Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07-Tham vọng

29/06/201115:25(Xem: 4720)
07-Tham vọng

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Thingsby Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 7
Tham vọng

Chúng ta đã thảo luận sự cần thiết phải có tình yêu, và chúng ta đã thấy rằng người ta không thể nào tìm kiếm hay mua nó được; tuy vậy nếu không có tình yêu, tất cả những kế hoạch của chúng ta để có một trật tự xã hội hoàn hảo mà trong đó không có sự bóc lột, không có những cơ cấu luật pháp, sẽ không có ý nghĩa gì cả, và tôi nghĩ rằng rất cần thiết phải hiểu rõ việc này trong khi chúng ta còn nhỏ.

Bất kỳ nơi nào người ta đi trên thế giới, không đặt thành vấn đề nơi nào, người ta thấy rằng xã hội luôn ở trong tình trạng xung đột liên tục. Luôn luôn có những người có quyền lực, những người giàu có, những người sung túc ở bên này, và những người lao động ở bên kia; và mỗi người đang ganh đua đầy ghen tị, mỗi người đều muốn một vị trí cao hơn, đồng lương lớn hơn, quyền hành nhiều hơn, thanh danh nhiều hơn. Đó là tình trạng của thế giới, và vì vậy luôn luôn có chiến tranh xảy ra cả bên trong lẫn bên ngoài.

Bây giờ, nếu bạn và tôi muốn tạo ra một cách mạng hoàn toàn trong trật tự của xã hội, việc đầu tiên chúng ta phải hiểu rõ là cái bản năng muốn thu thập quyền hành này. Hầu hết chúng ta đều muốn quyền hành trong một hình thức này hay một hình thức khác. Chúng ta thấy rằng qua giàu có và quyền hành chúng ta sẽ có thể đi du lịch, hợp tác với những người quan trọng và trở nên nổi tiếng; hay chúng ta mơ mộng về việc tạo ra một xã hội hoàn chỉnh. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ hoàn thành được tốt lành qua quyền hành; nhưng chính sự theo đuổi quyền hành – quyền hành cho chính chúng ta, quyền hành cho quốc gia chúng ta, quyền hành cho một học thuyết – là tội lỗi, hủy diệt, bởi vì rõ ràng nó tạo ra những quyền hành đối nghịch, và vì vậy luôn luôn có xung đột.

Vậy thì, nó không đúng hay sao, rằng giáo dục phải giúp đỡ bạn, khi bạn lớn lên, nhận thức được sự quan trọng khi tạo ra một thế giới trong đó không còn xung đột cả bên trong lẫn bên ngoài, một thế giới trong đó bạn không còn xung đột với người hàng xóm của bạn hay với bất kỳ nhóm người nào bởi vì sự thôi thúc của tham vọng, mà là sự ham muốn vị trí và quyền hành, hoàn toàn chấm dứt? Và liệu có thể tạo ra một xã hội trong đó sẽ không có xung đột cả bên trong lẫn bên ngoài, hay không? Xã hội là sự liên hệ giữa bạn và tôi; và nếu sự liên hệ của chúng ta được đặt nền tảng trên tham vọng, mỗi người chúng ta muốn có quyền hành nhiều hơn người khác, vậy là rõ ràng chúng ta luôn luôn ở trong xung đột. Vì vậy nguyên nhân của xung đột này có thể xóa bỏ được hay không? Liệu tất cả chúng ta có thể giáo dục chính mình không ganh đua, không so sánh chính chúng ta với một người nào đó, không muốn chức vụ này hay chức vụ kia – nói cách khác, không tham vọng gì cả hay không?

Khi bạn đi ra ngoài trường học với cha mẹ của bạn, khi bạn đọc báo chí hay nói chuyện với con người, bạn chắc là đã nhận thấy rằng hầu hết mọi người đều muốn tạo ra một thay đổi trong thế giới. Và bộ bạn không nhận thấy rằng chính những người này lại luôn luôn xung đột với nhau về một điều này hay điều kia – về những lý tưởng, tài sản, chủng tộc, giai cấp hoặc tôn giáo hay sao? Cha mẹ của bạn, những người hàng xóm của bạn, ông bộ trưởng và những viên chức chính quyền – liệu tất cả họ không tham vọng, đấu tranh để có một vị trí tốt hơn, và vì vậy luôn luôn xung đột với người khác hay sao? Chắc chắn rằng, chỉ khi nào tất cả những ganh đua này được xóa đi thì sẽ có một xã hội hòa bình trong đó tất cả chúng ta đều sống đầy hạnh phúc, đầy sáng tạo.

Bây giờ, làm thế nào việc này có thể thực hiện được? Liệu rằng những quy định, luật pháp hay công việc rèn luyện cái trí của bạn không còn tham vọng, xóa sạch tham vọng được không? Bên ngoài bạn có lẽ được huấn luyện không tham vọng, thuộc xã hội bạn có thể chấm dứt ganh đua với những người khác; nhưng bên trong bạn vẫn còn tham vọng, phải vậy không? Và liệu rằng bạn có thể quét sạch hoàn toàn tham vọng này, mà đang mang lại quá nhiều đau khổ cho những con người hay không? Có lẽ bạn không suy nghĩ về điều này trước kia, bởi vì không ai bảo cho bạn như thế này; nhưng bây giờ khi có một người nào đó đang nói cho bạn về nó, bộ bạn không muốn tìm ra liệu có thể sống trong thế giới này một cách phong phú, tràn đầy, hạnh phúc, sáng tạo mà không có sự thôi thúc hủy hoại của tham vọng, mà không có ganh đua được không? Bộ bạn không muốn biết làm thế nào để sống, để cho cuộc sống của bạn sẽ không hủy hoại những người khác hay phủ một cái bóng trên đường đi của người ấy hay sao?

Bạn thấy đó, chúng ta nghĩ rằng đây là một giấc mộng không tưởng không bao giờ có thể tạo ra được trong thực tế; nhưng tôi không đang nói về một điều không tưởng, mà sẽ là vô lý. Liệu rằng bạn và tôi, những con người đơn giản, bình thường, có thể sống đầy sáng tạo trong thế giới này mà không có sự thôi thúc của tham vọng được bộc lộ trong nhiều cách khác nhau như là ham muốn quyền hành, chức vụ hay không? Bạn sẽ tìm ra được câu trả lời đúng đắn khi bạn yêu thích cái gì bạn đang làm. Nếu bạn là một kỹ sư chỉ bởi vì bạn phải kiếm sống, hay bởi vì người cha hay xã hội của bạn mong đợi bạn làm công việc đó, đó là một hình thức khác của cưỡng bách; và cưỡng bách trong bất kỳ hình thức nào đều tạo ra một mâu thuẫn, xung đột. Trái lại, nếu bạn thật sự yêu thích là một kỹ sư, một nhà khoa học, hay nếu bạn có thể trồng một cái cây, vẽ một bức tranh, viết một bài thơ, không phải để có được sự công nhận nhưng chỉ vì bạn yêu thích công việc đó, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng bạn không bao giờ ganh đua với ai cả. Tôi nghĩ rằng đây là chìa khóa thực sự: yêu thích cái gì bạn làm.

Nhưng khi còn nhỏ thông thường rất khó khăn để biết bạn yêu thích làm cái gì, bởi vì bạn muốn làm quá nhiều sự việc. Bạn muốn làm một kỹ sư, một tài xế xe lửa, một phi công đang bay lượn trên bầu trời xanh; hay có lẽ bạn muốn là một nhà diễn thuyết hoặc một nhà chính trị nổi tiếng. Bạn có lẽ muốn là một họa sĩ, một nhà hóa học, một nhà thơ hay một người thợ mộc. Bạn có lẽ muốn làm việc bằng trí óc của bạn, hay công việc gì đó bằng đôi tay của bạn. Liệu công việc bạn thực sự yêu thích làm này, hay sự thích thú của bạn trong chúng chỉ là một đáp ứng đến những áp lực của xã hội? Làm thế nào bạn có thể tìm ra được? Và không phải mục đích của giáo dục là giúp đỡ bạn tìm ra, để cho khi lớn lên bạn có thể bắt đầu trao toàn cái trí, tâm hồn và thân thể của bạn đến công việc mà bạn thực sự yêu thích làm hay sao?

Tìm ra công việc gì bạn yêu thích làm đòi hỏi nhiều thông minh; bởi vì, nếu bạn sợ rằng không thể kiếm sống được, hay sợ rằng không phù hợp vào cái xã hội thối nát này, vậy thì bạn sẽ không bao giờ tìm ra được. Nhưng, nếu bạn không kinh hãi, nếu bạn khước từ bị đẩy vào cái khe rãnh của truyền thống bởi cha mẹ của bạn, bởi những giáo viên của bạn, bởi những đòi hỏi giả tạo hời hợt của xã hội, vậy thì có một khả năng khám phá ra bạn thực sự yêu thích làm công việc gì. Vì vậy, muốn khám phá, phải không còn sợ hãi không tồn tại được.

Nhưng hầu hết chúng ta đều sợ hãi không tồn tại được, chúng ta nói rằng, “Việc gì sẽ xảy ra cho tôi nếu tôi không làm như cha mẹ tôi bảo, nếu tôi không phù hợp vào xã hội này?” Bị sợ hãi, chúng ta làm công việc gì chúng ta được chỉ bảo, và trong đó không còn tình yêu, chỉ còn mâu thuẫn; và mâu thuẫn phía bên trong này là một trong những yếu tố tạo ra tham vọng hủy diệt.

Vì vậy, chính chức năng căn bản của giáo dục là giúp đỡ bạn tìm ra được bạn thực sự yêu thích làm công việc gì, để rồi bạn có thể trao toàn thân tâm cho nó, bởi vì điều đó tạo ra sự cao quý của con người, mà quét sạch đi sự tầm thường, cái tinh thần tập tục nhỏ nhoi. Đó là lý do tại sao có những người giáo viên đúng đắn, bầu không khí thích hợp là rất quan trọng, để cho bạn sẽ lớn lên với tình yêu mà tự thể hiện trong công việc gì bạn đang làm. Nếu không có tình yêu này thì những kỳ thi của bạn, hiểu biết của bạn, những khả năng của bạn, vị trí của bạn và những sở hữu của bạn đều giống như tro bụi, chúng không có ý nghĩa gì cả; nếu không có tình yêu này những hành động của bạn sẽ tạo thêm nhiều cuộc chiến tranh, nhiều hận thù, nhiều tổn thương và hủy diệt.

Tất cả điều này có lẽ chẳng có ý nghĩa gì với bạn, bởi vì nhìn bên ngoài bạn vẫn còn rất trẻ, nhưng tôi hy vọng rằng nó sẽ có ý nghĩa nào đó cho những giáo viên của bạn – và cũng cho bạn, một nơi nào đó ở bên trong.

Người hỏi: Tại sao ông cảm thấy ngượng ngùng?

Krishnamurti: Bạn biết không, không là ai cả là một sự việc lạ lùng trong cuộc sống – không phải để nổi tiếng hay vĩ đại, không phải để là một người rất có học thức, không phải để là một người đổi mới hay một người cách mạng vĩ đại, chỉ không là ai cả; và khi người ta thực sự cảm thấy theo cách đó, đột nhiên bị vây quanh bởi nhiều người tò mò tạo ra một cảm giác của rút lui. Đó là tất cả.

Người hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra chân lý trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta?

Krishnamurti: Bạn nghĩ rằng chân lý là một sự việc và cuộc sống hàng ngày của bạn là một sự việc khác, và trong cuộc sống hàng ngày bạn muốn nhận ra một điều gì mà bạn gọi là chân lý. Nhưng chân lý tách rời cuộc sống hàng ngày hay sao? Khi bạn lớn lên bạn sẽ phải kiếm sống, phải vậy không? Rốt cuộc ra, đó là lý do tại sao bạn đang đậu những kỳ thi của bạn: chuẩn bị cho bạn kiếm sống. Nhưng nhiều người không thèm lưu tâm đến lãnh vực làm việc mà họ phải tham gia chừng nào họ còn đang kiếm được một số tiền nào đó. Chừng nào họ còn có một công việc làm nó không đặt thành vấn đề với họ dù rằng là một người lính, một người cảnh sát, một luật sư hay một loại người kinh doanh ma mãnh nào đó.

Bây giờ, tìm ra sự thật của điều gì cấu thành phương tiện kiếm sống đúng đắn là quan trọng, phải vậy không? Bởi vì chân lý ở trong cuộc sống của bạn, không phải tách rời khỏi nó. Cái cách bạn nói chuyện, điều gì bạn nói, cái cách bạn cười, liệu rằng bạn có lừa gạt, đùa giỡn với mọi người – tất cả cái đó là chân lý trong cuộc sống hàng ngày của bạn. Vì vậy, trước khi bạn trở thành một người lính, một người cảnh sát, một luật sư hay một người kinh doanh nhạy bén, bộ bạn không nhận thức được sự thật của những nghề nghiệp này hay sao? Chắc chắn, nếu bạn không thấy được sự thật của công việc gì bạn làm và được hướng dẫn bởi sự thật đó, cuộc sống của bạn trở thành một đống hỗn độn xấu xa.

Chúng ta hãy xem xét vấn đề liệu rằng bạn có nên trở thành một người lính hay không, bởi vì những nghề nghiệp còn lại hơi phức tạp hơn. Ngoại trừ việc tuyên truyền và điều gì người khác nói, sự thật liên quan đến nghề nghiệp của người lính là gì? Nếu một người trở thành một người lính nó có nghĩa là anh ấy phải chiến đấu bảo vệ quốc gia của anh ấy, anh ấy phải kỷ luật cái trí không được suy nghĩ nhưng vâng lời. Anh ấy phải chuẩn bị giết người hay bị giết – vì việc gì? Vì một ý tưởng mà một người nào đó, vĩ đại hay tầm thường, đã nói là đúng. Vì vậy bạn trở thành một người lính với mục đích hy sinh chính bản thân mình và giết những người khác. Đó là một nghề nghiệp đúng đắn hay sao? Đừng hỏi người nào khác, nhưng hãy tìm ra cho chính mình sự thật của vấn đề. Bạn được người ta bảo giết chóc vì một điều không tưởng tuyệt vời nào đó trong tương lai – như thể người đó biết tất cả về tương lai! Bạn nghĩ rằng giết chóc là một nghề nghiệp đúng đắn, dù rằng nó là cho quốc gia của bạn hay cho một tôn giáo có tổ chức nào đó? Giết chóc luôn luôn đúng hay sao?

Vì vậy nếu bạn muốn khám phá chân lý trong sự tiến hành mãnh liệt đó mà là cuộc sống riêng của bạn, bạn sẽ phải tìm hiểu sâu sắc tất cả những điều này; bạn sẽ phải trao toàn thân tâm của bạn cho nó. Bạn sẽ phải suy nghĩ độc lập, rõ ràng, không thành kiến vì chân lý không tách rời cuộc sống, chân lý ở trong chính chuyển động thuộc cuộc sống hàng ngày của bạn.

Người hỏi: Những hình ảnh, những người Thầy và những vị thánh không giúp chúng ta thiền định đúng hay sao?

Krishnamurti: Bạn có biết thiền định đúng là gì hay không? Bộ bạn không muốn khám phá cho chính mình sự thật của vấn đề hay sao? Và bạn sẽ khám phá được sự thật đó nếu bạn chấp nhận cái uy quyền chỉ bảo rằng thiền định đúng là gì à?

Đây là một câu hỏi rộng lớn. Muốn khám phá nghệ thuật của thiền định bạn phải hiểu rõ toàn bộ chiều sâu và hơi thở của sự tiến hành lạ lùng này được gọi là suy nghĩ. Nếu bạn chấp nhận một uy quyền nào đó nói rằng, “Thiền định theo phương pháp này,” bạn chỉ là một người tuân theo, một người đầy tớ mù quáng của một hệ thống hay một ý tưởng. Sự chấp nhận uy quyền của bạn được đặt nền tảng vào niềm hy vọng để được một kết quả, và đó không là thiền định.

Người hỏi: Bổn phận của một học sinh là gì?

Krishnamurti: Từ ngữ “bổn phận” có nghĩa là gì? Bổn phận với cái gì? Bổn phận với quốc gia của bạn tùy theo một chính trị gia phải không? Bổn phận đối với cha mẹ của bạn tùy theo những ước muốn của họ phải không? Họ sẽ nói rằng đó là bổn phận của bạn phải làm như họ chỉ bảo; và điều gì họ chỉ bảo bị quy định bởi nền tảng quá khứ của họ, truyền thống của họ, và vân vân. Và một học sinh là gì? Đó là một cậu trai hay một cô gái đi học và đọc một vài quyển sách với mục đích đậu một kỳ thi nào đó hay sao? Hay anh ấy là một học sinh luôn luôn học hỏi và vì vậy không có sự kết thúc của học hỏi? Chắc chắn rằng, người mà chỉ thông suốt một môn học, đậu một kỳ thi, và sau đó bỏ nó, không là một học sinh. Người học sinh thực sự đang nghiên cứu, đang học hỏi, đang tìm hiểu, đang khám phá, không chỉ đến khi anh ấy hai mươi tuổi hay hai mươi lăm tuổi, nhưng suốt cuộc đời.

Là một học sinh là luôn luôn học hỏi; và chừng nào bạn còn đang học hỏi, không có giáo viên, đúng vậy không? Khoảnh khắc bạn là một học sinh không có một người đặc biệt nào đó dạy bảo bạn, bởi vì bạn đang học hỏi từ mọi thứ. Chiếc lá bị thổi đi bởi cơn gió, tiếng rì rầm của những dòng nước vỗ vào hai bờ sông, đường bay của một con chim vút cao trên không trung, người đàn ông nghèo khổ đi ngang qua đang vác một bó nặng trên vai, những con người mà nghĩ rằng họ biết mọi thứ về cuộc sống – bạn đang học hỏi từ tất cả sự vật và sự việc, vì vậy không có người giáo viên và bạn không là người đi theo.

Vì vậy bổn phận của một học sinh là chỉ học hỏi. Hồi trước có một họa sĩ nổi tiếng ở Tây ban nha có tên là Goya. Ông ấy là một trong những người vĩ đại, và khi ông ấy rất già ông ấy viết bên dưới một trong những bức họa của ông, “Tôi vẫn còn đang học hỏi.” Bạn có thể học hỏi từ những quyển sách, nhưng chúng không dẫn bạn đi xa lắm đâu. Một quyển sách chỉ có thể cho bạn biết điều gì tác giả phải nói ra. Nhưng học hỏi có được qua hiểu rõ về chính mình không có giới hạn, bởi vì học hỏi qua hiểu rõ riêng của bạn là học cách lắng nghe, cách quan sát, và thế là bạn học từ mọi thứ: từ âm nhạc, từ giận dữ, tham lam, tham vọng.

Quả đất này là của chúng ta, nó không thuộc những người cộng sản, những người xã hội hay những người tư bản; nó là quả đất của bạn và của tôi, chúng ta phải được sống trên nó đầy hạnh phúc, đầy phong phú, không xung đột. Nhưng phong phú của cuộc sống đó, hạnh phúc đó, cảm thấy đó, “Quả đất này là của chúng ta,” không thể được tạo ra bởi sức mạnh, bởi luật pháp. Nó phải đến từ bên trong bởi vì chúng ta yêu quả đất và tất cả sự vật của nó; và đó là trạng thái học hỏi.

Người hỏi: Sự khác biệt giữa kính trọng và tình yêu là gì?

Krishnamurti: Bạn có thể tìm định nghĩa từ ngữ “kính trọng” và “tình yêu” trong từ điển và có được câu trả lời. Đó có là điều gì bạn muốn biết hay không? Có phải bạn muốn biết nghĩa lý hời hợt của những từ ngữ này, hay ý nghĩa đằng sau chúng?

Khi một người nổi tiếng đến, một ông bộ trưởng hay một ông thống đốc, bạn có thấy mọi người chào ông ấy như thế nào hay không? Bạn gọi đó là kính trọng phải không? Nhưng kính trọng như thế thì giả tạo, bởi vì núp sau nó là sợ hãi, tham lam. Bạn muốn một cái gì đó từ con người tội nghiệp đó, vì vậy bạn đặt một vòng hoa quanh cổ ông ấy. Đó không là kính trọng, nó chỉ là đồng tiền cắc mà bạn mua và bán ngoài chợ. Bạn không thấy kính trọng người hầu của bạn hay người dân làng, nhưng chỉ kính trọng những người mà bạn hy vọng có được một cái gì đó. Thật ra loại kính trọng đó là sợ hãi; nó không là kính trọng gì cả, nó không có ý nghĩa gì. Nhưng nếu bạn thực sự có tình yêu trong quả tim của bạn, vậy thì với bạn người thống đốc, người giáo viên, người hầu, người dân làng đều như nhau; vậy thì bạn có sự kính trọng, một cảm thấy cho tất cả họ, bởi vì tình yêu không đòi hỏi bất kỳ cái gì đáp lại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 7753)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 7388)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 9400)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4661)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 6721)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 20551)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 12258)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 10774)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 16095)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 6651)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]