Tấm lòng rộng mở THUẦN HÓA TÂM HỒN Nguyên tác: Taming the Monkey Mind Tác giả: Thupten Chodron - Dịch giả: Thích Minh Thành
MỤC LỤC
Lời Nói Đầu PHẦN 1. NHỮNG MỐI QUAN HỆ CỦA CHÚNG TA Chương I: Cha Mẹ Đối Với Con Cái Hiểu biết cha mẹ của chúng ta Chương II: Tình Bạn Thương yêu và chấp thủ Giúp đỡ bạn bè Áp lực trang lứa Giãi bày những giận hờn Chương III: Đồng Nghiệp Và Khách Hàng Sống một đời sống đạo đức Cảm nhận sâu sắc những cố gắng của mọi người Hóa giải những bất đồng Chương IV: Cuộc Sống Vợ Chồng Chương V: Tình Ái Kế hoạch hóa gia đình Chương VI: Vị Đạo Sư Tâm Linh Chọn lựa đạo sư Nghe theo lời dạy của thầy nhưng không mù quáng Làm người thành thật Thương mến không phải là chấp thủ đối với thầy PHẦN 2. CÁI NHÌN BAO QUÁT THẾ GIAN VÀ NẾP SỐNG THEO CHÁNH PHÁP Chương VII: Tâm Ý Là Kẻ Tạo Tác Ra Cảm Nhận Cái ý là kẻ tạo tác ra nghiệp Nhận lấy tái sinh Phải chăng có một khởi thủy? Ý là kẻ lý giải về hoàn cảnh của chúng ta Chương VIII: Bốn Sự Thật Cao Thượng Sự thật thứ nhất: Nỗi khổ đang có mặt Sự thật thứ hai: Nỗi khổ có những nguyên do Sự thật thứ ba: Nỗi khổ có thể được diệt trừ Sự thật thứ tư: Con đường chơn chánh Pháp tu học cao thượng về đạo đức Pháp tu học cao thượng về thiền định Pháp tu học cao thượng về trí tuệ Chương IX: Từ U Mê Đến Giác Ngộ Đời của một người là quý báu Ba chí nguyện khác nhau a) Bước thứ nhất: Có tầm nhìn vượt lên trên Niệm tưởng đến cái chết Nguy cơ tái sanh vào cõi ác Quy y Tam Bảo Nghiệp: Nguyên tắc nhân quả b) Bước thứ hai: Ước mong được giải thoát c) Bước thứ ba: Tầm cầu, lợi lạc quần sinh Chấp nhận rằng tất cả sinh linh từng là... Hồi tưởng lại công ơn của cha mẹ đối với... Mong được đáp đền ân nghĩa Lòng thương Tâm từ ái Quyết tâm hay phát đại nguyện Tâm xả thân bố thí hay tâm Bồ đề d) Những tâm thái viễn hành: Lòng từ năng động Bố thí Đạo hạnh Kiên nhẫn Hỷ tấn Thiền định Trí tuệ Chương X: Kim Chỉ Nam Cho Đời Sống Lời khuyên về từng ngôi trong Tam Bảo Lời khuyên chung về Tam Bảo Chương XI: Giới Luật Những giới điều đưa cá nhân đến bến bờ giải thoát Giới điều của Bồ Tát Giới điều của Mật Tông Thọ giới PHẦN 3. TRUYỀN THỪA LỜI PHẬT DẠY Chương XII: Cuộc Đời Của Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác Phật giáo tác động vào xã hội Chương XIII: Những Truyền Thống Phật Giáo Chương XIV: Phật Giáo Nguyên Thủy: Truyền Thống Của Những Vị Trưởng Lão Phương pháp tu tập của Phật giáo nguyên thủy Chương XV: Phật Giáo Đại Thừa: Phật Giáo Ở Viễn Đông Tịnh Độ Tông Thiền Tông Chương XVI: Kết Hợp Giữa Kinh Giáo Và Mật Giáo Lạt-ma, Geshe và Rinpoche Kim Cang Thừa Lãnh thọ pháp lực Mật Tông Quán chiếu những linh ảnh Phật giáo Chương XVII: Chùa Chiền Và Giảng Đường Sinh hoạt ở những ngôi chùa Chương XVIII: Lễ Hội Phật Giáo Lễ thành hôn, sinh nhật, và lễ tang PHẦN 4. PHẬT GIÁO NGÀY NAY Chương XIX: Phật Giáo Là Gì, Mê Tín Là Gì? Cầu nguyện cho thân nhân quá vãng Lễ cúng cô hồn và lễ hội Vu Lan Bồn Ma quỷ và thần thánh Phong thủy và bói toán Thiên nhãn Chương XX: Hài Hòa Trong Tôn Giáo Hài hòa giữa những truyền thống khác nhau Hài hòa giữa Phật giáo và những tôn giáo khác Đối thoại giữa các tôn giáo Chú thích
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà.
Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old) Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ: quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.