- 08_Đại sư Châu Hoằng-Liên Trì (1532-1612), Tổ Thứ 08 Tịnh Độ Tông
- 09_Đại Sư Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655), Tổ Thứ Chín Của Tịnh Độ Tông
- 13_Đại Sư Ấn Quang (1861-1940), Tổ Thứ mười ba Của Tịnh Độ Tông
- 10_Đại sư Hành Sách-Triệt Lưu (1628-1682), Tổ Thứ 10 Tịnh Độ Tông
- 11_Tỉnh Am Đại Sư, Tổ Thứ Mười Một Của Tịnh Độ Tông (1686-1734)
- 12_Đại Sư Tế Tỉnh-Triệt Ngộ (1741-1810), Tổ thứ 12 của Tịnh Độ Tông
Lược Truyện
Tỉnh Am Đại Sư
Tổ Thứ Mười Một Của Tịnh Độ Tông
(1686-1734)
Đại sư Tỉnh Am (1686-1734 AD) là bậc Cao Tăng thời nhà Thanh, Tổ thứ mười một của Tịnh Độ Tông.
Sư họ Thời, Pháp danh Thật Hiền, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, quê ở huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô. Sư sanh vào ngày mùng 8 tháng 8, niên hiệu Khang Hy thứ 25 (1686) trong một gia đình trí thức.
Sanh ra tự nhiên sư không thích ăn thịt và các thứ cay nồng. Ngay từ bé đã tỏ ra thông minh hiền hoà, sớm có chí xuất trần. Cha mất sớm. Mẹ họ Trương, biết sư có duyên với Phật liền hoàn thành chí nguyện xuất gia của sư. Bảy tuổi nương Hoà Thượng Dung Tuyển ở am Thanh Lương làm thầy, học kinh luật Phật giáo và Nho giáo.
Năm 15 tuổi, thế phát xuất gia. Sư thông minh sáng suốt, kinh điển xem qua liền nhớ, giỏi thơ văn, thư pháp. Mặc dù tinh thông giáo điển thế gian, nhưng chưa từng có khoảnh khắc nào quên việc lớn sanh tử. Một hôm, tình cờ đến chùa Phổ Nhân nhìn thấy một vị tăng ngả trên đất, đột ngột qua đời. Sư chợt nhận ra thế giới là vô thường, nên sư càng tinh tấn nhiều hơn. Sư tánh chí hiếu, sau khi mẹ qua đời, quỳ trước Phật tụng kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân đến 49 ngày. Từ đó trở đi, trong các lễ hội hàng năm và các lễ hội mùa hè, mùa đông, sư đều lập tượng cúng.
40 tuổi, sư thọ giới Cụ Túc ở chùa Chiêu Khánh, nghiêm trì giới luật, không lìa y bát, ngày ăn một bữa vào giờ ngọ, luôn ngồi không nằm, miên mật tu tập. Vào năm Canh Dần, sư nương Pháp sư Cự Thành học “ Pháp Hoa Huyền Nghĩa”, bái kiến Pháp sư Thiệu Vân học Duy Thức, Lăng Nghiêm, Chỉ Quán. Từ đó, ngày đêm nghiên cứu tu tập, tham cầu chơn đế, chưa đến ba năm yếu chỉ của Tam Quán, Thập Thừa về Đại Thừa Phật học và pháp học về Tánh, tướng, sư đều thông hiểu rốt ráo. Pháp sư Thiệu Đàm thọ ký cho sư nối dòng Thiên Thai Chánh Tông đời thứ tư, phái Linh Phong.
Năm Giáp Ngọ, Đại sư khấu bái HT. Linh Phong ở chùa Sùng Phúc, tham thoại đầu: “Niệm Phật là ai?”, tinh tấn tu thiền, hành trì nghiêm mật suốt bốn tháng, hốt nhiên khai ngộ, nói: “Ta tỉnh mộng rồi.” Kể từ đó, trí thông minh của sư trở nên nhạy bén, suy nghĩ nhanh nhạy và tài hùng biện vô ngại. HT Linh Phong muốn đem y bát trao cho sư và truyền ngôi trụ trì. Nhưng Đại sư ôn tồn từ chối.
Năm sau, sư nhập thất ở chùa Chơn Tịnh. Ngày đọc Đại Tạng kinh, đêm đến trì danh hiệu Phật, đêm ngày tinh tấn dụng công, đắc niệm Phật tam muội, tranh thủ thời gian chú giải bộ: Tây Phương Phát Nguyện Văn của Đại sư Liên Trì.
Ba năm mãn kỳ nhập thất, đại chúng thỉnh sư giảng Kinh Pháp Hoa. Sư thăng tòa diễn giải thao thao bất tuyệt, khiến cho thính chúng tăng tục vô cùng thán phục. Đầu xuân năm Mậu Tuất, sư trụ ở chùa Long Hưng ở Hàng Châu. Pháp sư Thiệu Đàm mời sư giảng kinh luật. Đại chúng tham dự nghe pháp thảy đều khen hay, từ đó tiếng tăm lừng lẫy.
Mùa xuân năm Kỷ Hợi, Đại sư đến núi A Dục Vương ở Tứ Minh, chiêm ngưỡng lễ bái Xá-lợi. Trước sau năm lần đốt ngón tay cúng dường Phật, quỳ trước Phật phát bốn mươi tám nguyện lớn, cảm ứng Xá-lợi phóng quang. Từ đó về sau, hằng năm, ngày vía Phật Niết- bàn, sư giảng kinh A Di Đà và kinh Di Giáo, khai thị tâm này là Chơn thật Phật. Ba căn ( thượng, trung, hạ ) đều trùm khắp, pháp hóa rộng lớn, cả vùng Chiết Giang, bốn chúng tại gia, xuất gia đều hướng tâm quy ngưỡng.
Đại sư viết: “ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn” khích lệ bốn chúng, lời văn tha thiết, nhiều người đọc cảm động rơi lệ; như thế trải qua mười năm, pháp diên hưng thạnh. Sư từng được cung thỉnh đến giảng kinh ở các thiền tự Vĩnh Phước, Phổ Khánh, Hải Vân ..v.v. Mỗi khi đến một chùa viện nào thảy đều là bậc mô phạm một phương, thanh quy trang trọng, tạo luồng sinh khí mới. Mỗi khi giảng các bộ kinh điển Đại Thừa như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm.v.v. Thính chúng không hẹn mà cùng nhau vân tập rất đông.
Về già, sư nhập thất, ẩn tu tại chùa Tiên Lâm ở Hàng Châu, không ra khỏi cửa, nỗ lực tu tịnh nghiệp. Mùa đông năm Kỷ Dậu, các cư sĩ ở Hàng Châu như Mâu Tỉnh Viễn, Diệp Thăng, Hoàng Phủ Tử Nghi, Lý Chấp Ngọc.v.v. đến thăm và đảnh lễ, thiết tha thỉnh sư về giảng kinh tại chùa Phạm Thiên ở Phụng Sơn. Nhưng sư đã cắt đứt các duyên, thuần tu Tịnh Độ, ngày đêm sáu thời dẫn chúng niệm Phật. Mọi người đều tôn sư là Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975) tái thế. Trước sau sư trụ trì Tùng Lâm hơn mười năm, gặp khi bốn chúng đệ tử Phật đến học tập văn thư , sư liền thống thiết dạy: “ Mạng người trong hơi thở, sao có thời giờ để học chữ thế tục? Một chút lầm qua trở thành đời khác, lúc đó muốn xuất ly, sanh lên cõi trời quả thật là khó.
Trong thời mạt pháp, sư dựng tràng tinh tấn, lấy thân mình làm phép tắc, hoằng hoá rộng khắp. Vào niên hiệu Ung Chánh thứ 7 (1715), từng cùng mọi người kết Liên Xã, đích thân soạn lời thệ, lấy mạng sống kết kỳ hạn, phân thời khóa công phu mỗi ngày làm hai mươi phần. Mười phần trì niệm danh hiệu Phật, chín phần quán tưởng niệm Phật, một phần lễ sám niệm Phật. Cứ thế đêm ngày tinh tấn không ngừng. Phong trào cùng chúng tu hành mang lại lợi ích vô cùng, số người chứng đắc có đến vài trăm. Ngày vía Phật thành đạo, mùng tám tháng chạp niên hiệu Ung Chánh thứ 11, sư bảo đệ tử: Tháng tư sang năm, ta vãng sanh Tây phương.” Từ đó, nhập thất mỗi ngày niệm Phật A Di Đà mười vạn tiếng. Đến năm thứ hai, vào ngày mùng hai tháng tư, sư ra thất, ngày mười hai, sư bảo chúng rằng: “ Mười ngày trước, ta thấy Tam Thánh Tây Phương( Di Đà, Quan Âm, Thế Chí) từ hư không đến, nay lại thấy nữa. Ta sẽ vãng sanh chăng?” Sau đó dặn dò mọi việc trong viện và từ giã chư vị cư sĩ hộ pháp trong thành. Thị giả thỉnh sư để lại thi kệ. Sư viết:
“Thân ở trong hoa, Phật hiện tiền
Hào quang toả sáng ánh hồng liên
Tâm theo chư Phật sanh an tịnh
Chẳng đến chẳng đi lặng lẽ yên.”
Nói kệ xong, sư bảo: “ Ngày mười bốn ta nhất định vãng sanh. Các đệ tử tập họp cùng niệm Phật.” Ngày mười ba, sư nhịn ăn uống, mắt nhắm, an tọa đến canh năm, tắm gội xoay mặt về hướng Tây. Ngày mười bốn, lúc sắp đến giờ ngọ, sư hướng mặt về phương Tây, an nhiên thị tịch. Sau đó, người đến đưa tiễn rất đông. Sư bỗng nhiên mở mắt nhìn nói với mọi người: “ Ta đi rồi trở lại, sống chết là việc lớn, mọi người hãy tịnh tâm niệm Phật.” Nói xong, sư chấp tay, niệm A Di Đà Phật rồi vãng sanh, đến khi đậy kim quang sắc diện không đổi. Chùa Lô Sơn không có sư trụ, Vào ngày mùng tám, tháng chạp năm đó, cung nghinh linh cốt Đại sư an táng ở Tây Thuỷ, Phất Xuyên, Thường Thục. Ngày mười lăm tháng hai, niên hiệu Càng Long thứ 7 (1728), bốn chúng đệ tử.
chùa A Dục Vương, hoài niệm đạo hạnh của Đại sư, nên đã cung thỉnh linh cốt của Đại sư về dựng tháp mới thờ ở phía Tây chùa A Dục Vương. Tháp cũ thờ y bát của Đại sư.
Đại sư xuất thế vào ngày mùng 8 tháng 8, niên hiệu Khang Hy thứ 25 ( 1686), viên tịch ngày 14 tháng 4 niên hiệu Ung Chánh thứ 20 (1734), Trụ thế: 49 tuổi, Tăng lạp: 25 năm. Thời gian Đại sư trụ thế tuy không lâu. Nhưng sự đóng góp của sư cho Tịnh Độ Tông thật to lớn. Những tác phẩm do sư viết gồm: Tịnh Độ Thi, Tây Phương Phát Nguyện Văn Chú, Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn là những kiệt tác để lại ngàn đời. Đại sư đã đem tâm Bồ đề chiếu soi cho việc tu hành Phật đạo, làm nền tảng căn bản để thành tựu tịnh nghiệp. Tác phẩm của sư không chỉ lý sự viên dung, mà sự thấy biết thấu triệt, rất khế hợp và thiết thực cho việc tu trì của tông Tịnh Độ, vả lại lời văn tha thiết, chân thành khiến người đọc vô cùng cảm động. Cư sĩ Tế Thanh và Bành Nhị Lâm đã đem tác phẩm của Đại sư san định lại thành bộ Pháp Sư Tỉnh Am Ngữ Lục. Người đọc đã nhận được những bài học tinh tế đến mức khó diễn tả hết.
Đại sư Tỉnh Am một đời lấy việc tu hành theo kinh Phạm Võng và chí ở Tịnh Độ để tự sách tấn mình, nghiêm trì giới luật, chẳng màng danh lợi, chân tu thật chứng, biết trước giờ viên tịch. Thượng phẩm thượng sanh là chân thật bất hư ở thế giới Tây phương Cực mà chúng ta đã chứng nghiệm và cảnh giới thù thắng không gì sánh bằng của pháp môn Tịnh Độ.
Trích dịch từ Tỉnh Am Đại Sư Lược Truyện
Đài Loan, 3:30 giờ sáng, 27-09-2024
Thích Chúc Hiền (Kính dịch)
淨宗十一祖省庵大師略傳
省庵大師(公元1686~1734年),清代高僧,
俗姓時,法名實賢,字思齊,號省庵,江蘇常熟人,康熙二十五年(
天生不食葷腥,少即聰慧醇和,夙有出世之志。父親早亡,
師聰慧爽朗,經典過目不忘,詩文書法無一不精。雖精通世典,
師生性篤孝,母親去世後,他跪在佛前誦《大方便佛報恩經》,
二十四歲,在昭慶寺受具足戒,嚴習戒律,不離衣缽,日中一食,
甲午年,大師叩拜靈鷲和尚於崇福寺,參話頭「念佛是誰」,
次年掩關於真寂寺,白天讀《大藏經》,夜晚持佛名號,
三年期滿,眾人請師開講《法華經》。師升座開演,口若懸河,
己亥年春,師到四明阿育王山,瞻仰禮拜舍利。先後五次燃指供佛,
此後每年佛涅槃日,都集合僧俗大眾,廣修供養。講演《彌陀》、《
師曾應邀到永福、普慶、海雲等禪寺講經。每到一院,必模範一方,
晚年退隱於杭州仙林寺,足不出戶,力修淨業。己酉年冬,
師先後主持叢林十餘年,遇到學習詩文的佛門四眾弟子,
師於末法世,建精進幢,以身作則,廣行道化。
雍正十一年臘月初八佛成道日,師告訴弟子說:「明年四月,
寫竟,師說:「我十四日決定往生,你們為我集眾念佛。」十三日,
等到為師送行的人群趕到後,師忽然又睜開雙眼,對大家說:「
虞山寺上首無住師,於這年臘月初八,奉迎大師靈骨,
大師生於康熙二十五年八月初八日,示寂於雍正十二年四月十四日,
大師撰有《淨土詩》、《西方發願文注》、《勸發菩提心文》、《
省庵大師一生以「行在梵網,志在西方」自勵,持戒精嚴,