liên Tông Ngũ Tổ (thơ)
- 🌹Khuyên Người Niệm Phật (thơ)

- 🌹Lược truyện Đại Sư Thiếu Khang, Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2012(Xem: 5113)
Sanh tử là vấn đề ai cũng phải trải qua nhưng không phải ai cũng có thể hiểu rõ bản chất của nó. Đứng trên quan điểm nhị nguyên, sanh tử được cho là hai thái cực trái ngược nhau và do đó nhân loại luôn tìm cách kéo dài sự sống mà lý tưởng của nó là trường sanh bất tử. Dù có nỗ lực vượt bậc, con người cũng không thể đạt được mục tiêu ấy vì lý do đơn giản, đó là quy luật của tạo hóa. Trong khi chấp nhận sự thật sanh tử, con người lại tiếp tục tìm cách lý giải hiện tượng sau khi chết với hai thái cực trái ngược nhau là không còn gì tồn tại sau khi chết (đoạn kiến) và vẫn còn sự tồn tại sau khi chết. Ở thái độ thứ hai, lại có nhiều quan điểm khác nhau. Có thuyết cho rằng linh hồn (tâm) tồn tại bất biến hay bất diệt[1](thường kiến), có thuyết cho rằng sau khi chết linh hồn tội lỗi phải chờ đợi đến ngày phán quyết cuối cùng để hoặc lên thiêng đàng hay đọa địa ngục do Chúa quyết định (Cơ đốc giáo, Hồi giáo…).[2]Phật giáo cũng khẳng định sau khi chết con người không mất hẳn mà tiếp tục luân
15/02/2012(Xem: 5411)
Phật giáo đề cập đến súc quyền như thế nào? Xuyên qua hàng trăm triệu Phật tử trên thế giới, có sư bất đồng về vấn đề cơ bản này. Lần đầu tiên tôi bỗng nhiên thích thú Phật giáo bởi vì hai nhà hàng yêu thích của tôi (Buddha’s Vegetarian Food và Lotus Garden, cả hai ở trên hướng nam đường Dundas Street bangToronto) là Phật tử, và rất cẩn thận chỉ để phục vụ thức ăn chay không có trứng. Trong một nhà hàng mà tôi cho rằng việc này là cần thiết vì các tu sĩ Phật giáo và các nữ tu ăn ở đây. Điều này giúp tôi hiểu rằng Phật giáo có lời nguyền đối với súc vật thực sự rất rất nghiêm túc.
15/02/2012(Xem: 6234)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năng và Vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng thế và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của Đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
07/02/2012(Xem: 4508)
Đã tạo nên một thái độ bình đẳng đối với bạn hữu, kẻ thù, và người trung tính, chúng ta có một nền tảng để nhìn mỗi con người như người bạn thân nhất của chúng ta. Khuynh hướng bây giờ là để phát triển một cảm giác chân thật về sự mật thiết với mọi người. Vì sự mến chuộng được phát sinh một cách dễ dàng cho bạn hữu, chúng ta cần một kỷ năng cho việc trau dồi việc nhận thức tất cả chúng sinh như bạn hữu, sử dụng chính những mối quan hệ thân hữu nhất của chính chúng ta như kiểu mẫu. Ai là người bạn thân nhất của chúng ta?
03/02/2012(Xem: 20077)
Theo lời đức Phật Thích Ca, thế giới Ta Bà có nhiều đau khổ, nên Ngài giới thiệu cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, là một thế giới hoàn toàn an vui, không còn đau khổ, để chúng sanh tu hành phát nguyện vãng sanh về cõi ấy. Thế giới ấy cũng gọi là cảnh giới Tịnh Độ, Chánh báo (thân người), Y báo (hoàn cảnh sống) trang nghiêm, thanh tịnh.
01/02/2012(Xem: 10521)
Muôn nhờ Đức Phật từ bi Giải oan cứu khổ độ về Tây Phương (Nguyễn Du) Mỗi khi gặp nhau, những người Phật tử Việt Nam thường chào hỏi với nhau bằng cách chắp tay trước ngực và niệm danh hiệu Đức Phật Di Đà, và khóa tụng kinh buổi tối thì gần như hầu hết các chùa, nhất là các chùa ở miệt nhà quê không gọi là đi tụng kinh mà gọi là đi Tịnh Độ. Điều ấy chứng tỏ rằng tín ngưỡng Di Đà đã gần như được tuyệt đại đa số xuất gia cũng như tại gia, trí thức cũng như bình dân đều hết lòng tin theo và thọ trì.
18/01/2012(Xem: 6406)
Trong hiện tại con thấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vui thích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những người không liên hệ. Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến - Lamrim [1] Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm, chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của người khác trở nên không thể chịu nổi. Vì từ ái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúng sinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũi hay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác.
07/01/2012(Xem: 5277)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
03/01/2012(Xem: 5241)
Có thể loại trừ những cảm xúc rắc rối một cách hoàn toàn, hay có thể chỉ có đè nén chúng mà thôi? Theo tuệ giác căn bản của Đạo Phật, tâm một cách cốt yếu là sáng rở và tri nhận. Do thế, những rắc rối cảm xúc không thể lưu trú trong bản chất của tâm; những thái độ chướng ngại ẩn tàng là tạm thời và nông cạn, và có thể bị loại trừ.
02/01/2012(Xem: 20826)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]