Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11_Tỉnh Am Đại Sư, Tổ Thứ Mười Một Của Tịnh Độ Tông (1686-1734)

28/09/202408:37(Xem: 559)
11_Tỉnh Am Đại Sư, Tổ Thứ Mười Một Của Tịnh Độ Tông (1686-1734)


To Su Tinh Am

Lược Truyện

Tỉnh Am Đại Sư
Tổ Thứ Mười Một Của Tịnh Độ Tông
(1686-1734)


Đại sư Tỉnh Am (1686-1734 AD) là bậc Cao Tăng thời nhà Thanh, Tổ thứ mười một của Tịnh Độ Tông. 

Sư họ Thời, Pháp danh Thật Hiền, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, quê ở huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô. Sư sanh vào ngày mùng 8 tháng 8, niên hiệu Khang Hy thứ 25 (1686) trong một gia đình trí thức. 

Sanh ra tự nhiên sư không thích ăn thịt và các thứ cay nồng. Ngay từ bé đã tỏ ra thông minh hiền hoà, sớm có chí xuất trần. Cha mất sớm. Mẹ họ Trương, biết sư có duyên với Phật liền hoàn thành chí nguyện xuất gia của sư. Bảy tuổi nương Hoà Thượng Dung Tuyển ở am Thanh Lương làm thầy, học kinh luật Phật giáo và Nho giáo.

Năm 15 tuổi, thế phát xuất gia. Sư thông minh sáng suốt, kinh điển xem qua liền nhớ, giỏi thơ văn, thư pháp. Mặc dù tinh thông giáo điển thế gian, nhưng chưa từng có khoảnh khắc nào quên việc lớn sanh tử. Một hôm, tình cờ đến chùa Phổ Nhân nhìn thấy một vị tăng ngả trên đất, đột ngột qua đời. Sư chợt nhận ra thế giới là vô thường, nên sư càng tinh tấn nhiều hơn. Sư tánh chí hiếu, sau khi mẹ qua đời, quỳ trước Phật tụng kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân đến 49 ngày. Từ đó trở đi, trong các lễ hội hàng năm và các lễ hội mùa hè, mùa đông, sư đều lập tượng cúng. 

40 tuổi, sư thọ giới Cụ Túc ở chùa Chiêu Khánh, nghiêm trì giới luật, không lìa y bát, ngày ăn một bữa vào giờ ngọ, luôn ngồi không nằm, miên mật tu tập. Vào năm Canh Dần, sư nương Pháp sư Cự Thành học “ Pháp Hoa Huyền Nghĩa”, bái kiến Pháp sư Thiệu Vân học Duy Thức, Lăng Nghiêm, Chỉ Quán. Từ đó, ngày đêm nghiên cứu tu tập, tham cầu chơn đế, chưa đến ba năm yếu chỉ của Tam Quán, Thập Thừa về Đại Thừa Phật học và pháp học về Tánh, tướng, sư đều thông hiểu rốt ráo. Pháp sư Thiệu Đàm thọ ký cho sư nối dòng Thiên Thai Chánh Tông đời thứ tư, phái Linh Phong.

Năm Giáp Ngọ, Đại sư khấu bái HT. Linh Phong ở chùa Sùng Phúc, tham thoại đầu: “Niệm Phật là ai?”, tinh tấn tu thiền, hành trì nghiêm mật suốt bốn tháng, hốt nhiên khai ngộ, nói: “Ta tỉnh mộng rồi.” Kể từ đó, trí thông minh của sư trở nên nhạy bén, suy nghĩ nhanh nhạy và tài hùng biện vô ngại. HT Linh Phong muốn đem y bát trao cho sư và truyền ngôi trụ trì. Nhưng Đại sư ôn tồn từ chối. 

Năm sau, sư nhập thất ở chùa Chơn Tịnh. Ngày đọc Đại Tạng kinh, đêm đến trì danh hiệu Phật, đêm ngày tinh tấn dụng công, đắc niệm Phật tam muội, tranh thủ thời gian chú giải bộ: Tây Phương Phát Nguyện Văn của Đại sư Liên Trì.

Ba năm mãn kỳ nhập thất, đại chúng thỉnh sư giảng Kinh Pháp Hoa. Sư thăng tòa diễn giải thao thao bất tuyệt, khiến cho thính chúng tăng tục vô cùng thán phục. Đầu xuân năm Mậu Tuất, sư trụ ở chùa Long Hưng ở Hàng Châu. Pháp sư Thiệu Đàm mời sư giảng kinh luật. Đại chúng tham dự nghe pháp thảy đều khen hay, từ đó tiếng tăm lừng lẫy. 

Mùa xuân năm Kỷ Hợi, Đại sư đến núi A Dục Vương ở Tứ Minh, chiêm ngưỡng lễ bái Xá-lợi. Trước sau năm lần đốt ngón tay cúng dường Phật, quỳ trước Phật phát bốn mươi tám nguyện lớn, cảm ứng Xá-lợi phóng quang. Từ đó về sau, hằng năm, ngày vía Phật Niết- bàn, sư giảng kinh A Di Đà và kinh Di Giáo, khai thị tâm này là Chơn thật Phật. Ba căn ( thượng, trung, hạ ) đều trùm khắp, pháp hóa rộng lớn, cả vùng Chiết Giang, bốn chúng tại gia, xuất gia đều hướng tâm quy ngưỡng.

Đại sư viết: “ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn” khích lệ bốn chúng, lời văn tha thiết, nhiều người đọc cảm động rơi lệ; như thế trải qua mười năm, pháp diên hưng thạnh. Sư từng được cung thỉnh đến giảng kinh ở các thiền tự Vĩnh Phước, Phổ Khánh, Hải Vân ..v.v. Mỗi khi đến một chùa viện nào thảy đều là bậc mô phạm một phương, thanh quy trang trọng, tạo luồng sinh khí mới. Mỗi khi giảng các bộ kinh điển Đại Thừa như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm.v.v. Thính chúng không hẹn mà cùng nhau vân tập rất đông.

Về già, sư nhập thất, ẩn tu tại chùa Tiên Lâm ở Hàng Châu, không ra khỏi cửa, nỗ lực tu tịnh nghiệp. Mùa đông năm Kỷ Dậu, các cư sĩ ở Hàng Châu như Mâu Tỉnh Viễn, Diệp Thăng, Hoàng Phủ Tử Nghi, Lý Chấp Ngọc.v.v. đến thăm và đảnh lễ, thiết tha thỉnh sư về giảng kinh tại chùa Phạm Thiên ở Phụng Sơn. Nhưng sư đã cắt đứt các duyên, thuần tu Tịnh Độ, ngày đêm sáu thời dẫn chúng niệm Phật. Mọi người đều tôn sư là Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975) tái thế. Trước sau sư trụ trì Tùng Lâm hơn mười năm, gặp khi bốn chúng đệ tử Phật đến học tập văn thư , sư liền thống thiết dạy: “ Mạng người trong hơi thở, sao có thời giờ để học chữ thế tục? Một chút lầm qua trở thành đời khác, lúc đó muốn xuất ly, sanh lên cõi trời quả thật là khó. 

Trong thời mạt pháp, sư dựng tràng tinh tấn, lấy thân mình làm phép tắc, hoằng hoá rộng khắp. Vào niên hiệu Ung Chánh thứ 7 (1715), từng cùng mọi người kết Liên Xã, đích thân soạn lời thệ, lấy mạng sống kết kỳ hạn, phân thời khóa công phu mỗi ngày làm hai mươi phần. Mười phần trì niệm danh hiệu Phật, chín phần quán tưởng niệm Phật, một phần lễ sám niệm Phật. Cứ thế đêm ngày tinh tấn không ngừng. Phong trào cùng chúng tu hành mang lại lợi ích vô cùng, số người chứng đắc có đến vài trăm. Ngày vía Phật thành đạo, mùng tám tháng chạp niên hiệu Ung Chánh thứ 11, sư bảo đệ tử: Tháng tư sang năm, ta vãng sanh Tây phương.” Từ đó, nhập thất mỗi ngày niệm Phật A Di Đà mười vạn tiếng. Đến năm thứ hai, vào ngày mùng hai tháng tư, sư ra thất, ngày mười hai, sư bảo chúng rằng: “ Mười ngày trước, ta thấy Tam Thánh Tây Phương( Di Đà, Quan Âm, Thế Chí) từ hư không đến, nay lại thấy nữa. Ta sẽ vãng sanh chăng?” Sau đó dặn dò mọi việc trong viện và từ giã chư vị cư sĩ hộ pháp trong thành. Thị giả thỉnh sư để lại thi kệ. Sư viết: 

“Thân ở trong hoa, Phật hiện tiền
Hào quang toả sáng ánh hồng liên 
Tâm theo chư Phật sanh an tịnh 
Chẳng đến chẳng đi lặng lẽ yên.”

Nói kệ xong, sư bảo: “ Ngày mười bốn ta nhất định vãng sanh. Các đệ tử tập họp cùng niệm Phật.” Ngày mười ba, sư nhịn ăn uống, mắt nhắm, an tọa đến canh năm, tắm gội xoay mặt về hướng Tây. Ngày mười bốn, lúc sắp đến giờ ngọ, sư hướng mặt về phương Tây, an nhiên thị tịch. Sau đó, người đến đưa tiễn rất đông. Sư bỗng nhiên mở mắt nhìn nói với mọi người: “ Ta đi rồi trở lại, sống chết là việc lớn, mọi người hãy tịnh tâm niệm Phật.” Nói xong, sư chấp tay, niệm A Di Đà Phật rồi vãng sanh, đến khi đậy kim quang sắc diện không đổi. Chùa Lô Sơn không có sư trụ, Vào ngày mùng tám, tháng chạp năm đó, cung nghinh linh cốt Đại sư an táng ở Tây Thuỷ, Phất Xuyên, Thường Thục. Ngày mười lăm tháng hai, niên hiệu Càng Long thứ 7 (1728), bốn chúng đệ tử.

chùa A Dục Vương, hoài niệm đạo hạnh của Đại sư, nên đã cung thỉnh linh cốt của Đại sư về dựng tháp mới thờ ở phía Tây chùa A Dục Vương. Tháp cũ thờ y bát của Đại sư. 

Đại sư xuất thế vào ngày mùng 8 tháng 8, niên hiệu Khang Hy thứ 25 ( 1686), viên tịch ngày 14 tháng 4 niên hiệu Ung Chánh thứ 20 (1734), Trụ thế: 49 tuổi, Tăng lạp: 25 năm. Thời gian Đại sư trụ thế tuy không lâu. Nhưng sự đóng góp của sư cho Tịnh Độ Tông thật to lớn. Những tác phẩm do sư viết gồm: Tịnh Độ Thi, Tây Phương Phát Nguyện Văn Chú, Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn là những kiệt tác để lại ngàn đời. Đại sư đã đem tâm Bồ đề chiếu soi cho việc tu hành Phật đạo, làm nền tảng căn bản để thành tựu tịnh nghiệp. Tác phẩm của sư không chỉ lý sự viên dung, mà sự thấy biết thấu triệt, rất khế hợp và thiết thực cho việc tu trì của tông Tịnh Độ, vả lại lời văn tha thiết, chân thành khiến người đọc vô cùng cảm động. Cư sĩ Tế Thanh và Bành Nhị Lâm đã đem tác phẩm của Đại sư san định lại thành bộ Pháp Sư Tỉnh Am Ngữ Lục. Người đọc đã nhận được những bài học tinh tế đến mức khó diễn tả hết. 

Đại sư Tỉnh Am một đời lấy việc tu hành theo kinh Phạm Võng và chí ở Tịnh Độ để tự sách tấn mình, nghiêm trì giới luật, chẳng màng danh lợi, chân tu thật chứng, biết trước giờ viên tịch. Thượng phẩm thượng sanh là chân thật bất hư ở thế giới Tây phương Cực mà chúng ta đã chứng nghiệm và cảnh giới thù thắng không gì sánh bằng của pháp môn Tịnh Độ. 


Trích dịch từ Tỉnh Am Đại Sư Lược Truyện
Đài Loan, 3:30 giờ sáng, 27-09-2024
Thích Chúc Hiền (Kính dịch)




To Su Tinh Am

淨宗十一祖省庵大師略傳

省庵大師(公元1686~1734年),清代高僧,淨土宗第十一代祖師。

俗姓時,法名實賢,字思齊,號省庵,江蘇常熟人,康熙二十五年(公元1686年)八月初八日出生於世代書香門第。

天生不食葷腥,少即聰慧醇和,夙有出世之志。父親早亡,母親張氏知其與佛有緣,便成就其出家志願。七歲時依止清涼庵容選和尚為師,學佛典教規,兼習世典儒書,十五歲剃髮出家。

師聰慧爽朗,經典過目不忘,詩文書法無一不精。雖精通世典,卻從未於頃刻之間忘記生死大事。一日,偶到普仁寺,正巧看到一位僧人倒地猝死,於是頓悟世間無常,益加鞭策自己。

師生性篤孝,母親去世後,他跪在佛前誦《大方便佛報恩經》,整整七七四十九天。此後,逢年過節及夏伏冬臘祭祀時節,都要設像供養。

二十四歲,在昭慶寺受具足戒,嚴習戒律,不離衣缽,日中一食,脇不沾席,並習以為常。庚寅年,依渠成法師,聽講《法華玄義》;拜謁紹曇法師,聽講《唯識》、《楞嚴》、《止觀》各部經論。從此晝夜研習,探求真諦。不到三年,大乘佛學三觀十乘之旨,性相之學,全部融會貫通。紹曇法師即為大師授記莂,為靈峰四世天台正宗。


甲午年,大師叩拜靈鷲和尚於崇福寺,參話頭「念佛是誰」,禪修精進,操持嚴密,四月之久,忽然開悟,說「我夢醒矣」。自此,機鋒迅利,思惟敏捷,辯才無礙。靈鷲和尚欲以衣拂相授,傳住持之位,大師婉拒而辭。


次年掩關於真寂寺,白天讀《大藏經》,夜晚持佛名號,夜以繼日精進用功,得念佛三昧,並抽時註解蓮池大師的《西方發願文》。


三年期滿,眾人請師開講《法華經》。師升座開演,口若懸河,詞如泉湧,滔滔不絕,博得在場僧俗由衷的讚許。戊戌年開春,師住於杭州隆興寺。紹曇法師命師代講經律,與會之大眾無不稱善,從此聲名遠揚。

己亥年春,師到四明阿育王山,瞻仰禮拜舍利。先後五次燃指供佛,跪在佛前發四十八大願,感應佛舍利放光。


此後每年佛涅槃日,都集合僧俗大眾,廣修供養。講演《彌陀》、《遺教》二經,開示是心是佛之真諦,三根普被,法化洋溢。江浙一帶,出家在家四眾,無不傾心歸仰。大師又著作《勸發菩提心文》,激勵四眾弟子,言語懇切,許多讀誦的人都潸然淚下。如此經歷十年,法筵之興盛,天下第一

師曾應邀到永福、普慶、海雲等禪寺講經。每到一院,必模範一方,清規肅穆,氣象一新。每講解《法華》、《楞嚴》等諸大經典時,手執經卷,請問教義的人,不約而同,雲集於大師座下


晚年退隱於杭州仙林寺,足不出戶,力修淨業。己酉年冬,杭州人茅靜遠、葉陞、皇甫子儀、李執玉等居士,監院師自躬、一葦等,力請師到鳳山梵天寺講經。師於是屏絕諸緣,純提淨土,晝夜六時,帶領大眾行道念佛,人們都說師是永明延壽大師再來。


師先後主持叢林十餘年,遇到學習詩文的佛門四眾弟子,即痛心戒勸:「人命在呼吸間,哪有閒工夫學世俗文字?稍有錯過,便成來世!那時再想出離,比登天還難。」

師於末法世,建精進幢,以身作則,廣行道化。在雍正七年曾與眾人結蓮社,並親自起草誓詞,以生命結束為期,將每日功課分為二十分,以十分持名念佛,九分觀想念佛,一分禮懺念佛,如是夜以繼日精進不已。在師的影響下,與會眾等,同修共行,得益匪淺,得度者凡數百眾

雍正十一年臘月初八佛成道日,師告訴弟子說:「明年四月,我就長往西方了。」從此,掩關於寸香齋,每日持念阿彌陀佛名號十萬聲。直至第二年甲寅歲四月二日出關。十二日,對大家說:「我十日前見到西方三聖降臨虛空,今天又見到,莫不是我該往生了。」隨後,囑咐院中事務,並遍辭城中護法居士。侍者請師留下偈言,師寫道:「身在華中佛現前,佛光來照紫金蓮。心隨諸佛往生去,無去來中事宛然。

寫竟,師說:「我十四日決定往生,你們為我集眾念佛。」十三日,師斷除飲食,閉目危坐到五更,沐浴更衣面西趺坐。十四日將近午時,師面向西方,寂然而逝.
等到為師送行的人群趕到後,師忽然又睜開雙眼,對大家說:「我去去就來。生死事大,大家各自淨心念佛。」說完,合掌連稱阿彌陀佛,就往生了,至封龕時面色不變。

虞山寺上首無住師,於這年臘月初八,奉迎大師靈骨,葬於常熟琴川拂水西。乾隆七年二月十五日,阿育王寺諸位四眾弟子,懷念大師道行,迎請大師靈骨,重建塔於阿育王寺之西,舊塔遂成為大師的衣缽塚


大師生於康熙二十五年八月初八日,示寂於雍正十二年四月十四日,世壽四十九歲,僧臘二十五年。大師住世時間雖不算長久,但對淨土宗所作的貢獻卻深廣無比。

大師撰有《淨土詩》、《西方發願文注》、《勸發菩提心文》、《續往生傳》等流布於世,其中之《勸發菩提心文》更是獨步千古,大師將菩提心視為修行佛道、圓成淨業的根本條件。其文不僅理事圓融,知見透闢,深契淨宗修持之心要,而且至誠懇切,感人至深。際清居士彭二林將大師之著作重新修訂,名為《省庵法師語錄》,讀者所得教益,微妙難以盡述。

省庵大師一生以「行在梵網,志在西方」自勵,持戒精嚴,淡泊名利,以真修實證、預知時至、上品上生為我們驗證了西方極樂世界的真實不虛和淨土法門的殊勝無比。

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2012(Xem: 5188)
Sanh tử là vấn đề ai cũng phải trải qua nhưng không phải ai cũng có thể hiểu rõ bản chất của nó. Đứng trên quan điểm nhị nguyên, sanh tử được cho là hai thái cực trái ngược nhau và do đó nhân loại luôn tìm cách kéo dài sự sống mà lý tưởng của nó là trường sanh bất tử. Dù có nỗ lực vượt bậc, con người cũng không thể đạt được mục tiêu ấy vì lý do đơn giản, đó là quy luật của tạo hóa. Trong khi chấp nhận sự thật sanh tử, con người lại tiếp tục tìm cách lý giải hiện tượng sau khi chết với hai thái cực trái ngược nhau là không còn gì tồn tại sau khi chết (đoạn kiến) và vẫn còn sự tồn tại sau khi chết. Ở thái độ thứ hai, lại có nhiều quan điểm khác nhau. Có thuyết cho rằng linh hồn (tâm) tồn tại bất biến hay bất diệt[1](thường kiến), có thuyết cho rằng sau khi chết linh hồn tội lỗi phải chờ đợi đến ngày phán quyết cuối cùng để hoặc lên thiêng đàng hay đọa địa ngục do Chúa quyết định (Cơ đốc giáo, Hồi giáo…).[2]Phật giáo cũng khẳng định sau khi chết con người không mất hẳn mà tiếp tục luân
15/02/2012(Xem: 5477)
Phật giáo đề cập đến súc quyền như thế nào? Xuyên qua hàng trăm triệu Phật tử trên thế giới, có sư bất đồng về vấn đề cơ bản này. Lần đầu tiên tôi bỗng nhiên thích thú Phật giáo bởi vì hai nhà hàng yêu thích của tôi (Buddha’s Vegetarian Food và Lotus Garden, cả hai ở trên hướng nam đường Dundas Street bangToronto) là Phật tử, và rất cẩn thận chỉ để phục vụ thức ăn chay không có trứng. Trong một nhà hàng mà tôi cho rằng việc này là cần thiết vì các tu sĩ Phật giáo và các nữ tu ăn ở đây. Điều này giúp tôi hiểu rằng Phật giáo có lời nguyền đối với súc vật thực sự rất rất nghiêm túc.
15/02/2012(Xem: 6287)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năng và Vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng thế và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của Đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
07/02/2012(Xem: 4549)
Đã tạo nên một thái độ bình đẳng đối với bạn hữu, kẻ thù, và người trung tính, chúng ta có một nền tảng để nhìn mỗi con người như người bạn thân nhất của chúng ta. Khuynh hướng bây giờ là để phát triển một cảm giác chân thật về sự mật thiết với mọi người. Vì sự mến chuộng được phát sinh một cách dễ dàng cho bạn hữu, chúng ta cần một kỷ năng cho việc trau dồi việc nhận thức tất cả chúng sinh như bạn hữu, sử dụng chính những mối quan hệ thân hữu nhất của chính chúng ta như kiểu mẫu. Ai là người bạn thân nhất của chúng ta?
03/02/2012(Xem: 20219)
Theo lời đức Phật Thích Ca, thế giới Ta Bà có nhiều đau khổ, nên Ngài giới thiệu cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, là một thế giới hoàn toàn an vui, không còn đau khổ, để chúng sanh tu hành phát nguyện vãng sanh về cõi ấy. Thế giới ấy cũng gọi là cảnh giới Tịnh Độ, Chánh báo (thân người), Y báo (hoàn cảnh sống) trang nghiêm, thanh tịnh.
01/02/2012(Xem: 10628)
Muôn nhờ Đức Phật từ bi Giải oan cứu khổ độ về Tây Phương (Nguyễn Du) Mỗi khi gặp nhau, những người Phật tử Việt Nam thường chào hỏi với nhau bằng cách chắp tay trước ngực và niệm danh hiệu Đức Phật Di Đà, và khóa tụng kinh buổi tối thì gần như hầu hết các chùa, nhất là các chùa ở miệt nhà quê không gọi là đi tụng kinh mà gọi là đi Tịnh Độ. Điều ấy chứng tỏ rằng tín ngưỡng Di Đà đã gần như được tuyệt đại đa số xuất gia cũng như tại gia, trí thức cũng như bình dân đều hết lòng tin theo và thọ trì.
18/01/2012(Xem: 6484)
Trong hiện tại con thấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vui thích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những người không liên hệ. Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến - Lamrim [1] Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm, chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của người khác trở nên không thể chịu nổi. Vì từ ái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúng sinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũi hay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác.
07/01/2012(Xem: 5363)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
03/01/2012(Xem: 5313)
Có thể loại trừ những cảm xúc rắc rối một cách hoàn toàn, hay có thể chỉ có đè nén chúng mà thôi? Theo tuệ giác căn bản của Đạo Phật, tâm một cách cốt yếu là sáng rở và tri nhận. Do thế, những rắc rối cảm xúc không thể lưu trú trong bản chất của tâm; những thái độ chướng ngại ẩn tàng là tạm thời và nông cạn, và có thể bị loại trừ.
02/01/2012(Xem: 21159)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]